Wednesday, February 20, 2019


Ngôn ngữ Sài Gòn xưa (2/2)


Lính tráng (2)

Trong lãnh vực văn chương, Sài Gòn xưa không thiếu những ấn phẩm viết về lính. Một trong những tác phẩm nổi bật là Đời Phi Công của nhà văn Toàn Phong, bút hiệu của Đại tá Không quân Nguyễn Xuân Vinh.  Đời Phi Công xuất bản lần đầu năm 1960 và được Giải thưởng Văn chương Toàn quốc cùng năm. Trong một phỏng vấn ở hải ngoại sau này, tác giả Toàn Phong cho biết ông bắt đầu viết Đời Phi Công vào năm 1959 và đăng mỗi tuần một kỳ vào ngày thứ Hai trên nhật báo Tự Do.

Đời Phi Công là một cuốn truyện dưới dạng những bức thư của một phi công viết cho người yêu là sinh viên tên Phượng để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày “lướt gió tung mây”, đêm thì dõi theo “ánh tinh cầu”. Những bức thư ghi lại kỷ niệm vui buồn trong những phi vụ, kể lại một cuộc sống vừa lãng mạn vừa sôi nổi của một phi công thời chiến.

Đời Phi Công ra đời làm nức lòng các thanh niên thiếu nữ. Thanh niên thì nuôi giấc mộng hải hồ, thiếu nữ thì mơ có người yêu là một chàng phi công hào hoa “đi mây về gió”. Tác phẩm này đã là đề tài của nhiều buổi thuyết trình và có những đoạn được trích dẫn trong chương trình “kim văn” trung học đệ nhất cấp.

Trong một bức thư gửi cho Phượng khi bước chân sang Pháp học lái máy bay, Toàn Phong viết: “Em cũng như tất cả những người thân-tình, cũng như tất cả những người dân Việt, chắc hẳn phải đồng ý rằng nước nhà cần có đủ mọi ngành quân-lực. Đường đời muôn vạn nẻo anh đã chọn lấy một hướng, dù gian-nan muôn trùng anh cũng sẽ mỉm cười dấn bước”.

Ngôn ngữ trong Đời phi công là một thứ ngôn ngữ gợi hình. Tác giả gọi những bức thư là “giòng lá thắm”, ánh mắt của cô Phượng “trông như ánh pha-lê”, hành trình của người con trai thời chiến như “một chiếc lá vàng đã trót được thả trên giòng đời” còn phi công được thi vị hóa như những “tráng-sĩ” hay “hiệp-sĩ không-trung”…

Nếu để ý, ta sẽ thấy những từ Hán-Việt đều được Toàn Phong viết có gạch nối. Đó là phong cách viết cầu kỳ của người Sài Gòn xưa. Tham khảo thêm về Toàn Phong Nguyễn Xuân Vinh tại
(Đà Lạt sương mù: Hồi ức về một người thân).

Phi công VNCH sau phi vụ “Bắc Phạt” năm 1965

Nhà văn quân đội thứ hai mà tôi muốn đề cập đến là Thế Uyên. Tôi biết Thế Uyên khi còn học tại Ban Mê Thuột. Khi đó ông lưu lạc đến cao nguyên đất đỏ trong vai trò một giáo sư dạy môn Công dân Giáo dục và Triết trước khi bị động viên vào khoá 14 Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức, cùng một lượt với nhà thơ Thanh Tâm Tuyền.

Thầy trò chỉ hơn nhau có 11 tuổi nhưng, đối với tôi, thầy Dũng mang dáng dấp của một người từng trải với điếu thuốc lúc nào cũng gắn trên môi. Thế Uyên, bút hiệu của thầy Nguyễn Kim Dũng, sinh năm 1935 tại Hà Nội trong một gia đình có truyền thống văn học. Mẹ ông là em ruột nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, bà cũng là chị nhà văn Thạch Lam.

Sau 1975, cũng như hàng trăm ngàn sĩ quan của miền Nam, ông bị đi tù cải tạo một thời gian, trước khi đến định cư tại Mỹ. Cách đây vài năm ông bị “stroke” tê bại một nửa người, phải ngồi trên xe lăn để di chuyển trong nhà. Tuy nhiên, bằng một nghị lực phi thường, ông đã tập viết lại bằng tay trái, và đã viết bài cho các tạp chí văn học hải ngoại.

