Alfred Nobel ký bản di chúc dành tài
sản của mình để lập ra giải Nobel
Ngày 27
tháng 11, 1895
·
1895 – Tại Paris, Alfred
Nobel ký bản di chúc cuối cùng, trong đó dành tài sản của mình để
lập ra giải Nobel sau khi qua đời.
Alfred Nobel
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Alfred Bernhard Nobel
Chữ ký
Alfred Bernhard Nobeltrợ giúpchi tiết (21 tháng 10 năm 1833 – 10 tháng 12 năm 1896) là
một nhà hóa học, một nhà kỹ
nghệ, nhà sản xuất vũ khí, người
phát minh ra thuốc nổ (dynamite)
và một triệu
phú người Thụy Điển.
Thụy Điển (tiếng Thụy Điển: Sverige),
tên chính thức là Vương quốc Thụy Điển (tiếng Thuỵ Điển: Konungariket Sverige), là một vương
quốc ở Bắc Âu giáp Na Uy ở phía Tây và Phần Lan ở phía Đông Bắc, nối
với Đan Mạch bằng cầu Öresund ở phía Nam, phần biên giới còn lại giáp Biển Baltic và Biển Kattegat.
Ông dùng tài sản của mình để sáng lập
ra Giải thưởng Nobel. Nguyên tố hóa học Nobelium được
đặt theo tên của ông.
(Nobelium is a synthetic chemical element with symbol No and atomic number 102. It is named in
honor of Alfred Nobel, the inventor of dynamiteand benefactor of science.
A radioactive metal, it is the tenth transuranic element and is the penultimate member of the actinide series.)
Tiểu sử
Alfred Nobel sinh ngày 21 tháng 10 năm 1833 tại Stockholm, Thụy Điển, là con trai thứ ba của nhà khoa học Immanuel Nobel (1801
- 1872) và Karolina Andriette (Ahlsell) Nobel (1805–1889).
Stockholmtrợ giúpchi tiết (phiên âm tiếng Việt: Xtốc-khôm; IPA: ['stɔkhɔlm]; UN/LOCODE:
SE STO
(phát âm tiếng Thuỵ
Điển: [ˈstɔkːˈhɔlm, ˈstɔkːˈɔlm, ˈstɔkːɔlm][8]) là thủ đô của Thụy Điển và là thành phố đông
dân nhất trong các nước Bắc Âu;[9][a] 949.761 người sống
tại khu tự quản này,[10] khoảng 1,5 triệu
người trong đô thị,[6] và 2,3 triệu người
tại vùng đô thị.[4] Thành phố trải dài
trên mười bốn hòn đảo nơi hồ Mälaren chảy vào Biển Baltic.
Hai vợ chồng có tám đứa con nhưng chỉ có Nobel và hai anh, anh
cả là Robert Nobel, anh
thứ là Ludvig Nobel, và
cậu em Emil Oskar Nobel là sống qua thời thơ ấu. Theo dòng họ nội, ông là hậu
duệ của nhà khoa học Thụy Điển danh tiếng Olaus
Rudbeck (1630–1702).
Olaus Rudbeck (also known as Olof Rudbeck the
Elder, to distinguish him from his son, and occasionally with the
surname Latinized as Olaus Rudbeckius) (12 December 1630 –
17 September 1702) was a Swedish scientist and writer, professor of medicine
at Uppsala University and for several periods rector magnificus of the same university.
Từ bé, Nobel rất hay bị ốm, nên sức khoẻ của cậu bé không được
tốt lắm. Sau vài năm, cha của Nobel rời đến Saint Peterburg để chế tạo thuỷ lôi, địa lôi và vũ khí cho quân đội Nga bành
trướng ra bên ngoài. Sau 5 năm xa cách, cuối cùng, năm 1842, cả nhà Nobel
chuyển đến Saint Peterburg, nơi bố đang làm việc.
Sankt-Peterburg (tiếng Nga: Санкт-Петербург; đọc là Xanh
Pê-téc-bua, tức là "Thành phố Thánh Phêrô") là một thành phố liên bang của Nga. Đây là thành phố lớn thứ
nhì ở Nga và cũng là cố đô
của Đế quốc Nga. Sankt-Peterburg nằm trên một loạt đảo nhỏ trong châu
thổ sông Neva; con sông này thông
với Vịnh Phần Lan, tạo vị thế hải cảng cho Sankt-Peterburg.
