Ngôn ngữ Sài Gòn xưa (1/2)
Lính tráng (1)
Ngôn ngữ Sài Gòn trước 1975
mang đậm chất “lính”. Cũng là điều dễ hiểu vì miền Nam khi đó đang trong thời kỳ
“leo thang chiến tranh” với lệnh “tổng động viên” trên toàn lãnh thổ. Thanh
niên đến tuổi 18 đều bị “động viên” vào quân ngũ, chỉ trừ một số trường hợp được
“hoãn dịch” vì lý do sức khỏe, gia cảnh hoặc học vấn.
“Đi lính” là một thuật ngữ
xuất hiện thường xuyên trên đầu môi cũng như trong tâm thức của mọi người. Bậc
cha mẹ lo lắng khi con cái đến tuổi “quân dịch” còn thanh niên thì đứng trước một
ngã rẽ quan trọng của cuộc đời: “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Mối lo của
họ được thể hiện qua ám ảnh “Thi rớt tú tài…” và còn bi đát hơn với hai câu
thơ:
Rớt tú tài anh
đi trung sĩ,
Em ở nhà lấy Mỹ cho
xong…
Nhạc phẩm Thà như giọt mưa (http://my.opera.com/diemxuacafe/blog/show.dml/2536756)
với tiếng hát Ngọc Lan cũng nói về chuyện “thi hỏng tú tài” và kết quả là phải
“đợi ngày đi lính”. Nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên viết bài thơ này cho một người con
gái tên Duyên, sinh viên trường Luật, và người yêu… “lạc đệ tú tài”. Nhạc sĩ Phạm
Duy đã phổ nhạc để biến thành một bản nhạc buồn man mác:
Người từ
trăm năm về qua trường Luật
người từ trăm năm về qua trường
Luật
ta hỏng Tú Tài ta hụt tình
yêu
thi hỏng mất rồi ta đợi ngày
đi
đau lòng ta muốn khóc
đau lòng ta muốn
khóc
Thời nào cũng vậy, những
thành phần COCC (chữ tắt của cụm từ Con Ông Cháu Cha), bao giờ cũng có cách luồn
lách để khỏi đi lính. Người Sài Gòn thường dùng chữ “trốn lính” hay “trốn quân
dịch”. Một trong những cách “trốn lính” là tìm đường cho các “quý tử” đi du học,
hay cùng lắm, khi bị “bắt lính” các bậc cha mẹ lo “chạy” để con được phục vụ
trong các đơn vị không tác chiến, làm “lính văn phòng” hay còn một thuật ngữ rất
phổ biến là “lính kiểng”. Người ta thường chưng hoa kiểng, cây kiểng để làm đẹp
căn nhà nhưng “lính kiểng” lại chính là một hình thức “tự làm đẹp đời mình” trước
những viễn cảnh u ám của chiến tranh, bom đạn, chết chóc vẫn xảy ra hàng ngày.
Đôi khi loại “lính kiểng”
còn được gọi qua cái tên nghe khá ngộ nghĩnh nhưng cũng rất thâm thúy: “lính cậu”.
Chả là thứ lính này xuất thân từ những “cậu ấm” trong các gia đình quyền thế hoặc
giàu có. Đây là loại “lính nhưng không phải là lính” nếu đem so sánh với những
chiến binh ngày đêm phải đương đầu với súng đạn tại những tiền đồn heo hút hay
rừng sâu núi thẳm, cách biệt hẳn với chốn phồn hoa đô hội. Xem ra câu “huynh đệ
chi binh” không phải lúc nào cũng đúng như ý nghĩa vốn có của nó.
Hầu như cả thế hệ thanh niên
miền Nam, kẻ trước người sau, đều lần lượt rời ghế học trò để khoác trên mình bộ
quần áo lính. Đó có thể là sắc áo “rằn ri” của các binh chủng dữ dằn như Nhảy
dù (được “thần tượng hóa” thành “thiên thần mũ đỏ”). Lực lượng đặc biệt, Biệt
cách dù (Airborne Ranger, Liên đoàn 81 Biệt cách dù trong trận chiến An Lộc đã
nổi tiếng với 2 câu thơ: "An Lộc địa, sử ghi chiến tích / Biệt Cách Dù vị
quốc vong thân) hay Thủy quân lục chiến đội trên đầu chiếc mũ “mũ be-rê xanh”
còn Biệt động quân thì lại chọn màu mũ nâu.
