Biên giới cổ của Việt-Nam
Bài viết
sau đây là Tài Liệu nghiên cứu của
Bác Sĩ Trần Ðại Sĩ, được trình bày tại Viện Pháp-Á năm 1991
Bác Sĩ Trần Ðại Sĩ, được trình bày tại Viện Pháp-Á năm 1991
Thử tìm lại biên giới
cổ của Việt-Nam:
bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống ADN.
bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống ADN.
Bác-sĩ Trần Ðại-Sỹ.
Giám đốc Trung-quốc sự vụ, viện Pháp-Á
Chúng tôi xin giới thiệu với
độc giả Việt-Nam bài diễn văn của Giáo-sư Trần Đại-Sỹ đọc trong dịp khai giảng
niên khóa 1991-1992 tại Viện Pháp-Á (Institut Franco-Asiatique viết tắt là
IFA). Nguyên văn bằng tiếng Pháp, đây là bản dịch tiếng Việt của Tăng Hồng
Minh. Trong dịp khai giảng niên học này, IFA đã mời một số đông các học giả,
trí thức và ký giả tham dự. Sau bài diễn văn, có cuộc trao đổi rất thú vị.
Xin nhắc lại, trong khoảng thời
gian 1977-1992, tác giả làm việc cho Liên-hiệp các viện bào chế châu
Âu (Coopérative Européenne Pharmaçeutique, viết tắt là CEP) và Ủy-ban
trao đổi y học Pháp-Hoa (Commité Médical Franco-Chinois viết tắt là
CMFC), nên đã được các đồng nghiệp giúp đỡ, dùng hệ thống ADN để tìm lại
nguồn gốc dân tộc Việt-Nam.
Chính với công trình nghiên cứu
của tác giả trong thời gian 1977-1991, dùng hệ thống ADN phân biệt dân-tộc
Trung-hoa, dân tộc Việt-Nam...đã kết thúc cuộc tranh cãi 90 năm qua biên giới
cổ của Việt–Nam. Kết luận về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam bằng khoa ADN đi ngược
lại với tất cả các thuyết từ trước đến giờ. Các
thuyết này khẳng định người Việt do người Hoa di cư xuống để trốn lạnh, để tỵ
nạn v.v. Nhưng ADN cho biết chính người ở vùng Đông Nam Á đã đi lên phương Bắc
thành người Hoa.
Sau khi bài diễn văn này phổ
biến (1991), có một số "học giả" vì không theo kịp đà tiến hóa của
khoa học, đã lên tiếng chỉ trích chúng tôi. Biết rằng họ dốt nát quá, muốn giải
thích cho họ, họ phải có một trình độ nào đó... vì vậy chúng tôi không trả lời.
Phần nghiên cứu của chúng tôi quá dài, quá chuyên môn. Độc giả muốn tìm hiểu
thêm có thể đọc công trình nghiên cứu dưới đây:
J.Y.CHU, cùng
13 nhà bác học Trung-quốc cũng nghiên cứu Di-truyền học ADN (DNA), công bố năm
1998: The Nation Academy of Sciences, USA, Vol.95 issue 20, ngày 29 tháng 7
năm 1998. Tài liệu khẳng định rằng nguồn gốc người Trung-hoa, Đông Á,
do người Đông-Nam-á đi lên, chứ không phải do người Trung-hoa di cư xuống.
ALBERTO-PIAZZA (đại học
Torino, Ý): Human Evolution: Towards a genetic history of China,
Proc.of Natl. Acad. Sci, USA, Vol 395, No 6707-1998.
LI YIN, Distribution
of halotypes from a chrosmosomes 21 Region - distinguishes multiple
prehistotic human migrations - Proc.of Natl. Acad. Sci - USA, Vol.96 , 1999.
Về bài diễn văn này, từ năm
1991, có rất nhiều bản dịch sang nhiều thứ tiếng, đăng trên nhiều báo khác
nhau. Mỗi dịch giả lại tự ý lược đi, đôi khi cắt mất nhiều đoạn. Nay chúng tôi
xin dịch nguyên bản, đầy đủ. Vì vậy độc giả thấy có nhiều đoạn quá chuyên môn,
xin lướt qua.
Trong khi diễn giả trình bầy,
ông có ngắt ra nhiều đoạn, để thính giả thảo luận. Các bài trích đăng trước
không ghi phần này. Để độc giả dễ theo dõi, cô Tăng Hồng Minh (THM) ghi chép,
chú giải đặt ngay dưới đoạn liên hệ, thay vì ghi ở cuối bài.
Khi xuất bản lần thứ nhất², bộ
Anh-hùng Bắc-cương của giáo-sư Trần, chúng tôi có cho trích một phần bài này in
vào cuối quyển 4. Nay chúng tôi công bố toàn bộ tài liệu, lấy làm tài liệu
chính thức và phủ nhận tất cả những bản do nhiều nơi phổ biến trước đây.
Paris ngày 10-10-2001
Sở tu thư, viện Pháp-Á
Sở tu thư, viện Pháp-Á
Kính thưa ông Viện-trưởng,
Kính thưa quý đồng nghiệp,
Kính thưa quý vị quan khách.
Các bạn sinh viên rất thân mến,
Tôi không phải là nhà sử học, cũng không phải là nhà khảo cổ, hay nhà chủng tộc học. Tôi chỉ là một thầy thuốc. Nhưng những may mắn đến tiếp diễn trong suốt cuộc đời, vô tình đã đưa tôi đến đây trình bày cùng quý vị về nguồn gốc, biên giới cổ của tộc Việt.