Nobel đặc biệt thích học văn học, nhưng
bố cậu lại muốn Nobel học khoa học (vì
Nobel có năng khiếu về khoa học kỹ thuật). Nobel cũng đành phải nghe
lời bố.Từ đó, Nobel bắt đầu nghiên cứu cùng bố và các anh về thuốc
súngvà thuỷ lôi, địa lôi.
Ít người biết rằng Alfred Nobel cũng là một nhà soạn kịch, Nemesis, một
bi kịch bốn hồi về Beatrice Cenci, một
phần lấy cảm hứng từ vở kịch thơ năm hồi của Percy Bysshe Shelley The Cenci, đã
được in khi ông hấp hối, và toàn bộ số sách đó, trừ ba bản lưu bị đốt ngay sau
khi ông chết (1896), vì bị coi là một vụ scandal và báng bổ. Cuốn xuất bản lần đầu
tiên còn lại (song ngữ tiếng Thuỵ Điển - Quốc tế
ngữ) được xuất bản tại Thuỵ Điển năm 2003. Vở kịch (tháng 5 năm
2003) vẫn chưa được dịch ra bất cứ một thứ tiếng nào ngoài Quốc tế ngữ.
Năm 1853, cuộc chiến Krim nổ ra, nước Nga đối đầu
với liên quân ba nước Anh-Pháp-Thổ Nhĩ Kỳ. Nhà máy Nobel càng bận rộn hơn. Tuy
nhiên, sau khi Nga bại trận, nhà máy Nobel bị phá sản vì nguồn nợ quá lớn. Cả
gia đình phải trở về Thuỵ Điển.
Tai nạn đầu tiên
Mặt nạ đắp khi mất của Alfred Nobel, tại nhà
ông ở Bjorkborn, Karlskoga, Thuỵ Điển
Sau khi về Thuỵ Điển, Nobel nghiên cứu về Nitroglycerin, một
loại chất nổ phân giải ở 50-60 °C và phát nổ rất mạnh ở nhiệt độ218 °C. Dù rất nguy hiểm, Nobel vẫn
miệt mài nghiên cứu. Sau vài lần nghiên cứu với bố, anh cũng tìm ra nguyên lý
của thuốc nổ và, mọi người đã chứng kiến một cách kinh ngạc. Nobel thành lập
một công ty, và công ty của anh cũng làm ăn phát đạt hơn trước, không những
thế, nhiều lúc nhà máy còn phải sản xuất cấp tốc để giao hàng cho kịp. Em út
của Nobel, Emil Nobel cũng
cùng anh và bố nghiên cứu Nitroglycerin, và
Emil được quyền tự do trong nhà máy.
Nitroglycerin là một chất lỏng không màu, phiên âm
tiếng Việt: "Nitrôglyxêrin",
được dùng cho các ứng dụng thuốc, thuốc nổ và một số ứng dụng
khác.
Nhưng do Alfred Nobel chủ quan về tính năng an toàn, ngày 3
tháng 9 năm 1864, nhà máy Nobel phát nổ, làm năm người thiệt mạng, trong đó có
cả Emil, em Nobel. Sau lần tai nạn đó, thuốc nổ hầu như bị mọi người bác bỏ,
nhưng Nobel quyết không từ bỏ ý định chế tạo thuốc nổ.
Thuốc nổ Dynamite
Thuốc nổ Dynamite là phát minh nổi bật nhất trong số 350 bằng
phát minh của ông. Nobel bắt đầu nghiên cứu thuốc nổ từ năm 17 tuổi. Nobel thấy
rằng khi Nitroglycerin kết hợp với một chất hấp
thu trơ như Kieselguhr (đất
có nhiều tảo cát hay còn gọi là đất mùn) nó trở nên an toàn và dễ sử dụng hơn,
và ông được trao bằng sáng chế hỗn hợp đó năm 1867 với cái tên Dynamite.
Diagram
B.
Protective coating surrounding the explosive material.
Nobel đã quảng cáo thử nghiệm chất nổ của mình lần đầu tiên
trong năm đó tại một mỏ khai thác đá tại Redhill, Surrey, Anh Quốc.
Surrey /ˈsʌri/ là một hạt ở Đông Nam Anh và là một trong các Home Counties. Hạt này giáp với Đại Luân Đôn, Kent, East Sussex, West Sussex, Hampshire và Berkshire. Thủ phủ lịch sử của hạt
là Guildford.[1] Hội đồng hạt Surrey đóng ở Kingston upon Thames, dù vùng này thuộc Đại Luân Đôn từ năm 1965.
