Phim Casablana của đạo diễn Michael
Curtiz được chiếu lần đầu tiên ở Nữu Ước
Ngày 26
tháng 11, 1942
Casablanca (phim)
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Casablanca
Thông tin phim
23 tháng 1, 1943 (Hoa Kỳ)
Quốc gia Hoa Kỳ
Ngôn ngữ Tiếng Anh
Casablanca là một bộ phim chính kịch lãng mạn của Hoa Kỳ năm
1942. Phim do đạo diễn Michael Curtiz dàn
dựng, dựa trên kịch bản sân khấu Everybody Comes to Rick's của Murray
Burnett và Joan
Alison.
Michael Curtiz (1928)
Michael Curtiz
tên thật là Manó Kertész Kaminer, sinh ra trong một gia đình Hungary gốc Do Thái. Ông được đánh giá là đạo
diễn hàng đầu của Warner Bros và là bậc thầy của
nhiều thể loại điện ảnh mà không có đạo diễn của Hollywood nào có thể sánh kịp.
Phim có diễn xuất của Humphrey Bogart, Ingrid Bergman, Paul
Henreid, Claude
Rains, Conrad
Veidt, Sydney Greenstreet, Peter
Lorre và Dooley
Wilson.
Ảnh Bogart trong trailer của Casablanca
Humphrey
DeForest Bogart, thường được biết tới với tên Humphrey Bogart (25 tháng 12 năm 1899 - 14 tháng 1 năm 1957) là một diễn viên huyền thoại
của Điện ảnh Hoa Kỳ. Tuy chỉ một lần giành Giải Oscar Nam diễn viên chính xuất sắc nhất nhưng ông được coi
là một trong những diễn viên xuất sắc nhất của Hollywood, ông là người đứng
đầu Danh sách 100 ngôi sao điện ảnh của Viện phim Mỹ.
Ingrid
Bergman sinh ngày 29 tháng 8 năm 1915 tại Stockholm, Thụy Điển. Ingrid mồ côi mẹ vào năm 2 tuổi và mồ côi cha vào
năm 12 tuổi.
Lấy bối cảnh giai đoạn đầu Chiến
tranh thế giới thứ hai, Casablanca đề
cập tới một người đàn ông bị giằng xé bởi lựa chọn khó khăn giữa tình yêu dành
cho một người phụ nữ và trách nhiệm giúp cô cùng chồng—là một lãnh tụ kháng
chiến người Tiệp Khắc—thoát
khỏi Maroc, lúc này
thuộc quyền quản lý của chính quyền Vichy Pháp thân Đức Quốc xã.
Maroc (phiên âm tiếng
Việt: Ma Rốc; Tiếng Ả Rập: المَغرِب; tiếng Berber Maroc chuẩn: ⵍⵎⵖⵔⵉⴱ;
chuyển tự: Lmeɣrib), tên
chính thức Vương quốc Maroc (Tiếng Ả Rập: المملكة المغربية; chuyển tự: al-Mamlakah al-Maghribiyah; tiếng Berber Maroc chuẩn: ⵜⴰⴳⵍⴷⵉⵜ ⵏ ⵍⵎⵖⵔⵉⴱ;
chuyển tự: Tageldit n Lmaɣrib),
là một quốc gia tại miền Bắc Phi.
Biên tập viên Irene
Diamond thuyết phục nhà sản xuất Hal
B. Wallis mua lại tác quyền vở kịch vào tháng 1
năm 1942. Hai anh em Julius và Philip G. Epstein ban đầu được chỉ định viết kịch bản cho bộ phim.
Đầu năm 1942, họ rời bỏ dự án để hợp tác trong Why
We Fight của Frank Capra. Howard
E. Koch đảm nhận kịch bản này cho tới khi anh
em nhà Epsteins trở lại một tháng sau đó. Casey
Robinson viết lại kịch bản trong ba tuần,
nhưng không được ghi nhận. Curtiz trở thành đạo diễn của bộ phim sau khi William Wyler,
lựa chọn đầu tiên của Wallis, không thể tham gia. Quá trình ghi hình chính bắt
đầu từ ngày 25 tháng 5 năm 1942, kết thúc ngày 3 tháng 8; hầu hết bộ phim quay
tại Warner Bros. Studios, Burbank, với chỉ một cảnh quay ở Sân bay Van Nuys, Los Angeles.
Burbank là một thành phố
tại quận Los Angele, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Thành phố nằm
trong Vùng Đại Los Angeles.
(Sân bay Van
Nuys (IATA: VNY, ICAO: KVNY, LID FAA: VNY) là một sân bay ở Van Nuys trong phần San Fernando Valley của giới hạn thành
phố Los Angeles, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Không có hãng hàng không
thương mại lớn nào bay đến sân bay này, nó chỉ được các máy bay thương mại nhỏ,
bay thuê chuyến và tư nhân sử dụng.)
Mặc dù là một bộ phim hạng A với dàn diễn
viên nhiều ngôi sao cùng đội ngũ sản xuất tên tuổi, không ai trong đoàn làm
phim tin rằng nó sẽ trở thành một sản phẩm vượt trội so với hàng chục bộ phim
Hollywood khác được sản xuất cùng năm. Được đưa ra rạp công chiếu sớm nhằm tận dụng sự
kiện quân Đồng minh tấn
công Bắc Phi, phim công chiếu lần đầu tiên vào ngày 26 tháng 11
năm 1942 tại Thành phố New York và ra mắt tại Mỹ vào ngày 23 tháng 1 năm 1943.