Ở cuối giảng đường này tôi thấy có nhiều bạn trẻ bật cười. Tôi biết bạn bật cười vì đa số người ta đều than đời bất hạnh, toàn rủi ro. Còn tôi, tôi lại nói rằng suốt cuộc đời toàn may mắn. Tôi có thể nói thực với Quý-vị rằng, về phương diện nghiên cứu học hành, suốt đời tôi, tôi có cảm tưởng tổ tiên đã trải thảm cho tôi đi trên con đường vô tận đầy hoa. Nếu bạn chịu khó đọc bộ Sexologie médicale chinoise của tôi, phần bài tựa tôi có viết:
"Trong lịch sử cổ kim nhân loại, nếu có người may mắn về
phương diện nghiên cứu học hành, tôi đứng đầu. Nhưng nếu có người bất hạnh nhất
trong tình trường tôi cũng đứng đầu".
Hôm nay tôi trình bày với Quý-vị về công cuộc đi tìm biên giới cổ của nước
Việt-Nam và nguồn gốc tộc Việt, Quý-vị sẽ thấy tôi may mắn biết chừng nào, và
Quý-vị sẽ thấy tộc Việt chúng tôi anh hùng biết bao. Nhưng gần đây, vì
chiến tranh tiếp diễn trong hơn 30 năm, khiến cho đất nước chúng tôi điêu-tàn,
và... hiện nước tôi là một trong bốn nước nghèo nhất trên thế giới.
I.
SƠ TẦM VỀ TỘC VIỆT
Năm lên năm, tôi học chữ Nho, một loại chữ của Trung-quốc, nhưng dùng chung
cho hầu hết các nước vùng Á-châu Thái-bình dương (ACTBD). Thầy khai tâm của tôi
là ông ngoại tôi. Ông tôi là một đại thần của triều đình Ðại-Nam (tức
Việt-Nam).Chế độ phong kiến của nước tôi đã chấm dứt từ năm 1945, hiện (1991) vị Hoàng-đế cuối cùng của Ðại-Nam là Bảo Ðại. Ngài vẫn còn sống ở quận 16 Paris.
Năm lên sáu tuổi, tôi được học tại trường tiểu học do chính phủ Pháp mở tại Việt-Nam. Thời gian 1943-1944 rất ít gia đình Việt-Nam còn cho con học chữ Nho. Bởi đạo Nho cũng như nền cổ học không còn chỗ đứng trong đời sống kinh tế, chính trị nữa. Thú thực tôi cũng không thích học chữ Nho bằng chơi bi, đánh đáo. Nhưng vì muốn làm vui lòng ông tôi mà tôi học. Hơn nữa học chữ Nho, tôi có một kho tàng văn hóa vĩ đại để đọc, để thỏa mãn trí thức của tuổi thơ. Thành ra tôi học rất chuyên cần. Các bạn hiện diện nơi đây không ít thì nhiều cũng đã học chữ Nho đều biết rằng chữ này học khó như thế nào. Nhưng tôi chỉ mất có ba tháng đã thuộc làu bộ Tam tự kinh, sáu tháng để thuộc bộ Ấu-học ngũ ngôn thi. Năm bẩy tuổi tôi được học sử, và năm chín tuổi bị nhét vào đầu bộ Ðại-học.
Chương trình giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh; không bằng một phần trăm những gì tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như:
- Ðại-Việt
sử ký toàn thư (ÐVSKTT),
- An-Nam
chí lược (ANCL),
- Ðại-Việt
thông-sử (ÐVTS),
- Khâm-định
Việt sử thông giám cương mục (KÐVSTGCM),
- Ðại-Nam
nhất thống chí (ÐNNTC).
« Vua
Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ-lĩnh,
kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo
trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ
là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng:
« Nghi
làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới.
Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hoà mà ở
với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ
bị tuyệt tử, tuyệt tôn ».
Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước
Tây lịch, đến đây thì chia làm hai:
1.
Thần-Nông Bắc.
- Vua Nghi
(2889-2884 trước Tây lịch)
- Vua Lai
(2843-2794 trước Tây lịch)
- Vua Ly
(2795-2751 trưước Tây-lịch)
- Vua
Du-Võng (2752-2696 trước Tây-lịch).
Ðến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi
sang triều đại Hoàng-đế từ năm giáp Tý (2697 trước Tây-lịch). Các
nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng-đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký,
Tư-mã Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ
Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông.
2.
Triều đại Thần-Nông Nam.
Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là
Kinh-Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc.
Nếu cộng chung cho đến nay (1991) là 4870 năm, vì vậy người Việt tự hào rằng đã
có năm nghìn năm văn hiến. (1)[Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lý của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. Còn như đi xa hơn về những thời tiền cổ, thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận đến ở đây.]
Xét về cương giới cổ sử chép:
« Thái-tử
Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương (2), đặt tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở
Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái vua Động-đình là
Long-nữ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lãm. Thái-tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa
Âu-Cơ con vua Đế-Lai (3). Khi vua Kinh-Dương băng hà thái-tử
Sùng-Lãm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-Lang. Nước
Văn-Lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, đông
giáp biển Đông-hải.)
Cổ sử đến đây, không có gì nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép:
« Vua Lạc-Long lấy công chúa
Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử
đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp
theo lối cha truyền con nối.
- Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Ðộng-đình. (Nay
là Hồ-Nam, Quý-châu, Trung-quốc.)
- Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận. (Nay
là Vân-Nam và một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.)
- Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng
Chiêm-thành. (Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa đến Ðồng-nai.)
- Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi lập ra vùng
Lão-qua. (Nay là nước Lào và một phần Bắc Thái-lan.)
- Hoàng-tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng
Nam-hải. (Nay là Quảng-đông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.)
- Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm. (Nay
thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.)
- Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam. (Nay
thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-bình.)
- Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân. (Nay
thuộc Việt-Nam từ Ninh-bình tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh.)
- Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trăm lập ra vùng
Giao-chỉ. (Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam
thuộc Trung-quốc.)
Ngài hẹn rằng: Mỗi năm các hoàng-tử phải về cánh đồng Tương vào
ngày Tết, để chầu hầu phụ mẫu ».