Tuy nhiên, mũ be-rê chỉ dùng
khi về phép và các dịp đặc biệt, khi ra trận mọi quân binh chủng đều đội chiếc
“mũ sắt” phía bên trong có lót lớp “nũ nhựa” để bảo vệ phần đầu. Trên nguyên tắc
là vậy chứ nhiều khi đạn có thể xuyên thủng “mũ sắt” nếu bắn từ khoảng cách gần.
Khẩu súng, chiếc nón sắt và
đôi giày trận
Lính bộ binh thì “hiền” hơn
với bộ kaki, sau này được thay thế bằng bộ quân phục “bốn túi”, áo bỏ ngoài quần,
giống như lính Mỹ. Đặc điểm của bộ binh là phải “gom ống quần” trong khi Không
quân và Hải quân được thả ống quần, “lè phè”, thoải mái. Cũng vì thế lính không
quân và hải quân sợ nhất là bị “gom ống quần lội bộ”, thuật ngữ ám chỉ bị
thuyên chuyển sang bộ binh để đi tác chiến.
“Giày trận” được gọi là “bốt
đờ sô” (botte de saut), có loại hoàn toàn bằng da nhưng sau này có loại giày kết
hợp giữa da và vải, rất nhẹ trong những chuyến lội rừng, băng suối. Lính “địa
phương quân” hay “nghĩa quân” thì hẩm hiu hơn với những đôi giày bằng vải bố,
được gọi tắt là “giày bố”, kiểu như giày “ba-ta” nhưng cổ cao hơn giày thường.
Ngay khi bắt đầu trình diện
tại các Trung tâm Tuyển mộ Nhập ngũ, thanh niên dù “đăng lính” hay bị “bắt
lính” cũng đều phải qua một trong những thủ tục là làm “thẻ bài”. Tấm “thẻ bài”
là vật bất ly thân, được đeo trên cổ trong suốt thời gian tại ngũ của quân
nhân. “Thẻ bài” tựa như tấm lắc đeo ở cổ con chó nên người Mỹ gọi nó bằng cái
tên… “dog tag”!
Mỗi quân nhân bắt buộc có 2
tấm “thẻ bài” bằng kim loại không rỉ, được đeo bằng sợi dây cũng bằng kim loại.
Trên mỗi tấm có ghi họ tên, “số quân” và loại máu để khi bị thương, cần tiếp
máu, quân y biết ngay loại máu gì. Khi người chiến sĩ tử trận, một tấm thẻ bài
được bỏ trong miệng tử sĩ và tấm kia đơn vị sẽ giữ lại để làm tài liệu báo cáo.
Tấm thẻ bài
Hình trên là tấm thẻ bài của
tướng Nguyễn Văn Điềm, “số quân” 50/200.102, ông thuộc loại máu A. (Người anh
em ở bên kia chiến tuyến dùng từ “số lính” thay cho “số quân”). Hai số đầu của
“số quân” là năm sinh sau khi trừ 20. Như vậy, tướng Điềm sinh năm 1930 (50 –
20 = 30). Tôi sinh năm 1946 nên có hai số đầu là 66: 66/168.566. “Số quân” của người lính tựa như “số an sinh
xã hội” (social security number của Mỹ gồm 9 số), số “căn cước” (thời VNCH) hay
chứng minh nhân dân (thời CHXHCNVN).
Thẻ Căn Cước thời VNCH (mặt
trước)
Thẻ Căn Cước thời VNCH (mặt
sau)
Bài hát “Tấm Thẻ Bài” (http://www.youtube.com/watch?v=UDuscC0xDec) qua tiếng hát “liêu trai” của Thanh Thúy đã
gây nhiều xúc động trong lòng người nghe và mãi đến bây giờ, mỗi lần được nghe
lại bài hát nầy hoặc là nhìn thấy lại hình tấm thẻ bài chúng ta càng thấy ngậm
ngùi và thương tiếc những chiến sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến vừa qua. Nhạc sĩ
Huyền Anh đã viết những câu thật xúc động:
Sau cuộc chiến
này còn chi không anh?
Còn chi không anh?
Hay chỉ còn lại tấm thẻ bài
Đã mờ mờ mang tên anh.
….