Tại phòng vé, phim thu về 3.7 triệu USD
trong lần phát hành gốc, là phim có doanh thu cao thứ 7 của năm 1943. Tại giải Oscar lần thứ 16, phim chiến thắng 3 hạng mục: "Phim hay
nhất", "Đạo
diễn xuất sắc nhất" (Curtiz) và
"Kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất" (anh em nhà Epsteins và Koch). Trải qua thời gian,
bộ phim tiếp tục được đánh giá cao và nó được coi là một trong những tác phẩm
kinh điển của điện ảnh Hollywood với nhiều câu thoại, hình tượng nhân vật và
phần nhạc phim đã trở thành mẫu mực trong lịch sử điện ảnh. Hơn 60 năm sau ngày công chiếu đầu tiên, Casablanca vẫn
thường xuyên đứng ở nhóm đầu trong các bảng xếp hạng những bộ phim hay nhất
trong lịch sử.
Nội
dung
Rick Blaine (Humphrey
Bogart) là một người Mỹ lưu vong sống tại thành phố biển Casablanca
của Maroc thuộc Pháp. Anh là ông chủ của một quán bar sang trọng kiêm sòng bạc
nổi tiếng có tên "Rick's Café Américain", nơi tập trung đủ mọi thành
phần của thành phố, từ những viên chức Vichy Pháp hay sĩ quan Đức Quốc xã cho tới những
người tị nạn bị mắc kẹt tại thành phố cảng trên đường chạy trốn cuộc chiến đang
lan rộng ở châu Âu. Có vẻ ngoài lạnh lùng và không bao giờ tiếp rượu khách tới
quán bar, Rick thực tế lại là một người Mỹ nhiệt huyết từng chiến đấu bên cạnh
những người Cộng hòa trong cuộc Nội chiến Tây Ban Nha chống lại phe phát xít
của Francisco Franco.
Franco năm 1964.
Francisco Paulino Hermenegildo Teódulo Franco y Bahamonde (4 tháng 12 năm 1892 – 20 tháng 11 năm 1975), thường được gọi là Francisco Franco phát âm: [fɾanˈθisko ˈfɾaŋko],
phiên âm tiếng Việt là Phơ-ran-xít-cô Phơ-ran-cô) hay Francisco
Franco y Bahamonde là một nhà hoạt động chính trị, quân sự và một trùm phát xít
của Tây Ban Nha.
Một buổi tối, Ugarte (Peter Lorre), vốn
kiếm sống bằng những mánh khóe lặt vặt và là khách quen của Rick, tới Rick's
Café Américain với hai tờ giấy thông hành mà gã lấy được sau khi giết chết hai
nhân viên đưa thư người Đức. Đây là những giấy tờ có giá trị cực lớn đối với
những người bị mắc kẹt ở Casablanca vì nó cho phép người mang chúng được phép
đi lại tự do trong vùng của Đức Quốc xã kiểm soát tại châu Âu, đồng nghĩa với
việc họ có thể đặt chân tới Lisboa, Bồ Đào Nha để rồi từ đó bay tới Mỹ và thoát khỏi
sự tàn khốc của cuộc chiến.
Vị trí của Lisbon ở Bồ Đào Nha
Lisboa (IPA: [liʒ'boɐ]) hay Lisbon,
là thành phố lớn nhất và là thủ đô của Bồ Đào Nha. Đây là trung tâm hành chính của quận Lisbon và của Região Lisbon (Vùng Lisbon). Thành phố Lisbon có dân số 545.245 người trong phạm vi
hành chính của mình và dân số vùng đô thị Lisbon mở rộng là 3 triệu
người trên diện tích 958
km2.
Dự định bán lại hai tờ thông hành với giá cao của Ugarte không
thành khi gã bị viên đại úy cảnh sát Louis Renault bắt ngay tại quán cà phê.
Nhưng Renault và các sĩ quan Đức Quốc xã không biết rằng trước khi bị bắt
Ugarte đã kịp giao lại hai tờ thông hành cho Rick. Cùng thời điểm với vụ bắt
giữ Ugarte, Rick gặp hai người khách mà anh không hề mong đợi, đó là người yêu
cũ của anh, Ilsa Lund (Ingrid
Bergman) cùng chồng của cô là Victor Laszlo (Paul Henreid).
Laszlo vốn là một lãnh tụ kháng chiến người Tiệp
Khắc đã từng chạy thoát khỏi trại tập trung của Đức Quốc xã và đang
tìm cách vượt khỏi Casablanca tới Mỹ nhằm tiếp tục tổ chức cuộc kháng chiến tại
châu Âu. Ilsa Lund tìm thấy người bạn là nhạc sĩ dương cầm Sam và yêu cầu chơi
bản "As Time
Goes By."
Bogart và Bergman.
Sau cuộc nói chuyện với ông Ferrari (Sydney Greenstreet), chủ
quán bar cạnh tranh với Rick Blaine, Victor Laszlo tin rằng Rick đang có hai tờ
thông hành trong tay và quyết định thuyết phục Rick nhượng chúng lại cho mình.