Đoạn đường chiến binh – Thế Uyên

Thế Uyên là tác giả của các tác phẩm nổi tiếng xoay quanh người lính trong chiến tranh Việt Nam như Mười ngày phép của một người lính, Tiền đồn, Đoạn đường chiến binh... Trong một cuộc phỏng vấn Thế Uyên cho biết:

“Nếu nghề dạy học đã làm tôi hút thuốc lá từ lúc trẻ cho tới khi bị stroke, thì nghề làm lính làm tôi thích bia rượu và thay đổi hẳn quan niệm và cách viết văn. Tôi từ bỏ (hay bị từ bỏ, vì hoàn cảnh sống có tác động mạnh đến bút pháp) lối viết và đề tài cũ, giã từ những mối tình trai gái lãng mạn trong thành phố an bình, chuyển sang chiến tranh và các hệ luỵ của nó. Với tôi, quân đội và chiến tranh, như một vết cắt, thành trước và sau, before and after, trước sex vẫn hiện diện, nhẹ nhàng thôi, bây giờ sex nặng nề, tràn đầy… Như trong Tiền Đồn, Mười Ngày Phép Của Một Người Lính, Nỗi Chết Không Rời...


Thủ bút và chân dung Thế Uyên (tranh của Tạ Tỵ)

Trong tác phẩm Tiền đồn, Chị Ba, người nông dân tượng trưng cho người dân Việt Nam - ở cả miền Nam lẫn miền Bắc - đã phải, được và bị làm tình với cả ba phe lâm chiến hồi đó: lính miền Bắc, lính miền Nam và lính Mỹ. Đó là một đề tài sex rất mới lạ trong mảng chiến tranh mà Thế Uyên đã đưa vào tiểu thuyết. Có người bảo giữa tình dục và chiến tranh hoàn toàn không có gì liên quan đến nhau nhưng Thế Uyên lại nghĩ khác:

“…Nhà văn Võ Phiến (một người không đi lính và không ở tiền tuyến với súng đạn chông mìn) không đồng ý với phân tích đó, cho rằng chiến tranh vẫn có đó, cho nhiều người, nhưng không liên quan gì đến tăng hay giảm sex trong văn chương... Tôi tôn trọng ý kiến nhưng không đồng ý với bậc đại trưởng lão này. Để tránh tranh cãi, tôi xin nói lại thế này: Riêng đối với cá nhân tôi, đang khi và sau khi rời mặt trận, tôi cảm thấy phải sử dụng tới sex, tới làm tình, nghĩa là sự sống, tạo sự sống, mới diễn tả được chiến tranh, sự chết, huỷ diệt. Tôi cảm thấy thế thì phải viết như thế, thật tự nhiên, không gò ép…

Ở Tiền đồn còn có những chi tiết nhỏ nhoi mà những tác giả chưa từng sống trong tâm trạng của người lính trực tiếp cầm súng không thể nào có được:

“Mới chỉ thiếu đi một khoảnh khắc ánh trăng ... mình mệt rồi, chàng thì thào, phải kiếm đôi giày khác, đưa đôi này đi làm fermeture. Một thằng bạn nào đã nói: Phải đi giày có fermeture mới đỡ căng thẳng thần kinh... Hắn có lý đấy, chàng sợ nhất ban đêm bị đánh bất ngờ, xỏ giày không kịp, cứ chân không tác chiến và chạy băng bờ bụi…”

Trong giai đoạn “chiến tranh du kích”, người Sài Gòn dùng cụm từ “đắp mô” để chỉ những hoạt động của du kích MTGPMN tối tối thường ra các trục lộ giao thông phá hoại đường xá. Trong Tiền Đồn, chuyện “đắp mô” của “những người anh em phía bên kia” lại được Thế Uyên diễn tả bằng “ngôn ngữ của lính”:

“Hai tiếng nổ lớn kế tiếp vang dội. Những viên đất nhỏ rơi lả tả trên đầu, quần áo. Vũ quay đầu lại la lớn về phía toán đang dùng TNT phá ụ: "Còn mấy cái mả Hồ Chí Minh nữa mới xong?". Một tiếng la trả lời: "Ba mả nữa!".