Anh đã đi, đã đi vào vùng biển
đời người
Anh ngủ yên, ngủ yên như cỏ
úa
Anh ơi sau cuộc chiến này
Có còn chi để lại
Hay chỉ còn tấm thẻ bài mang
tên anh
Trong số các món quân trang,
quân dụng được cấp phát, ngoài chiếc balô người lính còn có poncho là một tấm vải
mưa trùm đầu theo kiểu vải khoác của người Nam Mỹ. Poncho lại còn có một công dụng
mà bất cứ người lính nào cũng chẳng muốn sử dụng: poncho sẽ được dùng để khâm
liệm xác của tử sĩ bỏ mình trên chiến trường.
Bài hát Kỷ vật cho em (http://www.youtube.com/watch?v=yL65W5oupwA)
với giọng ca Elvis Phương có một đoạn rất bi thương:
Em hỏi anh,
em hỏi anh bao giờ trở lại
Xin trả lời, xin trả lời mai
mốt anh về.
Anh trở về chiều hoang trốn
nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh
Anh trở về bờ tóc em xanh
Chít khăn sô lên đầu vội
vã.. Em ơi!
Bài hát này do nhạc sĩ Phạm
Duy phổ nhạc từ bài thơ Để trả lời một câu hỏi của Linh Phương. Ca khúc ra đời
vào năm 1970, trong thời kỳ cuộc chiến tranh Việt Nam đang leo thang và trở
thành một trong những bài hát nổi tiếng nhất tại miền Nam. Đã có một thời, bản
nhạc bị chính quyền cấm đoán vì làm “nản lòng chiến sĩ” đồng thời “băng hoại
hàng ngũ quân đội” dù Phạm Duy đã cố gắng sửa câu “Không về bằng chiến thắng
Pleime” của Linh Phương thành “Có thể bằng chiến thắng Pleime”.
Lời bài hát rất thật nhưng cũng
không kém phần bi lụy với những ngôn từ như “anh trở về, có khi là hòm gỗ cài
hoa, anh trở về bằng chiếc băng ca, trên trực thăng sơn màu tang trắng”… “anh
trở về trên đôi nạng gỗ, anh trở về, anh trở về bại tướng cụt chân. Em ngại
ngùng dạo phố mùa xuân bên người yêu tật nguyền chai đá” và… “anh trở về nhìn
nhau xa lạ, anh trở về dang dở đời em, ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen, cố quên
đi một lần trăn trối”.
Thi thể những tử sĩ được
chùm poncho chờ trực thăng đưa về hậu cứ
Không phải bài hát nào về
lính cũng nhuộm màu bi quan như Kỷ vật cho em. Chúng ta còn vô số bài với nhịp
điệu vui tươi và ngôn từ nhí nhảnh như bài Tình thư của lính do Trần Thiện
Thanh sáng tác.
Thư của lính
không xanh màu trời như mơ ước đâu em.
Thư của lính không thơm nồng
hương, không nét hoa đa tình.
Thư của lính ba lô làm bàn
nên nét chữ không ngay.
Nhưng thư của lính ghi giữa
rừng cây khi nhớ em thật đầy.
Và kết thúc lá thư với một
câu thật dễ thương:
Thư của lính, thư không được
dài như mong ước đâu em.
Thư của lính chấm dứt ở đây,
sau khi đề thêm hai chữ "Hôn em..."
(Xem video này được các diễn
viên trẻ trình diễn trên sân khấu hải ngoại
http://www.youtube.com/watch?v=b1kHk7ZW5VM ).
Sau năm 1975, Thư của lính vẫn
còn xuất hiện. Lang thang trên mạng tôi bắt gặp bài hát được hòa âm và làm clip
với lời dẫn: "Tặng các chiến sĩ quân đội Việt Nam" (ý muốn nói Quân đội
Nhân dân Việt Nam). Bản nhạc của Trần Thiện Thanh đã được sửa ngay từ câu đầu "Từ khi anh thôi học và từ khi
anh khoác áo treilli" thành "Từ khi anh thôi học và từ khi anh khoác
áo lính ra đi" và cứ như thế, lời và âm điệu của bài hát được “biên tập”
theo dạng karaoke… Xin mời vào xem tại:
Sau khi so sánh hình ảnh thể
hiện trong 2 clip mang cùng tên Tình thư của lính, người ta nhận thấy ngay chân
dung của hai người lính và ngộ ra một điều thật đơn giản: trong đánh nhau không
phải cứ to xác là thắng theo kiểu “mạnh được yếu thua”, trái lại việc thắng-bại
còn được quyết định qua nhiều yếu tố khác nữa. Truyện David & Goliath là một
thí dụ điển hình.