Trước lời đề nghị của Laszlo, Rick thẳng thừng từ chối với lời giải thích đơn
giản rằng Laszlo hãy về hỏi lý do từ người vợ của mình. Trong lúc đó bên ngoài
quán bar, các viên sĩ quan Đức đang hát vang bài hát mà họ rất tự hào là "Die Wacht am Rhein",
để đáp trả, Laszlo đề nghị ban nhạc của quán chơi bản quốc ca của Pháp "La
Marseillaise" và bắt nhịp cho toàn bộ khách trong quán hát theo át lời
người Đức. Hành động của Laszlo khiến viên thiếu tá Strasser của Đức Quốc xã
tức giận tới mức ông ta buộc đại úy cảnh sát người Pháp Renault đóng cửa ngay
lập tức cơ sở kinh doanh của Rick.
Đêm hôm đó, đích thân Ilsa tới gặp Rick tại quán cà phê sau khi Laszlo
phải tham gia một cuộc họp bí mật của những người kháng chiến. Một lần nữa Rick
từ chối giao lại hai tờ thông hành khiến Ilsa phải rút súng ra đe dọa, tuy
nhiên cô nhanh chóng thừa nhận rằng mình không thể bắn anh và rằng cô vẫn còn
rất yêu anh. Ilsa giải thích với Rick rằng khi hai người phải lòng nhau ở Paris
trong những ngày trước khi thành phố rơi vào tay người Đức, cô không biết rằng
người chồng tưởng như đã chết trong trại tập trung của cô thực tế vẫn còn sống
và thậm chí đã thoát được về ngoại ô thành phố. Đứng trước trách nhiệm chăm sóc
người chồng bị thương, cô buộc phải ở lại thành phố mà không thể tới ga tàu
cùng Rick như lời ước hẹn. Mặc dù còn tỏ ra chua cay vì mối tình tan vỡ, Rick
vẫn hứa giúp chồng Ilsa chạy thoát để rồi sau đó anh cùng cô có thể một lần nữa
sống bên nhau.
Tại quán Rick's Café Américain, Laszlo tới gặp Rick để tiết lộ
rằng mình đã biết về tình cảm của Ilsa với Rick và anh đề nghị Rick dùng những
tờ thông hành để đưa vợ mình tới nơi an toàn. Ngay lúc này Renault ập tới bắt
Laszlo khi đang giao dịch giấy thông hành với Rick, với tội danh dính líu tới
giấy tờ bị đánh cắp. Lúc này Rick trở mặt với kế hoạch vạch sẵn ban đầu vốn để
lừa Renault, rút súng buộc ông thả Laszlo và đưa cả hai vợ chồng Ilsa tới sân
bay để bắt chuyến bay đêm tới Lisboa. Tại sân bay Rick bộc lộ kế hoạch thực sự
của mình, đó là cho cả hai vợ chồng Ilsa chạy trốn vì theo Rick, Ilsa không thể
ở lại sống cùng anh bởi cô là một phần quan trọng trong cuộc chiến đấu của
Laszlo sau này. Sau đó anh còn tiếp tục giết viên sĩ quan Strasser khi ông ta
tìm cách ngăn cản chuyến bay của hai người. Chiếc máy bay chở Ilsa cùng Laszlo
cất cánh cùng lúc Renault quyết định rời bỏ Casablanca để cùng Rick tới vùng
do Chính phủ tự do Pháp quản
lý ở Brazzaville.
Brazzaville, thủ đô của Cộng hòa Congo, tọa lạc tại khu vực Đông Nam của Cộng hòa
Congo. Brazzaville nằm bên bờ sông Congo, phía hạ lưu của Vực
Malebo (tên cũ là Vực Stanley) và đối diện với thủ đô của Cộng hòa Dân chủ Congo Kinshasa.
Cả hai bước vào màn sương mù dày đặc với câu thoại cuối cùng của
Rick: "Louis, tôi nghĩ rằng đây là sự bắt đầu của một tình bạn đẹp."
("Louis, I think this is the beginning of a beautiful friendship.")
Diễn
viên
Trong vở kịch, diễn viên có tổng cộng 16 đoạn hội thoại và nhiều
cảnh bổ sung; kịch bản phim mở rộng thành 22 đoạn hội thoại và hàng trăm cảnh
bổ sung.
Dàn diễn viên của Casablanca đa dạng về quốc
tịch, chỉ có 3 trong số các diễn viên được giới thiệu là người Mỹ. Ngoài các
diễn viên chính là Paul Henreid, Conrad Veidt và Peter Lorre, nhiều vai diễn
quần chúng chủ yếu là các diễn viên châu Âu phải rời bỏ quê hương để chạy trốn
chế độ Đức Quốc xã, như Louis V. Arco, Trude Berliner, Ilka Grünig, Lotte Palfi[de], Richard Ryen, Ludwig Stössel, Hans Twardowski và Wolfgang Zilzer. Một
nhân chứng tại buổi quay cảnh phim "song đấu" giữa hai bài La
Marseillaise và Die Wacht am Rhein kể lại rằng rất
nhiều diễn viên đã khóc và "nhận ra họ chính là những người tị nạn thật
sự". Theo
Aljean Harmetz thì các diễn viên lưu vong đã đem lại cho Casablanca sự
am hiểu và cảm xúc tuyệt vọng mà nếu chỉ tuyển các diễn viên thông thường thì
bộ phim sẽ không bao giờ có.
Diễn viên hài Jack
Benny đã có thể tham gia vào một vai phụ, như lời dẫn xuất hiện
trong quảng cáo báo chí và
quyển sách thông cáo của Casablanca.