Người lính tiền đồn và gia đình

Dĩ nhiên trong lãnh vực báo chí Sài Gòn xưa tràn ngập những tin tức liên quan đến lính, từ các mục Tin Chiến Sự, Tin Chiến Trường đến các mục Hậu phương & Tiền Tuyến, Ủy lạo binh sĩ, v.v… Riêng quân đội cũng có cơ quan báo chí trực thuộc Phòng 5 Bộ tổng tham mưu với tờ Phụng Sự, ấn phẩm ra hàng tháng trong suốt thời gian từ 1953 đến 1960. Phụng Sự là tạp chí nghị luận, biên khảo và văn nghệ với sự góp mặt của Toàn Phong (tác giả Đời Phi Công đã đề cập đến ở phần trên), Hoàng Ngọc Liên, Hà Liên Tử, Nguyễn Mạnh Côn, Uyên Thao, Phan Lạc Tuyên…

Báo Chiến Sĩ Cộng Hòa (1959-1974) là cơ quan hợp nhất hai tờ Phụng Sự và Quân Đội và tạp chí Chỉ Đạo xuất hiện từ tháng 10/1956 thuộc Ủy ban Chỉ đạo chiến dịch Tố Cộng. Ngoài những nhà văn vừa kể, những tờ báo lính còn xuất hiện bài vở của các cây bút tiếng tăm trong và ngoài quân đội như Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Thiệu Lâu, Toan Ánh, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Bình Nguyên Lộc, Trần Phong Giao, Dương Kiền, Duyên Anh, Hà Huyền Chi…

Nguyệt san Quân Đội của Nha Chiến tranh Tâm lý xuất hiện từ đầu năm 1957 đến 1960, do Trung-úy Tô Kiều Ngân làm chủ bút (hẳn bạn đọc còn nhớ tiếng sáo của Tô Kiều Ngân trong chương trình Tao Đàn trên đài phát thanh Sài Gòn). Tiếp đến là những tờ Tiền Phong, Lý Tưởng, Mũ Đỏ, Lướt Sóng, Tinh Thần, Khởi Hành, và các nhật báo Tiếng Dân, Dân Việt, Tiền Tuyến…

Tổng thống Ngô Đình Diệm đã xác định trong một bài diễn văn tại trường Sĩ quan Võ bị Đà Lạt năm 1960: “Cuộc chiến tranh ta phải đương đầu không phải là một thứ chiến tranh quân cụ, một thứ chiến tranh bấm nút, hay một thứ chiến tranh chỉ liên hệ đến một số quân nhân mà thôi đâu. Thứ chiến tranh mà ta phải đối địch là thứ chiến tranh cách mạng, một thứ chiến tranh lý tưởng liên hệ trực tiếp đến toàn dân, và trong đó yếu tố tinh thần, yếu tố tin tưởng vào chế độ của mình là yếu tố quyết định”.

Ngày Quân lực VNCH được chính thức chọn vào ngày 19/6/1965 trong thời Ðệ nhị Cộng hòa (dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia, Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, và Chủ tịch Ủy ban hành pháp Trung ương, Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ) sau khi nền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Từ năm 1965 cho đến 1974 đều có các cuộc diễn binh trọng thể để kỷ niệm Ngày Quân Lực tại Sài Gòn. (Một sự tình cờ ngẫu nhiên 19/6 lại trùng với ngày sinh của tác giả bài viết này (19/6/1946)!


Diễn binh mừng Ngày Quân Lực 19/6

Khẩu hiệu chính của quân đội VNCH là “Danh dự – Trách nhiệm – Tổ quốc”, mỗi binh chủng lại còn có khẩu hiệu riêng, chẳng hạn như Không quân là “Tổ quốc, Không gian”, “Bảo quốc, Trấn không” hoặc Cảnh sát thì có “Cảnh sát Quốc gia, Phục vụ Đồng bào”… Các đơn vị quân đội VNCH ngoài tên gọi còn có những “biệt danh” nghe rất kêu nhưng cũng rất ngổ ngáo. Thủy quân lục chiến có Quái Điểu (tiểu đoàn 1), Trâu Điên (tiểu đoàn 2), Sói Biển (tiểu đoàn 3), Kình Ngư (tiểu đoàn 4), Hắc Long (tiểu đoàn 5), Thần Ưng (tiểu đoàn 6), Hùm Xám (tiểu đoàn 7), Ó Biển (tiểu đoàn 8), Mãnh Hổ (tiểu đoàn 9). Biệt động quân có biệt hiệu “Cọp ba đầu rằn”, Không quân có các phi đoàn Thần Phong, Thần Tượng, Song Chùy, Phi Hổ, Hổ Cáp, Thiên Lôi, Hỏa Long, Phượng Hoàng…