Một huyền sử khác lại thuật:
Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng: « Ta là Rồng, nàng là loài
Tiên ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem
năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần »
Các sử gia người Việt lấy năm vua Kinh-Dương lên làm vua là năm
Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với
Công-chúa con vua Ðộng-đình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm
Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cơ làm Quốc-mẫu. Cho đến nay Quý-vị hỏi trăm người
Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào:
« Chúng
tôi là con Rồng, cháu Tiên.
Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ».
Chủ đạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin này.Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ ».
Ghi chú của Tăng Hồng Minh,
Ký giả chuyên về Văn-minh Ðông-á Jean
Marc Decourtenet hỏi về đoạn này như sau: "Thưa Giáo-sư,
hiện Việt-Nam là nước theo chế độ Cộng-sản, liệu người Việt trong nước họ có
cùng một niềm tin như người Việt hồi 1945 về trước cũng như người Việt hải
ngoại hay không?"
Trả lời: "Những nhà lãnh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lý Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ còn dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. Vì niềm tin này đã ăn sâu vào tâm não người Việt. Những người lãnh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội chiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-đạo của mình. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như đã hơn nghìn năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người đều tụ tập về đây để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng đã dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) vì tình hình an ninh di chuyển khó khăn, vì tình hình kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng năm đến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính. Kết quả là dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau."
Trả lời: "Những nhà lãnh đạo đảng Cộng-sản Việt-Nam suốt từ năm 1930 đến giờ, không một người nào muốn dùng triết lý Marxisme, Léninisme để xóa bỏ niềm tin con Rồng cháu Tiên. Trái lại họ còn dùng niềm tin này để quy phục nhân tâm. Vì niềm tin này đã ăn sâu vào tâm não người Việt. Những người lãnh đạo chính trị Việt cả hai miền Nam-Bắc trong thời gian nội chiến 1945-1975 cũng không ai dám, không ai muốn, không ai đủ khả năng xóa bỏ niềm tin này. Người Việt có niềm tin vào Chủ-đạo của mình. Họ xây đền thờ các vua Hùng ở Phú-thọ dường như đã hơn nghìn năm. Hằng năm cứ đến ngày 10 tháng 3 âm lịch là người người đều tụ tập về đây để tưởng nhớ công ơn các vua Hùng đã dựng nước. Trong thời gian chiến tranh (1945-1975) vì tình hình an ninh di chuyển khó khăn, vì tình hình kinh tế không cho phép, số người hành hương có giảm thiểu. Nhưng từ sau 1987, số người hành hương tăng vọt. Ngay ở ngoại quốc, người Việt lưu lạc khắp nơi, nhưng hằng năm đến ngày 10 tháng 3, lịch Á-châu, nơi nào họ cũng tổ chức giỗ tổ rất thành kính. Kết quả là dù ở trong nước hay ngoại quốc, hiện người Việt vẫn cùng một niềm tin như nhau."
Ghi của
Tăng Hồng Minh dành cho người Việt:
Theo sự tìm hiểu của Tăng Hồng Minh tôi, các lãnh tụ của đảng Cộng-sản
Việt-Nam, đã viếng đền Hùng là:
·
Chủ-tịch Hồ
Chí Minh, ngày 19-9-1954. 19-8-1962.
·
Tổng bí thư Lê
Duẩn, 5-5-1977.
·
Chủ tịch nhà
nước Trường Chinh 6-2-1959. 5-2-1978.
·
Thủ
tướng Phạm Văn Đồng 6-2-1969. 27-8-1978.
·
Tổng bí thư Đỗ
Mười 27-4-1993.
Tôi xin trở lại với đầu đề,
3.
Triều đình, dân tộc.
Tôi đã trình bầy với Quý-vị về hai triều đại đầu tiên cai trị vùng Á-châu
Thái-bình dương: Phía Bắc sông Trường-giang sau thành Trung-quốc. Phía Nam sông
Trường-giang tới vịnh Thái-lan, sau thành Ðại-Việt.Hai triều đại Thần-Nông Nam-Bắc cai trị dân chúng:
- Không có
nghĩa là dân chúng cùng một chủng tộc;
- Không có
nghĩa là tộc Hoa, tộc Việt là một;
- Cũng không
có nghĩa tất cả dân chúng tộc Hoa, tộc Việt đều là huyết tộc của vua Thần-Nông.
- Trung-quốc,
Ðại-Việt là anh em về phương diện chính trị. Giòng Thần-Nông cai trị vùng
đất Trung-quốc, Ðại-Việt là anh em, nhưng dân chúng không hoàn toàn là anh
em. Dân chúng hai nước bao gồm nhiều tộc khác nhau như Mongoloid,
Malanésien, Indonésien, Australoid, và cả Négro-Australoid...v.v.
- Người Hoa,
người Việt nhân triều đại Nam-Bắc Thần-Nông tổ chức cai trị, lập thành nước,
mà tôn làm tổ mà thôi. Chứ hai vùng hồi đó có hàng nghìn, hàng vạn bộ
tộc khác nhau, ngôn ngữ khác nhau, văn hóa khác nhau.
Tôi xin cử một tỷ dụ, để Quý-vị nhìn rõ hơn. Ông Washington là vị Tổng-thống đầu tiên lập ra nước Hoa-kỳ, chứ ông không phải là tổ của các sắc dân đến từ châu Phi, châu Âu, cũng như dân bản xứ. Hai vị vua Nghi, vua Kinh Dương không phải là tổ huyết tộc của người Hoa, người Việt. Hai ngài chỉ là tổ về chính trị mà thôi.
II.
CHỦ ÐẠO TRUNG QUỐC, VIỆT-NAM.
Như Quý-vị đã thấy, mỗi dân tộc đều có một chủ đạo, cùng một biểu hiệu.