Jack Benny (tên khai sinh Benjamin Kubelsky; 14 tháng 2 năm 1894 - 26 tháng 12 năm 1974) là một diễn viên hài, diễn viên trên đài phát
thanh, truyền hình và phim ảnh, và nghệ sĩ violin người Mỹ.
Trong mục "Movie Answer Man", nhà phê bình Roger
Ebert trả lời, "Có thể là anh ấy. Tôi chỉ nói được đến
vậy." Sau
này, ông nói thêm "Đúng vậy đấy. Câu lạc bộ hâm mộ Jack Benny giờ đây có
thể được thanh minh rồi."
Roger Joseph Ebert, (18 tháng 6 năm 1942 – 4 tháng 4 năm 2013) là
một nhà phê bình phim người Mỹ từng đoạt giải Pulitzer. Ông nổi tiếng qua mục
phê bình xuất bản hàng tuần trong tờ báo Chicago
Sun-Times từ năm 1967, và sau là báo trực tuyến
Diễn viên chính
Diễn
viên chính của Casablanca. Trái qua phải: Henreid,
Bergman, Rains và Bogart.
1/ Humphrey
Bogart trong vai Rick Blaine. Vốn là ngôi sao của các bộ phim
hình sự, Rick là vai diễn lãng mạn đầu tiên của Bogart. Theo một số thông tin
thì vai diễn này từng được hãng phim nhắm cho Ronald
Reagan nhưng thực tế thì hãng Warner Bros khi đó đã biết rằng
ngôi sao này phải nhập ngũ, vì vậy họ chưa từng thực sự có ý định để Reagan
đóng vai Rick Blaine.
2/ Ingrid
Bergman trong vai Ilsa Lund. Theo trang web chính thức của Bergman
thì Ilsa là vai diễn nổi tiếng và có sức sống lâu bền nhất của ngôi sao người
Thụy Điển. Vốn
khởi đầu sự nghiệp ở Hollywood từ năm 1939 với Intermezzo, Casablanca là
thành công lớn đầu tiên của Bergman. Theo ý kiến của nhà phê bình Roger
Ebert, Ingrid Bergman đã thực sự tỏa sáng và đóng cặp rất ăn ý với
ngôi sao lớn Humphrey Bogart. Trước
Bergman, một số nữ diễn viên từng được thử vai Ilsa là Ann Sheridan, Hedy
Lamarr, Michèle
Morgan, bản thân Bergman cũng chỉ có thể tham gia bộ phim sau khi
Wallis cho David O. Selznick mượn lại một ngôi sao khác là Olivia de Havilland.
3/ Paul Henreid trong
vai Victor Laszlo. Henreid vốn là một diễn viên Áo rời quê hương từ năm 1935,
ông chỉ miễn cưỡng nhận vai Laszlo sau khi được hứa trả khoản thù lao cao hơn cả
hai Bogart và Bergman. Quan
hệ giữa Henreid và hai diễn viên chính còn lại cũng không thực sự tốt trong quá
trình quay phim, ông coi Bogart là một diễn viên "tầm thường"
("mediocre"), ngược lại Bergman cũng nhận xét rằng Henreid là một người
khó tính và hay giận dỗi.
Diễn viên phụ
1/ Claude Rains trong
vai Đại úy Louis Renault. Rains là một diễn viên Anh từng cộng tác với Curtiz
trong Những
cuộc phiêu lưu của Robin Hood.
3/ Sydney Greenstreet trong
vai Ngài Ferrari. Greenstreet là đồng hương của Rains, ông đã từng đóng chung với
Lorre và Bogart trong bộ phim nổi tiếng The
Maltese Falcon (1941).
4/ Conrad Veidt trong
vai Thiếu tá Heinrich Strasser. Veidt vốn là một diễn viên Đức từng tham gia
tác phẩm huyền thoại của điện ảnh Đức The
Cabinet of Dr. Caligari(1920) trước khi phải chạy trốn chế độ Quốc
xã.
Diễn viên khác
1/ Dooley Wilson trong
vai Sam. Wilson là một trong số rất ít các diễn viên Mỹ tham gia Casablanca.
Vốn là một tay trống, ông không hề biết chơi piano và mãi đến sau khi hoàn
thành bộ phim, nhà sản xuất Wallis vẫn có ý định lồng tiếng diễn viên khác thay
cho tiếng của Wilson trong các bài hát. Vai diễn Sam cũng từng được Hal Wallis
dự kiến là một vai nữ mà trong số các ứng cử viên có sự góp mặt của Hazel Scott và Ella
Fitzgerald.[20]
2/ Joy Page trong
vai Annina Brandel. Tuy vào vai một phụ nữ lưu vong người Bulgaria nhưng
Page lại là người Mỹ, cô là con gái của ông chủ hãng Warner Bros. Jack
Warner.
3/ S. Z. Sakall trong
vai Carl. Cũng giống như đạo diễn Curtiz và Peter Lorre, Sakall là một diễn
viên người Hungary chạy trốn chế độ Đức Quốc xã. Sakall là bạn của Curtiz từ
ngày hai người còn làm việc tại Budapest, ông
có ba người thân thiệt mạng trong các trại tập trung của Đức Quốc xã.
4/ Curt Bois trong
vai kẻ móc túi. Bois là diễn viên người Do Thái gốc Đức. Sự nghiệp điện ảnh của
ông kéo dài từ năm 1907 tới năm 1987.