Quân lực VNCH có một số cơ sở đào tạo và huấn luyện. Đứng đầu là Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, đào tạo những thanh niên tình nguyện trở thành sĩ quan hiện dịch ra trường với cấp bậc Thiếu úy. Khi mới thành lập năm 1948, thời gian huấn luyện tại trường chỉ kéo dài 9 tháng. Năm 1957 tăng lên thành 12 tháng rồi đến năm 1961 là 2 năm.

Đến giữa thập niên 1960, khóa học của Trường Võ bị Đà Lạt là chương trình 3 năm, từ năm 1966 trở đi lại tăng lên 4 năm. Học trình lúc đầu tương đương với trường cao đẳng. Sinh viên mãn khóa được miễn thi nhập học vào trường đại học vì coi như hoàn tất bằng tú tài toàn phần (gồn Phần I, lớp Đệ nhị và Phần II, lớp Đệ nhất). Đến năm 1966, sinh viên tốt nghiệp Trường Võ Bị có văn bằng tương đương với bằng cử nhân khoa học. Hai năm đầu sinh viên mang cấp bậc trung sĩ, hai năm sau là chuẩn úy. Sinh viên học xong 4 năm thì tốt nghiệp với cấp thiếu úy.

Khóa học bao gồm những môn vũ khí, truyền tin, tác chiến, kết hợp lý thuyết với thực hành. Theo truyền thống, để được gắn Alpha, sinh viên sĩ quan sau những tuần huấn nhục phải leo lên ngọn Lang Biang để nhận phù hiệu trên đỉnh ngọn núi cao nhất Đà Lạt.

Trường Võ bị Quốc gia lấy Học viện West Point của Hoa Kỳ làm mẫu mực. Hai năm đầu chương trình học cho các sinh viên đều giống nhau. Bắt đầu từ năm thứ ba trở đi thì tách ra ba quân chủng riêng biệt, trong đó 1/8 thuộc Không quân, 1/8 thuộc Hải quân và 3/4 thuộc Lục quân.


Trường Võ bị Quốc gia

Năm 1965, quân lực VNCH tiếp nhận khái niệm và cơ cấu Chiến Tranh Chính Trị (CTCT) khi đó được áp dụng trong Quân đội Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan). Tổng cục CTCT được tổ chức thành 5 cục bao gồm Cục chính huấn, Cục tâm lý chiến, Cục xã hội, Cục an ninh quân đội, Cục quân tiếp vụ và một trường Ðại học Chiến Tranh Chính Trị cũng đặt tại Đà Lạt. Tại đây, sinh viên phải qua một chương trình huấn luyện 2 năm để trở thành Thiếu úy hiện dịch.

Chương trình học nhấn mạnh về khoa học xã hội và chính trị. Sinh viên phải học quân sự hàng năm tại Trường Võ bị Quốc gia để có thể chỉ huy một trung đội bộ binh với đầy đủ kiến thức về chiến thuật, chiến lược. Bên cạnh đó là việc học những kiến thức chuyên môn tại trường để trở thành sĩ quan chiến tranh chính trị.


Sinh viên Sĩ quan Võ bị

Trường Bộ binh Thủ Đức là nơi tập họp các thanh niên có bằng Tú tài Phần I trở lên (lớp Đệ nhị) bị động viên vào quân ngũ để được đào tạo trở thành sĩ quan trừ bị và ra trường với cấp bậc Chuẩn úy. Trong suốt thời gian hoạt động 1953-1975, trường Thủ Đức đã đào tạo hơn 80.000 sĩ quan trong đó khoảng 4.000 sĩ quan đặc biệt là những hạ sĩ quan được đặc cách đi học lớp sĩ quan. “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu” và “Cư An Tư Nguy” (Muốn sống hòa bình phải nghĩ đến chiến tranh) là những châm ngôn của Trường.

