Những phương tiện di chuyển đã đi vào dĩ vãng
(3/5)
Xe ngựa
Thời cổ, giới quyền quý
Trung Hoa dùng xe do ngựa kéo mỗi khi di chuyển. Thời trung cổ, tại Pháp và một
số nước châu Âu giới quý tộc thường đi loại xe do hai ngựa kéo, xe song mã thể
hiện đẳng cấp của những người thuộc gia đình quyền quý. Ngày nay các loại xe
song mã chỉ còn được dùng trong việc đưa khách du lịch đi ngoạn cảnh.
Xe song mã phục vụ khách du
lịch tại Melbourne, Úc châu
(Ảnh tác giả chụp)
Tại miền Nam vào những năm
1880 của thế kỷ 18, xe ngựa là phương tiện đi lại bình dân và phổ biến ở vùng
Sài Gòn-Gia Định. Đây là loại xe do một ngựa kéo được bắt nguồn từ kiểu cỗ xe
song mã sang trọng của Pháp được người dân miền Nam chế tác cho phù hợp với điều
kiện kinh tế, xã hội và địa hình của Việt Nam.
Trước đó, người Pháp đã đưa
xe ngựa vào Đông Dương làm phương tiện vận chuyển hành khách cũng như hàng hóa.
Người Pháp gọi xe ngựa ở thuộc địa là “Malabar” và sau này còn có tên “Boîte
d’allumettes” vì hình dáng giống như một hộp diêm quẹt.
Một trong những hình ảnh được
coi là xưa nhất của xe ngựa tại Sài Gòn là chiếc xe của Nhà máy Sản xuất Thuốc
phiện (Manufacture d’Opium) được chụp vào khoảng đầu thập niên 1980 (*).
Có thể thấy dòng chữ bằng tiếng
Pháp trên thành xe ghi rõ là xe của nhà máy. Phía bên trái là hình của một người
phu xe kéo đứng nhìn chiếc xe ngựa, hình như anh rất ngạc nhiên với hình ảnh một
chiếc xe do ngựa kéo được người Pháp đưa vào Đông Dương.
Xe ngựa trước Nhà máy Sản xuất
Thuốc phiện tại Sài Gòn
Xe ngựa dưới dạng xe “cải tiến”
đơn giản còn được dùng trong hoạt động của quân đội viễn chinh Pháp tại thuộc địa
Đông Dương. Loại xe này dùng để chuyên chở quân trang, quân dụng trong lực lượng
võ trang của quân đội thuộc địa.
Xe ngựa dùng trong quân đội
thuộc địa
Loại xe ngựa cầu kỳ hơn được
dùng để chuyên chở hành khách là những viên chức thuộc địa và gia đình. Những
chiếc xe này mang dáng dấp của loại xe song mã thường thấy tại Âu châu với “xà
ích” là người bản xứ.
Như vậy, ngay trong giới lái
xe người bản xứ cũng phân chia nhiều đẳng cấp tùy theo mức độ sang trọng của
phương tiện: thấp nhất là phu xe kéo (còn được gọi là cu-li), kế đến là “xà
ích” (người điều khiển xe ngựa) và cao nhất là tài xế xe hơi (chaffeur).
Hình ảnh các phương tiện
giao thông trước Nhà thờ Đức Bà vào những năm 1920s
Đặc điểm của thời kỳ xe ngựa
mới du nhập vào Đông Dương là loại song mã hoặc chỉ có một ngựa kéo. Riêng phần
thân xe được đặt trên 4 bánh, hai bánh sau có đường kính lớn hơn hai bánh trước
để giữ đối trọng với ngựa chạy phía trước, khác hẳn với xe ngựa do người Việt
chế tạo sau này chỉ với hai bánh.
Xe ngựa tại chợ Bến Thành
Xe ngựa bên Nhà thờ Đức Bà
Xe ngựa Sài Gòn khoảng 1930
Xe ngựa Chợ Lớn
Chiếc Malabar một ngựa
Tại miền Bắc, khi đó còn được
gọi là Tonkin, người Pháp cũng sử dụng xe ngựa cho các quan chức thuộc địa
nhưng số lượng không đáng kể so với miền Nam, còn có tên là Cochinchine.