5/ Leonid Kinskey trong
vai Sascha, tay pha chế người Nga đã say đắm Yvonne. Ông sinh trong một gia
đình người Do Thái tại Nga và chuyển tới Hoa Kỳ. Ông chia sẻ với Aljean Harmetz, tác
giả cuốn Round Up the Usual Suspects: The Making of Casablanca, rằng
vì ông là bạn rượu của Bogart nên mới giành được vai diễn này.[21] Leo
Mostovoy là lựa chọn đầu tiên cho vai này, nhưng bị cho là không đủ hài hước.[21]
6/ Madeleine LeBeau trong
vai Yvonne, cô bạn gái bị Rick từ chối. LeBeau kết hôn với đồng nghiệp
trong Casablanca Marcel Dalio cho
đến khi ly hôn năm 1942. Bà là diễn viên còn sống cuối cùng của đoàn làm phim,
trước khi qua đời ngày 1 tháng 5 năm 2016.[22]
7/ John Qualen trong
vai Berger. Ông sinh ra tại Canada, nhưng lớn lên ở Hoa Kỳ. Ông xuất hiện trong
nhiều bộ phim của John Ford.
Sản
xuất
Kịch bản
Kịch bản gốc của Casablanca là kịch bản sân
khấu chưa được sản xuất của Murray Burnett và Joan Alison có
tựa đề Everybody
Comes to Rick's.[23] Vở
kịch này dựa trên cảm hứng từ chuyến đi châu Âu năm 1938 của Murray Burnett,
lúc ông đã tới Viên chỉ một thời gian ngắn sau khi sự kiện Anschluss xảy
ra và tận mắt chứng kiến sự phân biệt đối xử của chính quyền Đức quốc xã. Tiếp đó, nhà biên kịch còn tới một hộp
đêm ở miền Nam nước Pháp nơi
ông gặp những khách hàng đến từ nhiều quốc gia trên thế giới và một nhạc công
mà ông lấy làm hình mẫu cho nghệ sĩ người da đen Sam trong phim sau này.[24][25] Trong
kịch bản sân khấu gốc, nhân vật Ilsa là một cô gái Mỹ có tên Lois Meredith, cô
không biết Laszlo cho tới sau khi kết thúc cuộc tình với Rick, vốn là một luật
sư, ở Paris. Để tăng tính chân thực về động cơ của Rick, Wallis, Curtiz và các
tác giả đã quyết định đưa bối cảnh bộ phim về sau khi Trận Trân Châu Cảng diễn ra.[26] Trên The
Guardian, Paul Fairclough khẳng định Cinema Vox ở Tangier là
niềm cảm hứng cho Rick's Cafe trong Casablanca. Đây là công trình
lớn nhất tại châu Phi khi khánh thành năm 1935, sức chứa 2.000 chỗ ngồi và có
một mái vòm kéo.[27]
Tangier ( /tænˈdʒɪər/; tiếng Ả Rập: طنجة Ṭanjah; Berber: ⵟⴰⵏⴵⴰ Ṭanja;
tên Berber cũ: ⵜⵉⵏⴳⵉ Tingi) là một thành phố lớn ở
miền tây bắc Maroc. Nó tọa lạc cạnh bờ biển, ở mạn tây eo biển Gibraltar, nơi Địa Trung Hải gặp Đại Tây Dươngngoài khơi Cap Spartel.
Sau khi đọc kịch bản, nhà phân tích của hãng Warner
Bros. là Stephen Karnot cho rằng đây là một "kịch bản sáo
rỗng nhưng tinh tế" ("sophisticated hokum"),[28] với
kết quả là biên tập viên Irene Diamond thuyết
phục nhà sản xuất Hal Wallis mua
lại bản quyền kịch bản Everybody Comes to Rick's với giá
20.000 USD,[29] số
tiền lớn nhất từng được trả cho một kịch bản sân khấu chưa bao giờ công diễn.[30] Sau
khi mua lại kịch bản sân khấu, các nhà sản xuất đổi tên dự án thành Casablanca nhằm
bắt chước tựa đề của bộ phim ăn khách Algiers (1938).[31] Các
biên kịch đầu tiên được giao chuyển thể tác phẩm sân khấu này là anh em Julius và Philip Epstein. Đầu
năm 1942, họ rời bỏ dự án này và chuyển sang hợp tác trong Why We Fight theo
yêu cầu Frank Capra tại Washington, DC.[32][33]
Capra during the 1930s
Frank Russell Capra (18 tháng 5 năm 1897 - 3 tháng 9 năm 1991) là một đạo diễn phim, nhà sản xuất phim và
nhà văn người Mỹ. Ông trở thành động lực sáng tạo đằng sau một số bộ phim đoạt
giải thưởng lớn của những năm 1930 và 1940. Sinh ra ở Ý và lớn lên ở Los Angeles từ khi năm tuổi, câu
chuyện thành công từ đói nghèo trở thành giàu có của ông khiến nhà nghiên cứu
điện ảnh Ian Freer coi ông là là "giấc mơ Mỹ được điển hình hóa."