Trường Bộ binh Thủ Đức là nơi tôi đã từng trải qua với vô vàn kỷ niệm, vui cũng như buồn rất khó quên. Bò hỏa lực, đoạn đường chiến binh, leo dây tử thần, hít đất, thụt dầu, phạt dã chiến là những món “ăn chơi” không thể thiếu trong thời gian “huấn nhục” của người chiến binh. Vui nhất phải kể đến những lần về phép cuối tuần tại Sài Gòn nếu không có lệnh “cấm trại 100%”.

Người ta thường gọi sinh viên sĩ quan Thủ Đức chúng tôi là “lính con cá” vì trên cầu vai không có lon mà chỉ có chữ Alpha tựa như hình con cá! Phải đợi đến khi tốt nghiệp ra trường mới được đeo lon Chuẩn úy (Omega). Trường Bộ binh Thủ Đức có “khu bưu chính” (KBC) mang số hiệu 4100, con số 4100 (bốn ngàn một trăm) được sinh viên chúng tôi đọc trại thành “bốn người một mâm”… chả là vì mỗi khi lên “nhà bàn” ăn cơm thì cứ bốn người ngồi chung một carrée!


Một sinh viên sĩ quan Thủ Đức

Tại Sài Gòn còn có Trung tâm Huấn luyện Quang Trung chuyên đào tạo binh sĩ cho các đơn vị tác chiến khắp “bốn vùng chiến thuật”. Tôi cũng đã từng nếm mùi quân trường Quang Trung trước khi được chuyển sang Thủ Đức ở giai đoạn 2.

Quang Trung có món “chà láng”: những lúc rảnh rỗi tất cả phải ra giao thông hào, dùng càmen bằng inox để chà đất cho thật láng! Một việc làm “vô bổ” nhưng lại có tác dụng khiến cho những thanh niên mới khoác áo lính phải bận rộn, không còn thì giờ rảnh rỗi để nhớ nhà, nhớ cuộc đời dân sự.


Tác giả thực tập "bò hỏa lực" tại TTHL Quang Trung

Trường Huấn luyện Không quân, Trường Sĩ quan Hải quân và Trường Hạ sĩ quan (tốt nghiệp với cấp bậc Trung sĩ, thường được gọi là Trường Đồng Đế) tất cả đều ở Nha Trang, “miền quê hương cát trắng”. Trường Thiếu sinh quân đặt tại Vũng Tàu, ưu tiên cho các con em tử sĩ. Còn một số trung tâm huấn luyện chuyên môn cho các quân binh chủng như Pháo binh, Công binh, Quân cụ, Quân khuyển, Quân y, Truyền tin… đặt tại các địa phương trên cả nước.

Sẽ là điều bất công nếu không nói về Đoàn Nữ Quân Nhân, “những bông hồng trong bộ đồ lính” hay nói một cách thi vị hơn: “Hoa lạc giữa rừng gươm”. Trưởng Đoàn Nữ Quân Nhân đầu tiên là Đại tá Trần Cẩm Hương, ái nữ của kỹ sư Trần Văn Mẹo – Tổng trưởng Công chánh thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

Nữ quân nhân hiện diện tại các đơn vị quân đội với quân phục tác chiến ở tiền phương hoặc với đồng phục màu xanh tại các đơn vị tham mưu. Họ có mặt trong mọi binh chủng và ngành chuyên môn trong quân lực và vào thời điểm “leo thang chiến tranh”, quân số của Đoàn Nữ Quân Nhân lên tới xấp xỉ 10.000 người. 

Trường Nữ Quân Nhân nằm trên đường Nguyễn Văn Thoại (ngày nay là Lý Thường Kiệt), giữa Trường đua Phú Thọ và Chợ Tân Bình. Trường được thành lập từ giữa thập niên 1960 và đặt dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hồ Thị Vẽ, từ ngày đầu tiên cho đến ngày cuối cùng, 30/4/1975.

Một nữ quân nhân xuất thân từ Trường Nữ Quân Nhân chưa có đủ chuyên môn để phục vụ các đơn vị, nên thường phải trải qua một thời gian huấn luyện nữa, như ngành quân y, học tiếp ở Trường Quân Y để trở thành một y tá lành nghề. Tùy theo trình độ văn hóa, người nữ quân nhân có thể phục vụ trong quân đội như “lính trơn”, hạ sĩ quan hay sĩ quan.