Thủy quân lục chiến tái chiếm
Huế sau Tết Mậu Thân 1968
Tổng Thống Mỹ, John F.
Kennedy, trong diễn văn nhậm chức năm 1961 đã từng tuyên bố: "Đừng hỏi tổ
quốc có thể làm gì cho bạn, hãy hỏi bạn có thể làm gì cho tổ quốc" (Ask
not what your country can do for you — ask what you can do for your country). Đối
với người lính bình thường, họ không bao giờ có những ý nghĩ cao xa, lý tưởng
như ông Kennedy mà chỉ đơn thuần làm theo những yêu cầu của tình hình chính trị
tại miền Nam khi đó.
"Trốn lính" là chấp
nhận sống bên lề xã hội, "trốn chui trốn nhủi" khi thấy bóng dáng cảnh
sát, quân cảnh. Cuộc sống của người trốn quân dịch là những chuỗi ngày bấp
bênh, không tương lai ngay giữa Sài Gòn đô hội. Cũng vì thế, có người tự chặt
"ngón tay bóp cò" (ngón trỏ) để khỏi đi lính, có người "tự hành
xác", "ốm tong ốm teo" để được các trung tâm nhập ngũ trả về vì
"không đủ sức khỏe".
Cảnh bắt thanh niên trốn
quân dịch tại Sài Gòn
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã một
thời "trốn lính" để không một ngày nào phải khoác áo treilli. Với
thân hình khẳng khiu, ốm yếu, anh đã ung dung ngồi tại nhà để viết nhạc, trong
đó có cả những bài "phản chiến". Có người bảo TCS đã “đâm sau lưng
chiến sĩ”. Người ta đồn TCS còn nhận được sự che chở của Chuẩn tướng Lưu Kim
Cương, Tư lệnh Sư đoàn 5 Không quân (Lưu Kim Cương đã tử trận vì trúng đạn B-40
của VC, trong khi đang đi trên xe Jeep điều quân giải vây vành đai phi trường
Tân Sơn Nhất ngay sau Tết Mậu Thân 1968). Cái chết của Lưu Kim Cương là nguồn cảm
hứng cho nhạc sĩ TCS sáng tác nhạc phẩm Cho một người nằm xuống:
Anh nằm xuống
sau một lần đã đến đây
Đã vui chơi trong cuộc đời nầy
Đã bay cao trong vòm trời đầy
Rồi nằm xuống, không bạn bè,
không có ai
Không có ai từng ngày
Không có ai đời đời
Ru anh ngủ vùi mùa mưa tới
Trong nghĩa trang này có
loài chim thôi.
Nhà văn Thế Phong trong Hồi
ký ngoài văn chương phát hành tại Westmington ghi lại chuyện giữa TCS và Lưu
Kim Cương:
"Buổi đưa tiễn [Lưu Kim
Cương] đến nơi an nghỉ cuối cùng có rất đông nghệ sĩ từng giao du yêu mến
chàng. Bài nhạc 'Anh nằm xuống" [bài hát chính thức có tựa đề "Cho một
người nằm xuống" chứ không phải là “Anh nằm xuống” - chú thích của NNC] của Trịnh Công Sơn là một
ví dụ. Nhưng bữa nay không thấy mặt Sơn, buổi sinh thời Sơn giao du với Cương,
được Cương yêu mến, nên Cương đề nghị với Tướng Tư Lệnh đưa Sơn vào lính không
quân để cho qua cơn binh đao nội chiến. Tư lệnh trả lời Cương, hình như điệu nhạc
phản chiến của Sơn không hợp với binh chủng này, nếu nhận làm nhạc công như nhiều
nhạc sĩ khác như Duy Quang, Nguyễn Trung Cang, Trí khùng... chưa chắc Sơn đã
làm công việc này hoàn hảo, nên tướng chối từ".