Người thứ ba tham gia nhóm chuyển thể là nhà biên kịch Howard Koch, đã
viết nên 30 tới 40 trang trong lúc anh em nhà Epstein văng mặt.[33] Khi
anh em nhà Epstein trở lại khoảng một tháng sau đó, đóng góp của Koch bị loại
bỏ—ngược lại những gì Kock khẳng định trong 2 cuốn sách của mình.[33] Theo
lượng kinh phí cuối cùng mà hãng Warner
Bros. chi trả cho bộ phim, anh em nhà Epsteins nhận 30.416 USD,
trong khi Koch chỉ được trả 4.200 USD.[34]
Bài quá dài, phải cắt
bớt
Quay phim
Bộ phim được khởi quay ngày 25 tháng 5 năm 1942[46] và
hoàn thành chưa đầy ba tháng sau, vào ngày 3 tháng 8, với kinh phí 1.039.000 đô
la Mỹ (vượt dự toán 75.000 USD),[47] đây
là một số tiền không phải quá lớn nhưng cũng vượt hơn kinh phí trung bình của
một bộ phim Hollywood thời bấy giờ.[48]
Lựa chọn đầu tiên của Wallis cho vị trí đạo diễn Casablanca là William
Wyler, tuy nhiên đạo diễn nổi tiếng này không thể tham gia dự án, và
Wallis quyết định quay sang người bạn thân của mình là Michael
Curtiz, một đạo diễn vốn là người Do Thái gốc Hungarydi cư
tới Mỹ trong thập niên 1920 và có một số người thân
phải tị nạn tới Mỹ để tránh chính quyền Đức Quốc xã.[49] Một
số nhà phê bình cho rằng cách làm phim của Curtiz không đóng góp nhiều về mặt
cốt truyện cho Casablanca[50] trong
khi đó một số khác lại đánh giá cao phong cách đạo diễn của Michael Curtiz, ví
dụ Sidney Rosenzweig đã đánh giá Casablanca là điển hình cho
phong cách nhấn mạnh vào những xung đột về đạo đức của Curtiz.[51] Bên
cạnh nhóm làm phim chính của Curtiz, một tổ quay phụ cũng được thành lập dưới
sự chỉ đạo của đạo diễn Don Siegel để
thực hiện những cảnh quay về người tị nạn ở Casablanca và cảnh quân Đức tiến
vào Paris.[52]
Tất cả phân cảnh của Casablanca được quay trong
trường quay, trừ cảnh thiếu tá Strasser lái xe tới sân bay, vốn được quay trực
tiếp tại Sân bay Van Nuys.[53] Các
đường phố phục vụ cho phần ngoại cảnh Casablanca vốn vừa được
xây dựng trước đó cho bộ phim The Desert Song,[54] các nhà sản xuất chỉ cần
thay đổi sửa chữa lại để chúng phù hợp với những đường phố Paris nơi Rick và
Ilsa trải qua những giờ phút hạnh phúc. Quán bar của Rick được thiết kế gồm ba
phần riêng biệt để thuận lợi cho các góc quay khác nhau. Ở trường đoạn cuối
cùng của phim, chiếc máy bay Lockheed Model 12 Electra
Junior được làm ở dạng mô hình và để che lấp những khiếm khuyết
của nó người ta đã tận dụng tới sương
mù.[55]
Lockheed 12A F-AZLL
Lockheed Model 12 Electra
Junior, hay thông dụng hơn là Lockheed 12 hoặc L-12,
là một loại máy bay vận tải hai động cơ, làm hoàn toàn bằng kim loại, được chế
tạo vào cuối thập niên 1930 cho các công ty hàng không nhỏ, các công ty tư nhân
và cá nhân.
Mặc dù vậy, công viên chủ đề Disney's
Hollywood Studios ở Orlando,
Florida sau này lại mua hẳn một chiếc Lockheed 12A thật và tuyên
bố rằng chiếc máy bay này đã được sử dụng để quay Casablanca.[56]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Nhạc
phim
Phần nhạc phim của Casablanca được giao cho nhà
soạn nhạc nổi tiếng Max Steiner, người
vào năm 1939 đã
sáng tác phần nhạc cho bộ phim bất hủ Cuốn theo chiều gió (Gone
with the Wind). Bài hát chủ đề của phim, "As Time
Goes By" do Herman Hupfeld sáng
tác đã được Burnett chọn ngay từ kịch bản sân khấu. Steiner vốn dự định bỏ
"As Time Goes By" để thay mới hoàn toàn bằng nhạc của ông, tuy nhiên
do Bergman vừa cắt tóc ngắn cho vai diễn María trong Chuông
nguyện hồn ai(For Whom the Bell Tolls) nên cô không thể quay lại các
cảnh có xuất hiện giai điệu của As Time Goes By và kết quả là
Max Steiner quyết định dựa trên bài hát này cùng bản quốc ca Pháp "La
Marseillaise" để viết nhạc phim cho phù hợp với sự thay đổi tâm trạng
nhân vật.[60]
Trong cảnh quay đáng nhớ khi Laszlo bắt nhịp khách hàng trong
quán hát La Marseillaise át tiếng sĩ quan Đức đang hát Die Wacht am Rhein, bài
hát Đức ban đầu được chọn là "Horst Wessel Lied",
tác phẩm được coi là quốc ca thứ hai của Đức Quốc xã, tuy nhiên các nhà làm
phim đã không thể sử dụng bài hát này do nó vẫn còn hạn bản quyền. Một số bài
hát khác được sử dụng trong Casablanca, chủ yếu thông qua tiếng hát
của người nhạc công da đen Sam, là "It Had
to Be You" (1924, nhạc của Isham Jones, lời
của Gus Kahn),
"Knock on Wood"
(nhạc của M.K. Jerome, lời
của Jack Scholl) và
"Shine"
(1910, nhạc
của Ford Dabney, lời
của Cecil Mackvà Lew Brown). Từ
năm 1999, As Time Goes By được Warner
Bros. dùng làm nhạc hiệu mở đầu cho hãng.