Xe song mã tại Hải Phòng
Trước những loại xe ngựa
sang trọng của Pháp, người Việt đã mày mò sáng tạo ra loại xe một ngựa đơn giản
và bình dân hơn để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa. Loại xe một
ngựa này còn có một cái tên khác là xe thổ mộ.
Có rất nhiều cách giải thích
về xuất xứ về tên gọi xe thổ mộ tại miền Nam. Có người nói thổ mộ vốn có mái
che khum khum giống hình ngôi mộ nên người bình dân gọi là… “thổ mộ”. Giải
thích mang tính cách ngôn ngữ học cho rằng “thổ mộ” là chữ đọc trại từ “thảo
mã” hay “thụ mã” theo tiếng của người Quảng Đông vốn là số đông người Hoa sinh
sống tại miền Nam.
Xe thổ mộ chuyên chở hàng
hóa giữa Sài Gòn
Lại có ý kiến cho rằng “thổ
mộ” chính là chữ đọc trại từ Thủ Dầu Một, thuộc tỉnh Bình Dương, nơi được coi
là “cái nôi” của của xe thổ mộ. Để dẫn chứng giả thuyết này, người ta dẫn chứng
một bài vè cổ về 47 chợ tại miền Nam:
… Khô như bánh tráng là chợ
Phan Rang,
Xe thổ mộ dọc ngang là chợ
Thủ Dầu Một
Chẳng lo ngập lụt là chợ
Bưng Cầu…
Vào những thập niên 40 và 50
là giai đọan phát triển của xe thổ mộ. Tại chợ Thủ Dầu Một có đến 3 bến xe thổ
mộ hoạt động nhộn nhịp, có khi lên đến trên 50 chiếc. Không chỉ vậy, Thủ Dầu Một
còn có nhiều trại mộc đóng xe thổ mộ có tiếng với thùng xe đẹp, trang nhã, bánh
xe bền chắc. Xe sản xuất tại Thủ Dầu Một còn được gọi là xe “Thùng Thủ” để phân
biệt với các nơi sản xuất khác và cũng để khẳng định “đẳng cấp” của mình.
Xe thổ mộ nhìn từ phía sau
Để làm một chiếc xe thổ mộ
đòi hỏi nhiều yêu cầu khắt khe chứ không đơn giản như người ta tưởng. Kích thước
về chiều dài, chiều rộng, chiều cao của thùng xe phải cân bằng khi di chuyển
trên mọi địa thế. Thùng xe được đặt trên hai thanh nhíp gồm 4 lá thép để giảm độ sóc khi xe chạy trên đường. Nói chung, từng
chi tiết của xe phải chính xác để tạo sự an toàn khi chuyển động.
Gỗ làm xe thổ mộ phải là loại
tốt như Giáng Hương, Căm Xe, gỗ mít… không bị mối mọt. Quan trọng nhất là cặp
bánh xe vì là phần chịu tải chính nên được làm rất cẩn thận, trục ngang của xe
bằng ống thép chịu lực cho thùng xe nhưng lại không dùng bạc đạn mà chỉ có ổ trục.
Mỗi bánh xe được ghép từ sáu
mảnh gỗ gắn với 12 chiếc căm cắm vào trục bánh xe. Sau đó, một vòng sắt quấn
quanh bánh xe để bảo vệ phần gỗ và cuối cùng một lớp nệm cao su được nịt chặt ở
vòng ngoài.
Xe thổ mộ trên đường phố
Thùng xe được thiết kế
thoáng mát, tạo sự thoải mái cho hành khách nhưng có vẻ hơi cao so với mặt đường
trong khi chỉ có một miếng sắt để khách lên xuống xe. Đây cũng là điểm yếu của
xe thổ mộ nhưng một số người lại thích ngồi vắt vẻo trên xe với hai chân đong
đưa để ngắm nhìn đường phố.
Bên trong thùng xe, khách ngồi
trên chiếu đâu mặt nhau, guốc dép máng ở hai cọc sắt phía sau hai góc thùng. Nếu
vắng thì khách ngồi thòng chân ở phía có bàn đạp lên, xuống. Hai vè bên thùng
xe uốn gợn sóng có thể dùng để gác hàng hóa. Và trên cùng là cái mui uốn cong,
lợp thiếc, nhô ra tới nửa mình ngựa, khum lại giống như mui chiếc ghe bầu nhưng
cũng trông tựa một cái… mả nên nới gọi là thổ mộ (?).