Người Pháp cho rằng tổ tiên là người Gaulois, con vật tượng trưng là con gà
trống. Người Anh lấy biểu hiệu là con sư-tử. Người Hoa-kỳ lấy biểu hiệu là con
chim ưng. Người Trung-hoa lấy biểu hiệu là con Rồng. Người Việt lấy biểu hiệu
là con Rồng và con chim Âu. Gốc biểu hiệu này lấy từ huyền sử vua Lạc-Long là
loài rồng, công-chúa Âu-Cơ là loài chim.Người Do-thái họ tự tin rằng họ là giống dân linh, được Chúa chọn. Vì vậy, sau hai nghìn năm mất nước, họ vẫn không bị đồng hóa. Khi tái lập quốc, với dân số bằng một phần trăm khối Ả-rập, nhưng họ vẫn đủ khả năng chống với bao cuộc tấn công để tồn tại. Ðó là nhờ niềm tin họ thuộc sắc dân được Chúa chọn.
Tôi xin nói rõ về chủ đạo của Trung-quốc và Việt-Nam. Như Quý-vị đều biết, hiện Trung-quốc, Việt-Nam đều là những nước theo chủ nghĩa Cộng-sản, đặt căn bản trên thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels. Chủ thuyết này đến Trung-quốc, Chủ-tịch Mao Trạch Đông biến thể đi thành Maoisme. Tại Việt-Nam, người mang chủ thuyết Marx, Engels vào là Chủ-tịch Hồ Chí Minh ; ông được đào tạo tại Liên-sô, vì vậy chủ thuyết của ông phảng phất Léninisme, pha thêm Việt-tính do ông tạo ra. Dường như hiện nay trên khắp thế giới, kể cả Liên-bang Sô-viết chỉ Việt-Nam là quốc gia duy nhất còn duy trì tượng Lénine tại một công viên lớn của Thủ-đô (Hà-nội).
Theo như dự đoán của chúng tôi thì Trung-quốc, cũng như Việt-Nam cùng nhận thấy thuyết của Karl Marx, Friedrich Engels không còn hợp thời, không còn ích lợi nữa. Cả hai đang từng bước, từng bước trở lại với chủ đạo của mình. Xin các vị cứ chờ, không lâu đâu cả hai sẽ hoàn toàn trở về với kho tàng quý báu của nước mình! Tôi thấy Trung-quốc trở lại quá mau, quá mạnh. Con rồng Trung-quốc mà Hoàng-đế Napoléon bảo rằng hãy để nguyên cho nó ngủ. Bằng như nó thức dậy, nó sẽ làm rung chuyển thế giới. Thưa Quý-vị, con rồng Trung-quốc đã thức dậy rồi, nhưng nó chưa làm rung động thế giới!
Ghi chú của Tăng Hồng Minh (ngày 19-8-2000, nhân đọc
lại bài này):
IFA trao cho tôi dịch hầu hết những bài diễn văn của các nhà lãnh đạo
Việt-Nam từ 1992 đến nay. Tôi thấy ông Tổng-bí-thư Đỗ Mười trong các diễn văn
kỷ niệm 19-8 cũng như ngày Quốc-khánh, những từ ngữ ông dùng cũng như nội dung,
ngày một xa Marx, Engels, Lénine. Nếu thời kỳ ông Lê Duẩn cầm quyền, khắp
Việt-Nam đều thi nhau phá bỏ hết phong tục, truyền thống, nhất là phá các di
tích tôn giáo bao nhiêu; thì bây giờ hầu hết các truyền thống dân tộc đều được
phục hồi ở cấp xã. Niềm tin (chủ đạo) của hạ tầng hầu như trở lại thời kỳ trước
1945.
1.- Chủ đạo của Trung-quốc.
Ghi chú của Tăng Hồng Minh:
Giáo sư Nhân chủng học Van Gotensbert
(Hòa-lan) hỏi: « Tôi thấy người
Hoa, kiều ngụ ở các nước Á-châu, châu Phi cũng như tại Hoa-kỳ, Canada, Úc cùng
một số các nước Âu-châu, dù trải qua mấy trăm năm, họ vẫn duy trì được dòng
giống và không bị đồng hóa, đó là nhờ chủ đạo tự tin là con trời của họ. Thế
nhưng tại sao, họ mới tới Pháp từ sau 1975, dưới danh nghĩa tỵ nạn Việt, họ bị
đồng hóa rất mau. Không lẽ chủ đạo của Trung-quốc lại bị chủ đạo của Gaulois
xóa bỏ mau chóng như vậy sao? ».
Ðáp: « Thưa Giáo-sư, điều Giáo-sư hỏi, cũng là điều
tôi chú tâm nghiên cứu từ 1975 đến giờ. Khi người Hoa tới bất cứ nước nào, họ
cũng bị kỳ thị không ít thì nhiều, họ phải sống quần tụ với nhau, giúp đỡ nhau,
bảo vệ nhau. Bên cạnh đó họ có niềm tin là con trời, tự hào về nền văn minh cổ
của họ. Do đó họ tổ chức thành xã hội riêng : Giáo dục con em, thương mại,
sinh hoạt văn hóa, tương trợ. Vì vậy họ giữ được bản sắc Trung-quốc của họ. Còn
khi người Hoa tới Pháp, thì người Pháp với tinh thần cởi mở, với tính hiếu hòa,
không kỳ thị, lại tận tình giúp đỡ kẻ tha hương hơn chính người Hoa giúp nhau,
thành ra người Hoa không cần sống quần tụ. Họ sống lẫn với người Pháp. Con em
người Hoa ngày ngày tới trường được bạn học, được thầy yêu thương, chúng thu
nhập văn hóa Pháp rất mau. Trong khi cha mẹ chúng phải làm việc không có thời
giờ dạy con cái về văn hóa Trung-quốc. Do vậy chỉ trong vòng mấy năm là trẻ Hoa
thành trẻ Pháp: Tiếng nói, cách suy tư, nếp sống, trừ... ẩm thực.