Chiếc đàn dương cầm trong những cảnh phim hồi tưởng tại Paris
được chào mua tại hệ thốg Sotheby's, Thành phố New York vào ngày 14 tháng 12 với
giá 600.000 USD.[61] Chiếc
dương cầm của Sam tại quán Rick's Café Américain được Turner Classic Movies và Bonhams đấu
giá tại New York vào tháng 11 năm 2014, với số tiền 3.4 triệu USD.[62][63]
Danh sách
bài hát
Casablanca: Original Motion Picture Soundtrack
Album nhạc phim của Max Steiner
Phát hành 14 tháng 10 năm 1997
Thể loại Nhạc phim
Hãng đĩa Rhino / Wea
Casablanca:
Original Motion Picture Soundtrack
STT Tên bài hát Nghệ
sĩ Thời lượng
1 "Hòa âm: Main Title/Prologue (Africa...Thief)" Max Steiner 5:20
2 "Hòa âm: It Had To Be You/Shine" 2:02
3 "Knock On Wood" 1:16
4 "Rick And Renault (The Very Thought Of You - Underscore)" 1:11
5 "Arrival Of Ilsa And Victor At Rick's (Love For Sale -
Underscore)" 1:16
6 "Play It Sam...Play 'As Time Goes By' (Avalon/As Time Goes By-
Underscore)" 4:58
7 "Of All The Gin Joints In
All The Towns In The World
(Piano Improvisation -
Underscore)" 1:55
8 "Hòa âm: Paris Montage (As
Time Goes By...Menace)" 3:48
9 "Hòa âm: At La Belle Aurore
(As Time Goes By...Ilsa Returns)" 4:43
10 "Ilsa Returns To Rick's (Medley:
Ilsa Returns...La Marseillaise)" 3:11
11 "Hòa âm: Die Wacht Am
Rhein/La Marseillaise" 4:34
12 "Ilsa Demands The
Letters" 3:29
13 "Rick Confronts Ilsa And
Laszlo" 2:23
14 "Airport Finale/Here's
Looking At You Kid" 6:40
15 "Hòa âm: Shine/It Had To Be
You" 2:20
16 "Dat's What Noah Done"
1:20
17 "Knock On Wood" 1:23
18 "Hòa âm: Ilsa Returns...La
Marseillaise" 3:13
19 "Hòa âm:
Laszlo....Plane" 6:19
20 "As Time Goes By"
Phát
hành
Bộ phim được công chiếu chính thức tại Hollywood Theater ở Thành phố New York ngày 26 tháng 11 năm
1942, trùng với dịp quân Đồng minh tấn
công Bắc Phi và chiếm Casablanca.[65] Casablanca sau
đó được công chiếu rộng rãi từ ngày 23 tháng 1 năm 1943 nhằm tận dụng tiếng
vang của Hội nghị Casablanca, một
hội nghị cấp cao của phe Đồng minh với sự xuất hiện của cả thủ tướng Anh Winston
Churchill và tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt. Cơ quan
thông tin chiến tranh Hoa Kỳ(United States Office of War
Information) đã ngăn việc chiếu Casablanca cho binh lính ở Bắc
Phi vì họ sợ bộ phim sẽ khiến những người ủng hộ chính phủ Vichy Pháp tức giận.[66]
Tiếp nhận
Trong nhà hát Hollywood gồm 1.500 ghế ngồi, bộ phim thu về
255.000 USD sau hơn 10 tuần.[67] Bộ
phim đem lại cho các nhà sản xuất 3.7 triệu đô la Mỹ trong lần đầu công chiếu ở
Hoa Kỳ, đây là bộ phim ăn khách thứ 7 ở nước này trong năm 1943.[68]
Phần lớn ý kiến phê bình trong thời gian Casablanca ra
mắt lần đầu đều là tích cực.[69] Bên cạnh diễn xuất của
Bogart và Bergman, tờ Variety còn khen ngợi phim là một tác phẩm
tuyên truyền chống phe Trục tuyệt vời,[70] về đánh giá này Koch sau
đó đã nhận xét: "đó là một bộ phim khán giả cần... có những giá trị...
đáng để người ta hy sinh. Và nó được kể một cách hết sức hấp dẫn".[71] Bài phê bình phim trên
tờ The New York Times cho rằng bộ phim là một
tác phẩm cảm động tới "sởn gai ốc" và rằng các nhà làm phim đã kết
hợp rất tốt các yếu tố tình cảm, hài hước và cảm động; NY Times cũng
đánh giá cao chất lượng kịch bản và diễn xuất của dàn diễn viên trong phim.[72] Không
phải toàn bộ ý kiến phê bình đều đánh giá cao Casablanca, tờ The New
Yorker chỉ đánh giá bộ phim là "tạm được" ("pretty
tolerable").[73]Còn
theo Pauline Kael thì
bộ phim còn lâu mới có thể coi là một tác phẩm lớn mà chỉ là một bộ phim lãng
mạn rẻ tiền.[74] Tương
tự Kael, Umberto Eco đánh giá "theo bất cứ tiêu chuẩn
phê bình chính xác nào thì Casablanca cũng là một bộ phim hết
sức tầm thường" với tuyến nhân vật không phải phức tạp mà là đầy sự mâu
thuẫn.[75]
Bộ phim có một số sai sót về mặt lịch sử và lôgic.