Tiếp theo ông kết hợp Nitroglycerin với chất Collodion và có
được một chất trong như thạch với sức công phá mạnh hơn cả Dynamite. Gelignite,
hay Blasting gelatinnhư
thường được gọi, được cấp bằng sáng chế năm 1876, và tiếp theo đó là hàng loạt
các hỗn hợp tương tự khác, thêm Kali
nitrat, bột gỗ và nhiều chất khác.
Vài năm sau, Nobel tạo ra Ballistite, một
trong những loại thuốc súng Nitroglycerin,
có chứa phần bông thuốc súng và phần Nitroglycerin tương đương nhau. Thuốc súng
này là tiền thân của cordite, và
Nobel tuyên bố rằng bằng sáng chế của ông về loại thuốc súng này hùng hồn minh
chứng cho sự tranh cãi giữa ông và Anh Quốc. Đỉnh điểm của việc chế tạo loại
thuốc nổ này là thuốc nổ mạnh và không có khói. Từ việc chế tạo Dynamite và các
loại thuốc nổ khác cũng như công việc khai thác các giếng dầu ở Baku của
ông và các anh trai Ludvig và Robert Nobel (1829-1896) ông có được một gia sản
to lớn.
Baku (tiếng Azerbaijan: Bakı, IPA: [bɑˈcɯ]), đôi khi cũng viết Baki hay Bakou,
là thủ đô và thành phố lớn nhất của Azerbaijan, cũng như thành phố lớn
nhất nằm bên bờ biển Caspi và vùng Kavkaz. Baku tọa lạc tại nơi có độ cao 28 mét
(92 ft) dưới mực nước biển, khiến nó trở thành thủ đô thấp nhất thế giới và cũng là thành phố
lớn nhất nằm dưới mực nước biển.
Azerbaijan (phiên âm Tiếng Việt: A-déc-bai-gian hoặc A-déc-bai-dan[5]; tiếng Azerbaijan: Azərbaycan
Respublikası), tên chính thức Cộng hoà Azerbaijan (tiếng
Azerbaijan: Azərbaycan
Respublikası), là một quốc gia vùng Kavkaz ở Âu Á. Nằm trên ngã tư đường
giữa Đông Âu và Tây Á, nước này giáp với Biển Caspia ở phía đông, Nga ở phía bắc, Gruzia ở phía tây bắc, Armenia ở phía tây và Iran ở phía nam
Các giải thưởng
Khi người anh Ludvig của ông qua đời vào năm 1888, nhiều
vụ cáo phó sớm nhầm
lẫn về cái chết của Alfred Nobel, được cho là điều khiến ông quyết định để lại
một di sản tốt hơn cho thế giới sau khi chết. Bản cáo phó trên một tờ báo Pháp
viết Le marchand de la mort est mort (Nhà buôn cái chết đã
chết) và tiếp tục viết, "Tiến sĩ Alfred Nobel, người đã trở nên giàu có
sau khi phát minh ra cách thức giết con người nhanh chóng hơn bao giờ hết, đã
qua đời ngày hôm qua."
Ngày 27 tháng
11 năm 1895 tại
Câu lạc bộ Thuỵ Điển – Na Uy ở Paris, Nobel
đã ký chúc thư cuối cùng của mình và để phần lớn số tài sản thành lập các giải
Nobel, trao hàng năm cho bất kỳ ai không phân biệt quốc tịch. Ông
chết sau một cơn đột quỵ ngày 10 tháng
12 năm 1896 tại Sanremo, Ý. Số
lượng tiền mặt dành cho Quỹ Giải Nobel là 31 triệu kronor (4.223.500,00 USD), 94%
tài sản của Nobel.
Sanremo hay Sa Remo (Sanrœmu trong tiếng
Liguria) là một đô thị và cộng đồng (comune) ở tỉnh Imperia trong vùng Liguria miền bắc nước Ý.
Tỉnh Imperia (tiếng Ý: Provincia di Imperia) là một tỉnh đồi núi ở vùng Liguria củaÝ, nằm giữa núi Maritime về phía bắc và Địa Trung Hải về phía nam. Tỉnh lỵ là thành phố Imperia.
Ba giải Nobel đầu tiên dành cho những gương mặt nổi bật
trong khoa học vật lý, trong hoá học và
trong Giải
Nobel Sinh lý học hay Y học; giải thứ tư là dành cho các nhà văn có tác phẩm văn học "theo
một định hướng tư tưởng" và giải thứ năm được trao cho cá nhân hay tổ chức có
được thành tích tốt nhất phục vụ lý tưởng cho tình thân thiện quốc tế, ngăn
chặn hay giảm bớt các đội quân thường trực, hay thành lập hay xúc tiến sự tiến
triển của hoà bình.