Tôi xin nói một câu thẳng thắn, mong các vị đừng buồn: trên khắp thế
giới, khi người Việt tỵ nạn đến định cư bất cứ nơi nào, đều gặp nạn kỳ thị.
Nước Pháp là nước duy nhất dân chúng không kỳ thị mà lại còn tận tình giúp đỡ.
Do vậy nhiều người tỵ nạn đến các nước khác của châu Âu, rồi cũng tìm định cư ở
Pháp, dù ở Pháp khó kiếm việc làm.Chính phủ và nhân dân Pháp biết thế, nên cánh
cửa tự do không hề đóng lại ».
Tôi xin trở lại với đầu đề.
Chủ đạo của Trung-quốc bắt nguồn từ thời nào? Từ sách nào? Do ai khởi xướng?
Ðầu tiên là Kinh-thư, không rõ tác giả là ai, xuất hiện trước Khổng-tử, thiên Vũ-cống gọi thế giới chúng ta ở là Thiên-hạ (Dưới trời). Thời cổ, các văn nhân Trung-quốc không đi xa hơn vùng sông Hán, sông Hoàng-hà, họ tưởng đâu thế giới chỉ có Trung-quốc, nên gọi Trung-quốc là Thiên-hạ. Thiên-hạ là Trung-quốc, tức là nước ở giữa. Bốn phía Trung-quốc là biển, nên gọi Trung-quốc là hải-nội, các nước khác là hải-ngoại.
Kinh-thư thiên Vũ-cống chia Thiên-hạ thành 9 châu: Ký, Duyện, Thanh, Từ, Dương, Kinh, Dự, Lương, Ung. Lại dùng khoảng cách, chia làm năm cõi, gọi là Ngũ-phục, mỗi cõi cách nhau năm trăm dặm (250 km). Ngũ-phục là Ðiện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, Hoang-phục.
Trung-ương là kinh đô của nhà vua.
- Ðiện-phục ở
ngoài kinh đô năm trăm dặm.
- Hầu-phục ở
ngoài cõi Ðiện-phục năm trăm dặm: trong năm trăm dặm cõi Hầu thì khoảng
cách một trăm dặm để phong thái ấp cho các quan khanh, đại phụ Hai trăm dặm
nữa phong cho các tước Nam. Hai trăm dặm nữa phong cho các chư Hầu.
- Kế tiếp Hầu-phục
là Tuy-phục. Trong năm trăm dặm cõi Tuy thì ba trăm dặm là nơi truyền bá
văn chương, giáo hóa quần chúng; còn hai trăm dặm để hưng thịnh võ bị, bảo
vệ quốc gia.
- Sau cõi
Tuy là cõi Yêu. Trong ba trăm dặm cõi Yêu là nơi cho rợ phương Ðông ở. Hai
trăm dặm còn lại là nơi để đầy tội nhân.
- Cõi cuối
cùng là cõi Hoang, năm trăm dặm. Trong ba trăm dặm gần dành cho mọi phương
Nam ở, hai trăm dặm cuối cùng để đầy người có tội nặng.
- Ra khỏi
cõi Hoang là... biển.
Ghi chú của Tăng Hồng Minh:
Giáo-sư khoa Chính-trị học J. Fr
Longanacre (USA) hỏi: "Thế cái chủ đạo mà người Trung-quốc tự thị là con
trời phát xuất từ đâu? Vào thời nào?"
Ðáp: "Thưa Giáo-sư, cũng phát xuất từ Kinh-thư, thiên Thái-thệ:
Ðáp: "Thưa Giáo-sư, cũng phát xuất từ Kinh-thư, thiên Thái-thệ:
Trời sinh ra dân,
Ðặt ra vua, ra thầy,
Ðều để giúp Thượng-đế,
Vỗ về dân bốn phương."
Ðặt ra vua, ra thầy,
Ðều để giúp Thượng-đế,
Vỗ về dân bốn phương."
Giáo-sư Mohamed Khalid (Nhân chủng học
Iran) hỏi: "Tôi nghiên cứu hầu hết các thuyết nói về nguồn gốc
tộc Hoa. Tôi thấy dường như người ta đều cho rằng tộc Hoa tự sinh ra, rồi di
chuyển đi các nơi: Ra biển thành người Nhật, Nam-dương, Phi-luật-tân. Xuống Nam
thành người Việt, Miên, Lào, Thái, Miến. Lên Bắc thành Ðại-hàn, Mông-cổ, sang
phía Ðông-Bắc thành người Trung Ðông. Có đúng thế không?
Ðáp: "Thưa
Giáo-sư họ suy nghĩ như vậy là sai hoàn toàn. Họ căn cứ vào truyền thuyết mà
nói như vậy. Truyền thuyết căn cứ vào thư tịch cổ, nên sai, hoàn toàn sai. Vì
thư tịch cổ do những văn nhân không đi ra ngoài, ngồi ở vùng lưu vực Hoàng-hà,
tưởng tượng mà viết ra."
Cả hội trường cùng im lặng.
"Nếu nói rằng người Trung-hoa nhờ có tinh thần thực dụng, nhờ có chữ viết, nhờ văn hóa Nho-giáo, rồi trở thành hùng mạnh, rồi đem quân đánh chiếm các nước nhỏ xung quanh, tạo thành một nước vĩ đại như ngày nay là đúng. Còn như bảo rằng họ là con trời hoặc họ tự sinh ra, rồi di chuyển đinh sinh sống các nơi... thì sai.
Cả hội trường cùng im lặng.
"Nếu nói rằng người Trung-hoa nhờ có tinh thần thực dụng, nhờ có chữ viết, nhờ văn hóa Nho-giáo, rồi trở thành hùng mạnh, rồi đem quân đánh chiếm các nước nhỏ xung quanh, tạo thành một nước vĩ đại như ngày nay là đúng. Còn như bảo rằng họ là con trời hoặc họ tự sinh ra, rồi di chuyển đinh sinh sống các nơi... thì sai.