Đã có rất nhiều văn nghệ sĩ
khoác áo kaki. Làng tân nhạc ngày xưa có 4 nam ca sĩ hàng đầu mà người ta thường
gọi là “tứ trụ”: Duy Khánh (1938-2003), Hùng Cường (1935-1998), Nhật Trường
(1942-2005) và Chế Linh. Duy Khánh thường hát với Thanh Thúy, Chế Linh đi đôi với
Thanh Tuyền, Nhật Trường rất ăn ý với Thanh Lan và Hùng Cường hát chung với Mai
Lệ Huyền. Họ thường lên sân khấu với bộ đồ treilli để hát những ca khúc về lính
trong khi các nữ ca sĩ đóng vai… “em gái hậu phương”. Tùy theo định kiến của
người xem nên có nhiều người “thương” nhưng cũng không ít kẻ “ghét” những hoạt
cảnh về lính trên sân khấu.
Ca sĩ Nhật Trường, chính là
nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, tốt nghiệp trường Hạ sĩ quan năm 1965, phục vụ tại Cục
tâm lý chiến thuộc Bộ tổng tham mưu từ năm 1965 cho đến ngày Sài Gòn đổi chủ.
Nhật Trường đã từng làm việc tại Ðài phát thanh Sài Gòn và sau đó là Truyền
hình Quân Ðội, từng là Trưởng ban văn nghệ của Đài và đến năm 1968 anh còn phụ
trách thêm chương trình phóng sự chiến trường. Năm 1993, Nhật Trường sang Hoa Kỳ
theo diện đoàn tụ gia đình (ODP) và qua đời vào ngày 13/5/2005 tại thành phố
Westminster, Quận Cam, do bệnh ung thư phổi.
Trong số khoảng 200 bài hát
Nhật Trường Trần Thiện Thanh sáng tác thì có đến hơn nửa về lính. Điển hình là:
Anh không chết đâu anh (vinh danh Đại úy “Mũ đỏ” Nguyễn Văn Đương), Người ở lại
Charlie (vinh danh Đại tá Nguyễn Ðình Bảo), Rừng lá thấp (viết tặng Đại Úy Vũ Mạnh
Hùng, tử trận trên cầu Thị Nghè), Tuyết trắng (viết về Không quân), Hoa biển
(viết về Hải quân), Biển mặn (kể lại cuộc đời quân ngũ của chính tác giả), Người
yêu của lính, Màu mũ anh, màu áo em…
Nhật Trường - Trần Thiện
Thanh
Hùng Cường (1935-1998) là một
ca sĩ, nghệ sĩ cải lương, diễn viên điện ảnh và diễn viên kịch nổi tiếng từ thập
niên 1950 tại Sài Gòn. Thập niên 1960, Hùng Cường cùng Mai Lệ Huyền chuyển sang
thể loại “nhạc kích động” theo các điệu nhanh như Twist, Bebop… gây nên một
không khí mới mẻ trong nền âm nhạc thời đó. Hùng Cường tình nguyện vào binh chủng
Biệt động quân với cấp bậc Hạ sĩ đóng tại trại Đào Bá Phước. Chàng ca sĩ thuộc
loại "lính văn phòng" đóng tại Sài Gòn để còn thì giờ đi hát tại các
vũ trường, đại nhạc hội và đóng phim.
Hùng Cường sở hữu giọng hát
“ténor” và thành công với các bản nhạc như Dù Hoa Lạc Lối, Đám Cưới Nhà Binh, Một
Trăm Phần Trăm, Lính mà em, Làm quen với lính… Từ những khán giả hâm mộ giọng
ca Hùng Cường những phim anh đóng cũng được người xem chú ý như: Chân Trời Tím,
Mãnh Lực Đồng Tiền, Còn Gì Cho Nhau… Trong lãnh vực cải lương, Hùng Cường hát
chung với Bạch Tuyết tạo thành một “cặp bài trùng” trên sân khấu với các vở tuồng
nổi tiếng một thời như Má hồng phận bạc, Tình chú Thoòng…
Như đã nói, một nghệ sĩ được
gọi là thành công khi có người hâm mộ nhưng cũng không thể nào tránh khỏi sự
"dị ứng" của những người thuộc nhóm… “không ưa”, trong đó có cả những
người lính.