Định nghĩa giải văn học, "theo một định hướng tư
tưởng" (tiếng Thuỵ Điển: i idealisk riktning),
khá khó hiểu và gây ra nhiều tranh cãi. Trong nhiều năm, Viện Hàn lâm Thuỵ Điển
diễn giải "ideal – tư tưởng" mang nghĩa "duy tâm hay lý
tưởng" (trong tiếng Thuỵ Điển idealistisk), và coi đó là lý do
để từ chối trao giải cho những tác giả quan trọng nhưng kém phần lãng mạn, như Henrik
Ibsen, August
Strindberg và Lev Nikolayevich Tolstoy. Cách
hiểu này đã được thay đổi và ví dụ, giải thưởng đã được trao cho Dario Fo và José
Saramago, những người hoàn toàn không thuộc trường phái văn học duy tâm
(hay lý tưởng).
Khi đọc cuốn Nemesis trong nguyên bản tiếng
Thuỵ Điển và khi nhìn vào triết thuyết cũng như quan điểm văn học của ông,
dường như ông có ý chống lại điều từng tin tưởng lúc đầu - rằng giải thưởng
phải được trao cho các tác giả đã chiến đấu cho lý tưởng của mình "chống
lại" những quyền lực như Chúa, Nhà thờ và Quốc gia.
Các cơ quan được ông chỉ định trao giải thưởng vật lý và hoá học
cũng có khá nhiều cách diễn giải ý kiến của ông, bởi vì ông không tham vấn ý
kiến của họ trước khi quyết định uỷ thác trách nhiệm. Trong một bản chúc thư
dài một trang ông đặt điều kiện rằng số tiền không được trao cho những khám phá
hay phát minh trong khoa học vật lý và những khám phá hay những cải tiến trong
hoá học. Ông đã mở một cảnh cửa cho những giải thưởng kỹ thuật, nhưng ông không
để lại những hướng dẫn về việc làm cách nào phân biệt giữa khoa học và kỹ
thuật. Bởi vì các cơ quan có quyền quyết định trao giải trong những lĩnh vực đó
quan tâm nhiều tới khoa học hơn kỹ thuật nên không ngạc nhiên các giải thưởng
đều được trao cho những nhà khoa học chứ không phải các kỹ sư, kỹ thuật viên
hay những nhà phát minh khác. Theo một nghĩa các giải thưởng được công bố gần
đây của World Technology Network là
một sự tiếp nối không trực tiếp (bởi vì không phải do quỹ Nobel tạo ra) những
ước vọng của Nobel, bởi vì ông đã không ghi điều đó vào trong di chúc của mình.
Năm 2001, cháu trai của ông, Peter, đã
yêu cầu Ngân hàng Thuỵ Điển phân
biệt giải thưởng dành cho các nhà kinh tế học của họ được trao "để tưởng
nhớ Alfred Nobel" với năm giải thưởng kia. Điều này đã gây ra nhiều tranh
cãi về việc liệu giải thưởng trao trong lĩnh vực kinh tế hiện
nay có phải là "Giải Nobel" hay không (xem Giải thưởng
Khoa học kinh tế của Ngân hàng Thuỵ Điển để tưởng nhớ Alfred Nobel).
Những lời đồn đại về
giải Nobel
Không có giải Nobel cho toán học. Lời
đồn đại cho rằng Nobel đã quyết định không thành lập giải Nobel Toán học vì một
phụ nữ - được cho là người tình hay vợ chưa cưới – đã từ bỏ ông để đi theo một
nhà toán học nổi tiếng, thường được cho là Gösta Mittag-Leffler. Không hề có bằng chứng lịch
sử ủng hộ lời đồn này và Nobel không bao giờ kết hôn.
Magnus Gustaf (Gösta) Mittag-Leffler (16 tháng 3 1846 – 7 tháng 7 1927) là một nhà toán học người Thụy Điển.
Cũng có giả thuyết cho rằng việc không có giải Nobel cho toán
học bởi toán học là phương tiện cho các môn khoa học tự nhiên khác chứ không
tạo ra sản phẩm ứng dụng như vật lý, hoá học, sinh học hay tác động tức thời
tới tinh thần và sức khoẻ con người như y học và văn học.
Từ các ngành khoa học được trao giải Nobel có thể thấy việc ông
muốn trao giải cho những người tạo ra được thành tựu ứng dụng thực tiễn và tạo
ra sản phẩm có thể thấy được.
No comments:
Post a Comment