Ngoài ra còn có Trường Xã Hội Quân Đội thuộc Tổng cục Chiến tranh Chính trị, tọa lạc trong Trại Lê Văn Duyệt, nơi đặt bản doanh Bộ Tư lệnh Biệt khu Thủ đô nằm trên đường Lê Văn Duyệt (ngày nay là Cách mạng tháng 8). Trường Xã Hội Quân Đội còn đào tạo và huấn luyện những cô giáo nhà trẻ mẫu giáo để phục vụ tại các trung tâm, trường học ở khu gia binh thuộc quyền điều hành của quân đội. Trường Sinh ngữ Quân đội nơi tôi giảng dậy cũng có một nhà trẻ dành cho con em của các giảng viên và do nữ quân nhân phụ trách.

Người có cấp bậc cao nhất trong Đoàn nữ quân nhân là Đại tá Trần Cẩm Hương, xuất thân từ ngành Nữ trợ tá xã hội. Khi Đại tá Cẩm Hương giải ngũ về hưu, Trung tá Lưu Thị Huỳnh Mai lên nắm quyền Chỉ huy trưởng. Ngoài ra còn có những nữ Trung Tá thâm niên quân vụ và cấp bậc như Nguyễn Thị Hằng, Hồ Thị Vẽ, Nguyễn Thị Hạnh Nhơn. Cấp bậc nữ Thiếu tá có khoảng trên dưới mười người trong quân lực VNCH.


Đoàn Nữ Quân Nhân diễu hành trong Ngày Quân Lực

Lực lượng quân đội VNCH có đến 11 sư đoàn bộ binh, 1 sư đoàn nhảy dù, 1 sư đoàn thủy quân lục chiến, Liên đoàn 81 Biệt cách dù, 21 liên đoàn biệt động quân, 4 lữ đoàn Kỵ binh thiết giáp, Lực lượng Lôi Hổ và Biệt Hải thuộc Nha Kỹ thuật, các đơn vị Pháo binh biệt lập và lực lượng Địa phương quân gồm 400 tiểu đoàn, nghĩa quân hơn 50.000 quân.
Lực lượng Không quân có quân số khoảng 60.000 người. Chỉ huy trực tiếp là Bộ tư lệnh Không quân với đầy đủ các cơ quan yểm trợ. Binh chủng bao gồm 5 Sư đoàn không quân tác chiến trong đó có 20 Phi đoàn khu trục cơ (khoảng 550 phi cơ A-1H, A-37 và F-5); 23 Phi đoàn trực thăng (khoảng 1.000 phi cơ UH-1 và CH-47); 8 Phi đoàn quan sát (khoảng 200 phi cơ O1, O2 và U17); 1 Sư đoàn vận tải (khoảng 150 phi cơ C7, C-47, C-119 và C-130); 1 Không đoàn tân trang chế tạo và 4 Phi đoàn Hỏa long (trang bị phi cơ AC-119, AC-130 Spectre Gunship). Ngoài ra còn có Phi đoàn Trắc giác (tình báo kỹ thuật), Phi đoàn Quan sát RC119L và Biệt đoàn Đặc vụ 314. Các phi công đều được đào tạo chuyên môn tại Hoa Kỳ sau thời gian học quân sự và ngoại ngữ ở trong nước.

Lực lượng Hải quân có quân số hơn 40.000 người, ngoài các đơn vị yểm trợ hành chánh, huấn luyện và tiếp vận còn bao gồm các lực lượng tác chiến: Hành quân lưu động sông và Hành quân lưu động biển. Lực lượng Hải quân bao gồm tuần dương hạm (WHEC - White High Endurance Cuttert), hộ tống hạm (PCE - Patrol Craft Escort), khu trục hạm (DER - Destroyer Escort and Ricket), tuần duyên hạm (PGM - Patrol Gunboat Motor), giang pháo hạm (LSIL - Landing Ship Infantry Light), trợ chiến hạm (LSSL - Landing Ship Support Large), dương vận hạm (LST - Landing Ship Tank), hải vận hạm (LSM - Landing Ship Medium) và giang vận hạm (LCU - Landing Craft Utility).