Tôi sẽ dẫn chứng ở dưới bằng ADN: tộc Hoa,
do giống người từ Ðông Nam-á đi lên. Mà những người Ðông Nam-á có gốc từ
Phi-châu. Họ đến Nam-á từ lâu. Rồi tộc đó lại kết hợp với những người cũng từ
châu Phi đi lên châu Âu, vào Bắc Trung-quốc khoảng 15.000 năm trước."
Chúng ta trở lại với đầu đề.
Tiếp theo Kinh Thư, sách Tả-truyện, Tả Khâu Minh cũng viết:
Trời làm chủ Thiên-hạ,
Vua nối trời mà cai trị.
Kẻ chịu mệnh trời mà cai trị là Thiên-tử.
Ðến Mạnh-tử, thiên Ly-lâu viết:Vua nối trời mà cai trị.
Kẻ chịu mệnh trời mà cai trị là Thiên-tử.
Thiên hạ là quốc gia,
Gốc của thiên hạ là quốc,
Gốc ở quốc là gia.
Vì ảnh hưởng của sách cổ nên người Hoa mới nảy sinh ra tư tưởng « Nội Hoa hạ, ngoại Di,
Ðịch ». Nghĩa là trong
Ngũ-phục thì là chốn văn minh, còn ngoài ra thì là mọi rợ.Gốc của thiên hạ là quốc,
Gốc ở quốc là gia.
Kinh-lễ, thiên Vương-chế nói:
Ðông phương viết Di,
Tây phương viết Nhung,
Nam phương viết Man,
Bắc phương viết Ðịch.
Nghĩa là:Tây phương viết Nhung,
Nam phương viết Man,
Bắc phương viết Ðịch.
Người ở Ðông phương gọi là Di,
Tây-phương là Nhung,
Nam phương là Man,
Bắc phương là Ðịch.
Di, Nhung, Man, Ðịch là những từ để chỉ mọi rợ. Bốn chữ đó khi viết thì có
bộ trùng, bộ thú, bộ khuyển ở cạnh. Có nghĩa các sắc dân đó là cầm thú, côn
trùng, chó mèo !Tây-phương là Nhung,
Nam phương là Man,
Bắc phương là Ðịch.
Ngay đối với người Âu, Mỹ hồi thế kỷ thứ 20 về trước, người Hoa gọi là Bạch-quỷ! (Thính giả cười ồ lên!). Họ còn phân ra người Âu là Tây-dương Quỷ. Người Mỹ là Mỹ-lan-tây Quỷ. Người Anh là Hồng-mao Quỷ. Người Nga là La-sát Quỷ.
Ghi chú của Tăng Hồng Minh:
Sinh viên Marta Maria Fernandes hỏi: « Thưa Giáo-sư, về Trung-quốc, tiếng
Pháp gọi là La Chine, người Trung-quốc là Chinois. Còn sách của Chinois ở lục
địa thì họ xưng là Trung-quốc; của người ở Hương-cảng, Ðài-loan thì họ xưng là
Trung-hoa. Ðôi khi họ xưng là Trung-nguyên, rồi Hoa-hạ. Tôi đọc một số sách
bằng Việt ngữ thì người Việt gọi là chữ Hán chứ không gọi là chữ Hoa, hay chữ
Trung-quốc; và người Việt khi thì gọi Chinois là người Hoa, khi thì gọi là
người Tầu. Như trên Giáo-sư đã giải thích từ Trung-quốc. Còn từ Hoa ở đâu mà
có? Tại sao lại có những từ phức tạp như vậy? »
Ðáp: « Như tôi đã trình bầy: Với lối phân chia Cửu-châu, Ngũ-phục; trong năm cõi trên thì cõi Điện là vùng bao quanh Thiên-hạ. Phía trong cõi Điện là Giao. Trong Giao một trăm dặm là Quốc. Trong Quốc có thành gọi là Đô. Đô là nơi vua ở. Vì vậy họ mới xưng là Trung-quốc, tức nước ở giữa Thiên-hạ. Chữ Trung-quốc ở đây có tính chất chính trị, và địa lý. Còn từ Trung-nguyên có nghĩa là vùng đất ở giữa. Trung-nguyên chỉ có nghĩa địa lý mà thôi.
Ðáp: « Như tôi đã trình bầy: Với lối phân chia Cửu-châu, Ngũ-phục; trong năm cõi trên thì cõi Điện là vùng bao quanh Thiên-hạ. Phía trong cõi Điện là Giao. Trong Giao một trăm dặm là Quốc. Trong Quốc có thành gọi là Đô. Đô là nơi vua ở. Vì vậy họ mới xưng là Trung-quốc, tức nước ở giữa Thiên-hạ. Chữ Trung-quốc ở đây có tính chất chính trị, và địa lý. Còn từ Trung-nguyên có nghĩa là vùng đất ở giữa. Trung-nguyên chỉ có nghĩa địa lý mà thôi.
Sau cuộc cách mạng Tân-Hợi (1911), Bác-sĩ Tôn Văn và Quốc-dân đảng lên
nắm quyền, lấy quốc danh là Trung Hoa nhân dân cộng hòa quốc, gọi tắt là
Trung-Hoa Dân-quốc từ ngày 1-1-1912. Hiện chính phủ Đài-loan vẫn duy trì quốc
danh này.
Hồng-quân tiến chiếm được Bắc-kinh, lập nền cai trị Trung-nguyên, họ
xưng là Cộng-hòa nhân dân Trung-quốc gọi tắt là Trung-quốc kể từ ngày
1-10-1949.