Hùng Cường & Mai Lệ Huyền:
“Lính Mà Em”
Ca sĩ Duy Khánh (1936-2003),
người gốc Quảng Trị, nổi danh từ thập niên 1960 với dòng nhạc dân ca, nhạc quê
hương và nhạc lính. Ông còn được biết đến như một nhạc sĩ tài năng với hơn 30
ca khúc, nổi tiếng phải kể đến Thương về miền Trung, Lối về đất mẹ, Ai ra xứ Huế,
Xin anh giữ trọn tình quê...
Duy Khánh là một người lính
ngành Chiến tranh Chính trị nhưng đồng thời cũng là một ca sĩ "đào
hoa", ăn mặc rất đúng mốt và lịch lãm. Nhờ thân hình cao lớn và cân đối,
nên thứ gì khoác vào người (nhất là những bộ đồ lính) giúp chàng ca sĩ “hớp hồn”
các fan hâm mộ, nhất là phái yếu. Áo may ở La Ligne, quần ở Văn Quân, giày đóng
ở Trinh đó là những địa chỉ “thời thượng” ở Sài Gòn ngày xưa.
Sau 1975, Duy Khánh ở lại
Sài Gòn và đến năm 1988 được bảo lãnh sang Hoa Kỳ, tại đây ông tiếp tục ca hát
và sáng tác. Duy Khánh mất vào ngày 12/2/2003 tại bệnh viện Fountain Valley,
California, thọ 68 tuổi. Giọng hát Duy Khánh có người rất thích nhưng cũng có
người lại chê là “nhạc sến”. Tại Hoa Kỳ, "giọng ca một thời" Duy
Khánh hát Người lính già xa quê hương của Nhật Ngân. Như đã nói, "hay"
hay "dở" còn tùy người nghe, xin mời vào Youtube để thưởng thức: http://www.youtube.com/watch?v=l5N89SbsAf4
Duy Khánh
“Tứ trụ” của sân khấu ca nhạc
Sài Gòn ngày xưa hiện nay chỉ còn lại Chế Linh. Anh cũng là ca sĩ gây nhiều
tranh cãi nhất trong vấn đề “yêu” hay “ghét”, “sến” hay “sang”. Chế Linh là người
gốc Chàm ở Phan Rang, tương tự như trường hợp của nhạc sĩ Từ Công Phụng. Có thể
nói, hai văn nghệ sĩ này tượng trưng cho hai “trường phái”, hai “thái cực”:
“hâm mộ” người này thì sẽ “dị ứng” với người kia.
Chế Linh có thiên hướng hát
về nhạc chiến tranh ca tụng người lính VNCH dù anh không phải nhập ngũ vì thuộc
thành phần "dân tộc thiểu số". Những bài hát nổi tiếng nhất phải kể đến:
Đêm nguyện cầu, Thành phố buồn, Thói đời, Thương hận, Trong tầm mắt đời, Đêm buồn
tỉnh lẻ, Áo em chưa mặc một lần...
Chế Linh ở lại Sài Gòn sau
năm 1975. Năm 1976-1978, anh bị bắt vì “vượt biên trái phép” và tội “phản động”,
biệt giam 28 tháng. Năm 1980, anh vượt biên thành công sang Mã Lai, sau đó định
cư tại Toronto, Canada. Ngoài việc là một trong những giọng ca nam hát “nhạc
vàng” được yêu thích nhất, Chế Linh còn nổi tiếng là người có nhiều vợ con,
tính cho đến tháng 1/2007, anh đã có 4 vợ và 14 đứa con!
Có một thời, ở Sài Gòn, người
ta bàn tán cái tên Chế Linh theo kiểu "nói lái" sẽ trở thành…
"Lính chê"! Theo lời giải thích của Chế Linh, đó cũng là điều dễ hiểu
vì anh được “miễn dịch” với lý do “dân tộc thiểu số” nên quân đội “chê”. Một số
người lại hiểu theo nghĩa khác, họ nói những bài hát về lính của anh lại bị…
“lính chê”. Rõ ràng đây là quan điểm của những người lính không thích những bài
anh hát về họ.
Một lần nữa, vấn đề “nhạc sến”
lại được đặt ra. Chủ đề “sến” sẽ được bàn đến ở một entry khác trong loạt bài
Ngôn ngữ Sài Gòn xưa.