Ngựa, xà ích và hành khách
Âm thanh của chiếc thổ mộ với
những tiếng kêu “lóc cóc, lọc cọc” phát ra từ móng ngựa được bọc sắt tiếp xúc với
mặt đường nhựa cũng trở nên quen thuộc với nhiều thế hệ người miền Nam. Có nhiều
xe còn gắn lục lạc cho ngựa nên khi chạy trên đường tiếng lục lạc hòa lẫn tiếng
lọc cọc, cộng với tiếng “họ, họ” điều khiển ngựa của người xà ích tạo thành một
bản nhạc đặc thù của xe ngựa Sài Gòn xưa.
Về sau, có dòng xe thổ mộ
“văn minh” hơn, được cải tiến từ bánh xe gỗ sang bánh xe bằng cao su bơm hơi với
đường kính nhỏ hơn và do đó thùng xe cũng thấp hơn. Loại xe này giúp hành khách
lên xuống thoải mái, an toàn. Khi chạy trên đường, lốp xe cao su êm hơn nhưng
ngược lại, “tiếng nhạc” thổ mộ vốn có mất dần đi khiến những người “hoài cổ”
không tìm lại được cái thú của ngày nào.
Dòng xe thổ mộ có bánh xe
cao su
Ngựa kéo xe thổ mộ thường là
những con ngựa đua đã có tuổi, không còn đủ sức vẫy vùng trên đường đua nhưng vẫn
còn có thể di chuyển giữa lòng đường phố nhộn nhịp xe cộ. Bộ yên lưng bằng da
có hai quai lồng vào hai càng xe đặt hai bên vai ngựa. Sợi yên lưng còn lồng
vào đuôi ngựa để khi xuống dốc có tác dụng kềm ngựa. Lại còn có dây bụng nâng
ngực ngựa khi xe chạy. Người xà ích đôi khi xếp khách ngồi dịch lên hoặc lùi xuống
là để cho ngựa không bị sức nặng đè vai hoặc bó chặt ngực khó chạy.
Đọc truyện Chiếc xe thổ mộ của
Bích Thủy ta mới thấy sự gắn bó thân thương giữa người xà ích và con ngựa kéo
xe:
“Bộ giây cương treo trước tầu
ngựa đã lên nước bóng láng. Gần đó, phía bên trái, chiếc xe thổ mộ cũng đã đuợc
lau chùi cẩn thận nằm dưới bóng râm mát của cây trứng cá. Chỉ còn có con Long
Mã nữa là xong. Long Mã là tên của con ngựa. Nó cũng cần tắm rửa sạch sẽ.
Bình mỉm cười khi nghĩ đến
con ngựa. Nó đứng trong tầu, khuất sau mấy gióng gỗ, mớ lông đuôi nhịp nhàng
phe phẩy. Bình nói với nó:
- Chờ một lát nữa nghe !
Long Mã quay đầu lại hí nhẹ
một tiếng, rồi vục mõm vào đống cỏ tươi trong góc chuồng.”
…
Con Long Mã già rồi. Nó đã
28 tuổi ngựa! Tuy vậy nó vẫn còn giữ được phong độ của loài ngựa đua: Cao,
thon, bộ da nâu sậm đã hơi nhăn vì các thăn thịt không còn săn sái như hồi còn
sung sức. Nhưng bộ gió nó vẫn còn, nhất là đôi mắt vẫn còn giữ nguyên vẻ tinh
nhanh”.
Nhân vật Bình ở đoạn trích dẫn
mới chỉ là cháu nội của cụ Lâm, người xà ích sống ở Ngã ba Ông Tạ, ngày ngày chạy
xe thổ mộ đón khách dọc theo đường Lê Văn Duyệt đến chợ Hòa Hưng, chợ Chí Hòa,
ga Hòa Hưng... Hồi còn trẻ, cụ Lâm là một tay đua “tuyệt phích”. Về già, hai
ông cháu thui thủi sống bên nhau, lấy chiếc xe thổ mộ làm kế sinh nhai.