Còn nguồn gốc từ Hoa thì lúc đầu Trung-quốc chỉ là mấy bộ tộc ở vùng
Ung-châu, Lương-châu (Ghi chú xin đừng lầm Ung này với Ung-châu thời Tống, nay
là Nam-ninh thuộc Quảng Tây). Phía Đông Nam là Hoa-âm, Đông Bắc là Hoa-dương,
giới hạn bởi Hoa-sơn. Vì vậy họ mới xưng nước là Hoa. Sau vì có văn minh, họ
chiếm, đồng hóa các vùng xung quanh, mà có 9 châu như trong Kinh-thư. Hoa là
tên nước chứ không phải là tên chủng tộc.
Còn từ Hoa Hạ thì do con sông Hạ-thủy khởi nguồn từ Ung-Lương, nên lấy
từ Hạ-thủy làm tên tộc. Hạ là tên tộc, không phải là tên nước. Sau này người ta
ghép chữ Hoa là nước với chữ Hạ là tộc thành từ Hoa-Hạ vừa để biểu tượng cho
nước, vừa biểu tượng cho tộc.
Cao-tổ nhà Hán là Lưu Bang, khởi nghiệp từ sông Hán-thủy, nên xưng là
triều Hán (207 trước Tây-lịch). Năm 179 trước Tây-lịch, Triệu Đà chiếm Âu-lạc
(tên cũ của Việt-Nam). Y là thần tử triều Hán, cấm dân Việt học chữ Khoa-đẩu
của tộc Việt, bắt học chữ Hoa. Do vậy người Việt gọi chữ Hoa là chữ Hán.
Người Việt gọi người Chinois là người Hoa, người Trung-quốc là lẽ
thường. Còn danh tự người Tầu thì bắt nguồn từ những triều đại Trung-quốc bị
sụp đổ, các di thần dùng tầu vượt biển sang Việt Nam xin kiều ngụ, nên người
Việt gọi họ là người Tầu ».
Chúng ta trở lại với đầu đề.
Từ nguồn gốc kinh điển cổ, người Hoa tự cho
mình là con trời (Thiên-tử), cho nên hầu hết các tiểu thuyết của họ thì vua
luôn có tướng tinh là con rồng vàng, là Thanh-y đồng tử trên thượng giơí giáng
sinh. Các quan võ thì luôn là Vũ-khúc tinh quân, các quan văn là Văn-khúc tinh
quân. Quần thần thì là Nhị-thập bát tú giáng hạ. Với chủ đạo này, họ đã đánh
chiếm mấy trăm nước tạo thành một Trung-quốc vĩ đại.
2.-
Chủ đạo của Việt-Nam.
Như trên đã trình bầy, với
nguồn gốc lập quốc, người Việt có niềm tin mình là con của Rồng, cháu của Tiên,
cho nên người Việt có một sức bảo vệ quốc gia cực mạnh. Truyền thống sang thế
kỷ thứ 2 trước Tây-lịch lại thêm vào tinh thần của vua An-Dương. Sang đầu thế kỷ
thứ nhất, nổ ra cuộc khởi nghĩa của một phụ nữ, và 162 anh hùng, trong đó có
hơn trăm là nữ. Cuộc khởi nghĩa đuổi ngoại xâm Trung-hoa, lập lên triều đại
Lĩnh-Nam. Phụ nữ đó làø vua Trưng. Nối tiếp mỗi thời đại đều có tinh thần
riêng, tạo thành niềm tin vững chắc. Tộc Việt đã chiến đấu không ngừng để chống
lại cuộc Nam tiến liên miên trong hai nghìn năm của người Hoa. Bất cứ thời nào,
người Việt dù bị phân hóa đến đâu, nhưng khi bị ngoại xâm, họ lập tức ngồi lại
với nhau để bảo vệ quốc gia. Trong những lớp phế hưng của lịch sử Việt, hễ ai
dựa theo chủ đạo tộc Việt, đều thành công trong việc giữ được quyền cai trị
dân. Gần đây nhất, người Việt bị các thế lực Quốc-tế, gây ra cuộc chiến tranh
tương tàn khủng khiếp (1945-1975). Nhưng nay, Việt-Nam đang trên đà phục
hưng chủ đạo. Ý tôi muốn nói sự cố gắng phi thường của hơn hai triệu người Việt
ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam, đã là bó đước sáng chuyển chủ đạo trở về nước mình.Trong thời gian 1954-1975, miền Bắc theo chế độ Cộng-sản, theo chủ thuyết Quốc-tế. Nhưng họ biết khai thác cái chủ đạo của Việt-Nam, họ huy động được tinh thần yêu nước của dân tộc, nên cuối cùng họ chiến thắng.
Cũng tiếc thay, những người cầm quyền miền Nam từ 1963-1975, không biết khai thác lòng yêu nước của dân tộc, lại chấp nhận cho quân đội Hoa-kỳ và đồng minh nhảy vào vòng chiến, việc này có khác gì quỳ gối, trao ngọn cờ chính nghĩa cho miền Bắc? Tôi nghĩ những người lãnh đạo miền Nam như ông Nguyễn Khánh, Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, Trần Thiện Khiêm, cho đến giờ này (1992) chưa từng biết gì về kho tàng lòng yêu nước của người Việt, lại cũng chưa từng nghe, từng nói đến chữ chủ đạo tộc Việt bao giờ.
Trước họ, cố Tổng-thống Ngô Đình Diệm (1954-1963), vì biết rõ chủ đạo tộc Việt. Ngài từ chối không cho Hoa-kỳ đổ quân vào Việt Nam, mà đang là một đồng minh của Hoa-kỳ, Ngài đã trở thành kẻ thù của Hoa-kỳ, bị Hoa-kỳ giết hết sức thảm khốc.
III.
ÐI TÌM LẠI NGUỒN GỐC DÂN TỘC VIỆT.