Chế Linh và nhạc sĩ Châu Kỳ
tại Sài Gòn
***
Thà Như Giọt Mưa - NGỌC LAN
TẤM THẺ BÀI. Thanh Thúy
Kỷ vật cho em (nhạc Phạm
Duy, thơ Linh Phương) - Ngọc Lan
Tình thư của lính - Thế Sơn
"Cho Một Người Nằm Xuống"
Khánh Ly trình bày, Nhạc Trịnh C. Sơn
Người lính già xa quê hương
CHẾ LINH - Đêm Nguyện Cầu
(Trích Hồi Ức Một Đời Người,
Chương 4 – Thời quân ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9
Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà
Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà
Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên
(Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài
Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng
Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh
(Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những
chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước
vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút
ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp
một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống
lỗ)!
***
4 Comments on Multiply
nguoigiaonline wrote on Mar
8
Cảm ơn anh, thật lâu rồi mới
được xem tiếp bài viết của anh. Chúc khoẻ, vui và có thêmnhiều entry hay nha!
:)
linalol wrote on Mar 9
Cám ơn ngocchinh. Đã lâu mới
lại được đọc entry mới của bạn:) Chúc vui:)
nam64 wrote on Mar 9
Anh cho Ròm xin bài này về
chung với hình xưa của Ròm nha ,cám ơn anh nhiều.
nguyenngocchinh wrote on Mar
9
OK, Nam Ròm.
2 nhận xét:
HUU THAI08:27 11 tháng 6,
2013
Bài viết đã cho thấy những sự
thật về tình trạng quân ngũ thời VNCH, tuy nhiên vẫn chưa xúc tích và đầy đủ, cũng
như dễ gây hiểu lầm toàn là sự dối trá và bè phái nhũng lạm tham ô trong hệ thống
quân giai. Tuy nhiên chúng ta phải thừa nhận là có tình trạng lính ma,lính kiểng,
trốn lính...cũng như giới nhà nghèo thường phải gia nhập quân ngũ trong khi giới
nhà giàu tìm cách cho con em họ được ở tại hậu phương hoặc du học. Ở đây phải
thừa nhận những kẽ hở của luật pháp cũng như sự bất công trong thời chiến tranh
lúc ấy, nhưng chúng ta cũng phải nhìn nhận đó không phải là lý do chính yếu dẫn
tới sự sụp đổ của chính thể VNCH,mà đó chỉ là một hệ quả tất yếu của một trong
những thiếu sót vô cùng tai hại mà chính phủ thời ấy đã không chú ý hoặc cố
tình bỏ qua. Tôi nhớ năm 1974 TT. Nguyễn Văn Thiệu đã lên tiếng trên hệ thống
phát thanh về nạn lính ma lính kiểng, nhưng sau đó cũng ít có cải thiện. Cũng dễ
hiểu vì ở các đơn vị quân đội, sư đoàn...các vị chỉ huy đã bao che để nhận hối
lộ và như thế cấp số quân nhân luôn bị thiếu hụt, và những kẻ có tiền không phải
chiến đấu, đó là bất công. Và ở thượng tấng cơ cấu thiếu những nhà lãnh đạo biết
quan tâm đến vận mệnh quốc gia, thay vào đó là những kiểu hưởng thụ vật chất,
tham ô nhũng lạm trong muôn vàn cám dỗ vật chất và tiền bạc. Hậu quả dẫn đến
ngày 30/4/1975 cùng với việc Hoa Kỳ bỏ rơi VNCH. Tuy nhiên chúng ta nhìn nhận cũng
có những vị chỉ huy hết lòng tận tụy với đất nước và chấp nhận hy sinh, cùng với
bao chiến sỹ QLVNCH trong cuộc chiến vô cùng khốc liệt ấy.Một nén hương lòng
cho một thời kỷ niệm, một thời đạn bom...
Phe CS đã chiến thắng nhờ biết
tận dụng thời cơ,mánh khóe, tàn bạo...và Hoa Kỳ tháo lui trong cuộc chiến ấy.
Trả lời
Kenny Truong07:07 19 tháng
9, 2013
Cám ơn anh những nghiên cứu
có giá trị để đời...Sau này ai muốn tìm hiểu thêm sẽ được toại nguyện với những
bài viết này. Sài gòn và miền nam Việt nam có những cái để quên và để nhớ kể từ
sau cuộc chiến 30 tháng 4 năm 1975
Trả lời
No comments:
Post a Comment