Hải quân còn có các Lực lượng đặc nhiệm 211 thủy bộ và Liên đoàn Người nhái. Tổng cộng được trang bị khoảng 1.500 tàu xuồng các loại, trong đó có khoảng 700 tàu chiến trên sông và trên biển. Nổi tiếng nhất trong số đó là Liên đoàn Người nhái với hai tướng Dã Tượng và Yết Kiêu được tôn vinh là Thánh tổ của đơn vị. “Người nhái” là những thanh niên gan dạ, có đầy đủ sức khỏe để thực hiện những “hải vụ” bí mật trên sông và trên biển.    

Những con số vừa nêu rõ ràng là nói lên sức mạnh hùng hậu của quân lực VNCH. Chỉ tiếc một điều, sức mạnh đó sẽ không là gì một khi đồng minh “đem con bỏ chợ” và hậu quả là ngày 30/4/1975.

Dưới đây là huy hiệu của các đơn vị quân lực VNCH do Đỗ Văn Phúc vẽ lại (click vào hình để phóng to):

Huy hiệu 4 Quân đoàn và các Sư đoàn Bộ binh


Huy hiệu các quân binh chủng


Huy hiệu các lực lượng tổng trừ bị


Huy hiệu các quân trường

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)

Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

***

14 Comments on Multiply

cuuphansinh wrote on Mar 13
Công phu quá!

mitake911 wrote on Mar 13
nghe Mẹ kể, những người lính VNCH ngày xưa, ai cũng đẹp trai, phong độ và hào hoa :D

penseedl wrote on Mar 14
Người quen của Pensée đã đeo cấp bậc đại úy và đã theo học một khóa gì đó ở trường này trong 2 năm. Hình như khóa sĩ quan trung cấp. Khóa này học gì và nhiệm vụ sau này thế nào. Anh có thể cho biết không? Thanks.

nguyenngocchinh wrote on Mar 14
Pensée không nói rõ "trường này" là trường nào nên đành "bó tay".

penseedl wrote on Mar 15
Sorry anh Chính, là trường Chiến tranh chính trị ở đối diện với trường BTX đấy ạ.

penseedl wrote on Mar 15
Bây giờ ở VN có người hay nói: "...BÓ TAY CHẤM (.) COM" nghe vui đáo để.

nguyenngocchinh wrote on Mar 15
Nếu đeo lon đi học thì thuộc trường hợp học khóa cao cấp, Trường CTCT vẫn hay có những khóa như vậy.

nguyenngocchinh wrote on Mar 15
Hồi xưa mấy ông sĩ quan CTCT thường sang Đài Loan, trước là "học tập" chuyên môn sau là... du hí!

songhong wrote on Mar 16
Công phu thật. Tổng hợp lại làm thành một Vietnamica đi anh Chính à.
Anh làm ơn sưu tầm lịch sử cuả Phó Đức Chính (tên một con đường ở Saigon). Không biết có liên hệ gì với Phó Đức Chính ở Long Hồ, Vĩnh Long không? Cám ơn anh.

nguyenngocchinh wrote on Mar 16
Xin ghi nhận đề nghị của anh Sông Hồng. Nếu có thì giờ, tôi sẽ sưu tầm các tư liệu về Phó Đức Chính. Theo hiểu biết của tôi, Phó Đức Chính (1907 - 1930) là nhà cách mạng Việt Nam, một trong những lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng, cánh tay phải của Nguyễn Thái Học. Chắc không liên quan gì đến PĐC ở Vĩnh Long vì ông sinh ra tại Hưng Yên. Khi cuộc khởi nghĩa Yên Bái bị thất bại, ông bị tử hình cùng 12 đồng chí khác, trong đó có Nguyễn Thái Học. PĐC đã từ chối việc chống án với câu nói đầy khí phách: "Đại sự không thành! Chết là vinh! Còn chống án làm chi vô ích!".

songhong wrote on Mar 17
Cám ơn anh Chính. Anh có tư liệu rất đầy đủ. Sớm cho ra đời một Vietnamnica nhé anh Chính. Chúc anh luôn vui mạnh và thành công.

nam64 wrote on Mar 26
Em gom 2 gọp lại thành một
Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Lính tráng

nam64 wrote on Mar 26
Ròm đã làm bài viết của anh Chính ra thành file pdf. Có thể click chuột trái vào Attachement đã load về PC hoặc là click chuột phải vào để xem, đọc theo dạng pdf file.
Attachment: Ngôn ngữ Sài Gòn xưa Lính tráng.pdf

nguyenngocchinh wrote on Mar 26
Thanks Nam Ròm đã bỏ công làm PDF file. 