Long Mã đã từng đoạt giải Quốc
Khánh 1957, giải Mùa Xuân 1957 và giải Trung Thu 1958 tại trường đua Phú Thọ: “Con
Long Mã nom thật oai vệ. Bộ lông của nó đã được Bình chải chuốt, óng đỏ dưới
ánh nắng dịu. Trên đầu của nó được trang điểm thêm một chùm lông trĩ đứng ngộ
nghĩnh giữa hai chiếc tai vểnh nhọn, nom như chiếc mão của một võ tướng thời
xưa!”
Hai ông cháu sống vào thời kỳ
suy tàn của xe thổ mộ trước sự ra đời ồ ạt của xe xích lô, nhất là cyclo máy,
đang đánh dạt xe thổ mộ ra vùng ngoại ô. Và cuộc chiến thầm lặng giữa thổ mộ và
cyclo đang đi dần đến hồi kết cuộc.
Chiếc xe thổ mộ, tiểu thuyết
của Bích Thủy
Không chỉ tập trung tại Sài
Gòn, xe thổ mộ còn lan tỏa ra các tỉnh phía Nam nhằm đáp ứng việc đi lại trong
vùng, mua sắm, thăm viếng, cưới hỏi… người ta đều chọn xe ngựa vì tính tiện lợi
và rẻ tiền của nó. Người ta có thể lên và xuống xe tại bất cứ chỗ nào nên xe thổ
mộ gắn bó mật thiết với người bình dân. Đây cũng là nét văn hóa và lịch sử của
miền Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng.
Một chút buồn thoáng qua khi
hình dung đến hình ảnh chiếc xe thổ mộ ngày xưa. Một nỗi buồn không tên vẫn thường
đến với những người mang nỗi lòng hoài cổ:
…Tôi không còn là tôi. Tôi
trở thành ai đó
Những cuộc tình như trưa nắng
lao xao
Xe thổ mộ ngỡ ngàng quanh chợ
huyện
Chở tôi về nhưng tôi biết về
đâu?...
(thơ Lê Minh Quốc)
Bến xe ngựa ở Tây Ninh
***
Chú thích:
(*) Nhà máy Sản xuất Thuốc
phiện (Manufacture d’Opuim): Từ khi chiếm được Đông Dương, người Pháp đã biết đến
một nguồn lợi tài chính họ có thể thu được từ thuốc phiện mà sự tiêu thụ đã lan
tràn khắp nơi trong dân chúng.
Năm 1861, hai người Pháp đã
được dành cho độc quyền buôn bán thuốc phiện, với một khoản lệ phí nộp cho
chính quyền mỗi năm là 92.000$, nhưng mặc dù được hưởng những ưu đãi, việc kinh
doanh của họ đã gặp nhiều trở ngại.
Đến năm 1864 và sau đó, bằng
phương thức đấu thầu do chính quyền thuộc địa tổ chức 3 năm một lần, độc quyền
buôn bán thuốc phiện đã luôn về tay những người Trung Hoa, ban đầu thuộc bang
Quảng Tây rồi sau đó là Phúc Kiến. Do sự câu kết thông đồng của những người Hoa
tham dự thầu, số tiền thu về cho chính quyền qua các kỳ đấu thầu mãi không tăng
thêm được bao nhiêu, dù việc buôn bán thuốc phiện của họ ngày càng mở rộng và
phát triển.
Năm 1881, Toàn Quyền Le Myre
de Vilers quyết định thay thế việc nhượng quyền buôn bán thuốc phiện bằng việc
quản lý trực tiếp của chính quyền thuộc địa. Thật ra, vị Toàn Quyền này biết rằng
nếu nằm trong tay người Trung Hoa, việc buôn bán thuốc phiện chẳng khác nào một
võ khí nguy hiểm cho nền an ninh và quyền lợi của người Pháp.
Đến cuối năm 1881, Cơ quan
Thuế Trực thu được thành lập để bảo đảm việc khai thác độc quyền về rượu và thuốc
phiện, và cũng để tiếp tục theo đuổi việc thu thuế đánh vào lúa gạo xuất khẩu.
Chính vào thời kỳ này mà Nhà máy Sản xuất Thuốc phiện được thành lập ở Sài Gòn
tại số 74 đường Paul Blanchy (ngày nay là đường Hai Bà Trưng).
No comments:
Post a Comment