Năm trước đồng nghiệp của tôi đã giảng cho các bạn sinh viên hiện diện các
giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam, bao gồm:- Thuyết của
giáo sư Léonard Aurousseau về cuộc di cư của người Ư-Việt hay Ngô-Việt
sang Âu-Lạc.
- Thuyết của
Claude Madroll về cuộc di cư của người Mân-Việt sang Âu-Lạc.
- Thuyết của
học giả Ðào Duy-Anh, Hồ Hữu-Tường về cuộc di cư do thời tiết của người Việt
từ Bắc xuống Nam.
Cuối cùng các giáo sư đồng nghiệp đã nhận định rằng: Nhờ vào khoa khảo cổ, nhờ vào hệ thống khoa học DNA, từ nay không còn những giả thuyết về nguồn gốc tộc Việt nữa, mà chỉ còn lại công cuộc nghiên cứu của tôi, rồi kết luận:
« Thoạt
kỳ thủy, trên vùng đất thuộc lãnh thổ Trung-quốc, Việt-Nam hiện tại: Giống
người đã từ châu Phi đến bằng hai đường. Một là đường Nam-á, đến Đông Nam-á,
ngược lên vùng Hoa Nam. Hai là từ châu Phi, tới châu Âu, rồi sang Bắc
Trung-quốc. Cuối cùng cả hai giống người hòa lẫn với nhau trên lãnh thổ
Trung-quốc.
Còn
trong vòng 5000 năm trước Tây lịch cho đến nay, thì tộc Việt bao gồm trăm giống
Việt sống rải rác từ phía nam sông Trường-giang, Đông tới biển, Tây tới
Tứ-xuyên, Nam tới vịnh Thái-lan. Người Việt từ Ngô-Việt di cư xuống phương Nam.
Người Mân-Việt đi xuống Giao-chỉ. Người Việt di cư từ nam sông Trường-giang tránh
lạnh xuống Bắc-Việt đều đúng. Đó là những cuộc di cư của tộc Việt trong lãnh
thổ của họ, như cuộc di cư từ Bắc vào Nam năm 1954 ; chứ không phải họ là
người Trung-quốc di cư xuống Nam, lập ra nước Việt. »
Chính vì lý do dùng hệ
thống ADN biện biệt tộc Hoa, tộc Việt, nên tôi được mời đến đây đọc bài diễn
văn khai mạc niên khóa này. Sau đây tôi trình bầy sơ lược về công trình nghiên
cứu đó. Tôi xin nhắc lại, tôi chỉ là một bác sĩ y-khoa, cho nên những nghiên cứu
của tôi đặt trên lý luận thực nghiệm, cùng lý luận y-khoa, nó hơi khác với
những gì mà các bạn đã học.
Ghi chú của Tăng Hồng Minh:
Sinh viên Vũ-thị Thu-Dung hỏi: "Thưa
Giáo-sư, chúng tôi có đọc một bộ sách của nhà văn Bình Nguyên Lộc nói về nguồn gốc
dân tộc Việt-Nam. Trong bộ sách đó, ông khẳng định rằng người Việt gốc từ
Mã-lai. Xin Giáo-sư cho biết ý kiến?"
"Tôi chưa đọc bộ sách đó, vả có đọc tôi cũng không thể đem ra bàn luận ở đây."
Giáo-sư Viện-trưởng: "Tôi xin bổ túc lời diễn giả. Ban tu thư của IFA sưu tầm tất cả những thư tịch nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trước sau có 34 người đã trình bầy. Nhưng chỉ những tác giả sau đây được ghi vào album nghiên cứu:
"Tôi chưa đọc bộ sách đó, vả có đọc tôi cũng không thể đem ra bàn luận ở đây."
Giáo-sư Viện-trưởng: "Tôi xin bổ túc lời diễn giả. Ban tu thư của IFA sưu tầm tất cả những thư tịch nói về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam. Trước sau có 34 người đã trình bầy. Nhưng chỉ những tác giả sau đây được ghi vào album nghiên cứu:
·
Edouard Chavannes trong bản dịch bộ Sử-ký của Tư
Mã Thiên.
·
Leonard Aurousseau trong bài nghiên cứu "La
première conquête chinoise des pays anamites" đăng trong tạp chí của
trường Viễn-đông bác cổ của chúng tôi tại Hà-nội (ý chỉ nước Pháp), ký hiệu
BEFEO XXIII. 138-244.
·
Claude Madrolle, trong bài Le Tonkin Ancien đăng
trong BEFEO XXXVII 264-332.
·
Lê Chí Thiệp, trong Văn-hóa nguyệt san (VNCH) số
tháng 3-4 năm 1959.
·
Ðào Duy Anh, trong Nguồn gốc dân tộc Việt-Nam,
được ông Hồ Hữu Tường cổ võ trong bộ Tương lai văn hóa Việt-Nam.
·
Gần đây, giáo sư Nguyễn Khắc Ngữ trong bộ Nguồn
gốc dân tộc Việt-Nam, xb năm 1985 ở Canada.
·
Một số các bài của giáo sư Lương Kim Ðịnh, Nguyễn
Ðăng-Thục và Tiến-sĩ Thái Văn Kiểm, hội viên Hàn-lâm-viện Hải-ngoại của
Pháp-quốc...
Một số tác giả viết chỉ với mục đích
khoa trương, lập dị, hoặc không có căn cứ, hoặc thiếu kiến thức, chúng tôi
không ghi vào thư mục nghiên cứu, nên Giáo-sư Trần Ðại-Sỹ không tham khảo, và
dĩ nhiên không đem ra bàn ở đây:
·
Paul Francastel trong Origine du Việt-Nam, France
Asie xb.
·
Nguyễn Phương trong Tiến trình hình thành
dân tộc Việt-Nam, tạp chí Ðại-học Huế tháng 4 năm 1963.
·
Bình Nguyên Lộc trong tác phẩm mà em đã đọc.
No comments:
Post a Comment