Ví dụ tờ thông hành trong phim theo lời Ugarte là nó có chữ ký
của cả Weygard, toàn quyền Vichy Pháp tại các thuộc địa Bắc Phi, và De Gaulle,
lãnh tụ chính phủ Pháp Tự do lưu vong, trong khi thực tế thì tòa án quân sự của
chính quyền Vichy Pháp đã kết án vắng mặt De Gaulle tội phản quốc với án chung
thân vào ngày 2 tháng 8 năm 1940, vì vậy một tờ thông hành có chữ ký của De
Gaulle thì hoàn toàn vô giá trị trong lãnh thổ do Vichy Pháp quản lý.[47]
Theo Harmetz thì tờ thông hành này được Joan Allison nghĩ ra cho
kịch bản sân khấu và nó chưa bao giờ bị đặt dấu hỏi về mức độ chính xác về mặt
lịch sử.[76]
Một chi tiết không hợp lý khác là việc Laszlo được đi lại tự do
ở Casablanca sau khi trốn khỏi trại tập trung Đức Quốc xã vì "đây vẫn là
vùng chưa bị chiếm đóng của nước Pháp", chi tiết này hoàn toàn không hợp
lý vì chính quyền Vichy Pháp quản lý thành phố vốn có quan hệ cực kỳ chặt chẽ
với Đức Quốc xã và chắc chắn Laszlo phải bị bắt ngay khi xuất hiện trước mặt cảnh
sát Pháp.
Một câu thoại của Renault cũng đề cập tới chi tiết ông từng
"đi cùng người Mỹ khi họ tiến về Berlin năm 1918", thực tế thủ đô
nước Đức chưa bao giờ bị chiếm đóng trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, việc
Renault bị các sĩ quan Đức giám sát trực tiếp cũng là vô lý vì quân đội Đức
không hề chính thức có mặt ở Casablanca suốt Chiến tranh thế giới thứ hai.[47]
Casablanca còn gặp một số lỗi về tính liên tục
trên phim, điển hình là cảnh Rick ướt sũng khi tới ga tàu để rời Paris nhưng
khi anh lên tàu thì chiếc áo khoác lại khô cong, theo lời Michael Curtiz thì
những lỗi về tính liên tục Casablancagặp phải là do ông "làm
bộ phim quá nhanh và chẳng ai để ý".
Di
sản
Bài quá dài, phải cắt bớt
Ảnh hưởng
Áp phích The Good
German (2006) được thiết kế tương tự với áp
phích phim Casablanca để gợi nhớ tới bộ phim này.
Sức ảnh hưởng của Casablanca được thể hiện qua
nhiều chi tiết của bộ phim được tái hiện trong các tác phẩm điện ảnh ra đời sau
nó.
Năm 1944, bộ phim Passage to Marseille tập
hợp gần như toàn bộ dàn diễn viên chính của Casablanca với
Bogart, Rains, Curtiz, Greenstreet và Lorre.
Riêng Humphrey Bogart đã có thêm hai bộ phim có rất nhiều điểm
tương tự với Casablanca, đó là To Have
and Have Not (1944) và Sirocco (1951).
Bài quá dài, phải cắt bớt
Giải
thưởng và xếp hạng
Bài quá dài, phải cắt bớt
Chuyển
thể
Bài quá dài, phải cắt bớt
Dạng phát hành khác
Cảnh phim trong phiên bản màu gây tranh cãi
của Casablanca.
Trong thập niên 1980, Casablanca từng
được chuyển thành phim màu trong một dự án gây nhiều tranh cãi.[102] Phiên
bản màu này được phát sóng trên truyền hình và phát hành dưới dạng băng VHS tuy
nhiên chúng không được người xem đón nhận. Con trai của Humphrey Bogart là
Stephen đã nhận xét về dự án màu hóa bộ phim này như sau: "Nếu các ngài
định màu hóa Casablanca thì tại sao không thêm tay cho Tượng thần Vệ Nữ?".[93][103]
Casablanca được Warner Home Video phát
hành dưới dạng đĩa
lade vào năm 1991 và băng VHS vào
năm 1992. Tới năm 1997, bộ phim được hãng MGM phát hành dưới dạng đĩa DVD kèm
theo đoạn phim giới thiệu và một phim tài liệu ngắn nói về quá trình sản xuất.
Năm 2003 phiên bản DVD Casablanca đặc biệt gồm 2 đĩa được ra
mắt công chúng, phiên bản này ngoài nội dung phim với hình ảnh được phục chế
còn có phần bình luận và các phim tài liệu đính kèm.[104] Ngày 14 tháng 11 năm
2006, Casablanca được phát hành dưới dạng HD DVD với phần nội dung
tương tự bản DVD năm 2003.[105] Phiên
bản này được khen ngợi vì phần hình ảnh phim có chất lượng rất tốt.[106][107] Tới
năm 2008, tới lượt phiên bản Blu-ray của Casablanca xuất
hiện với một số phần kèm thêm mới.[108]
No comments:
Post a Comment