5 nhận xét:

VongNgayXanh17:26 2 tháng 10, 2012
Cảm ơn Anh Chính về nhũng Bài viết thật công phu và những hình ảnh,tài liệu dẩn chứng xác thực. Xin phép Anh được trích một số Bài để phổ biến trên Blog tôi.

Trả lời

Ngoc Chinh Nguyen18:04 2 tháng 10, 2012
VongNgayXanh cứ "tự nhiên" mang về blog của mình nhé.

Trả lời

Thanh Nguyen03:40 31 tháng 1, 2013
Hình đội thủ quốc quân kỳ chú thích phải là trường võ bị chứ không phải CTCT.

Trả lời

HỮU THÁI17:42 10 tháng 6, 2013
NNC đã viết một bài rất hay, khiến tôi nhớ lại một thời huy hoàng của QLVNCH. Theo nhận xét của tôi đó là một quân lực được huấn luyện theo cách thức của quân đội Hoa kỳ, với phương tiện yểm trợ và hậu cần phải dồi dào mới tăng được khả năng chiến đấu hữu hiệu. Trong khi đó quân đội miền Bắc VN được huấn luyện theo kiểu chiến tranh thế trận nhân dân,thích nghi với kiểu chiến tranh du kích và hạn chế tiếp liệu, phải chấp nhận gian khổ khó khăn. Hơn nữa với chính sách tuyên truyền, tâm lý lấy chiến tranh giải phóng nhân dân làm nòng cốt khiến binh lính không còn sự lựa chọn nào khác hơn là chiến đấu bất chấp cái chết..dưới sự lãnh đạo của đảng
QLVNCH tuy cũng có kỷ cương và tinh thần chiến đấu, nhưng nhìn chung quân nhân cũng có phần tự do hơn trong cách sống và ngay cả tư tưởng. Hơn nữa quân đội thiếu một chiến dịch tuyên truyền sâu rộng để tăng khả năng chiến đấu hữu hiệu, chấp nhận những thiếu thốn gian khổ, nhất là sau hiệp định Paris 27/1/1973 mọi điều bất lợi đã nghiêng về phía VNCH.Chúng ta phải nhìn nhận là giới lãnh đạo và các nhà quân sự cũng không có kế hoạch cụ thể nào về thời kỳ khủng hoảng này, trong khi ỏ các đô thị lớn các cuộc biểu tình,xuống đường chống chính phủ( dĩ nhiên bị CS lợi dụng)làm tinh thần dân chúng và quân đội xuống thấp chưa từng thấy...và trên hết là Hoa Kỳ đã bỏ rơi miền Nam VN, dẫn đến kết cuộc 30/4/1975.
Chúng ta sẽ rút ra bài học gì từ sau các biến cố ấy, dù QLVNCH đã lùi vào dĩ vãng?Và hãy một phút tưởng niệm chiến sỹ VNCH đã hy sinh trong cuộc chiến cho lý tưởng tự do .

Trả lời

Ngoc Chinh Nguyen09:08 21 tháng 6, 2013
Nhà văn Thế Uyên, Giáo sư Nguyễn Kim Dũng, đã ra đi về cõi vĩnh hằng ngày 11/6/2013, hưởng thọ 79 tuổi. Dưới đây là Phân Ưu của Hội Ái hữu Trung học Ban Mê Thuột:

PHÂN ƯU

Hội Ái Hữu Trung Học Ban-Mê-Thuột vô cùng đau buồn báo tin trễ

Cựu Giáo Sư, nhà văn, nhà báo
THẾ UYÊN NGUYỄN KIM DŨNG

Đã từ trần ngày 11 Tháng 6 năm 2013,lúc 5 giờ 31 chiều, tại tư gia, Seattle, WA

Hưởng thọ 79 tuổi

Tang lễ và an táng đã cử hành ngày Chủ Nhật 16 tháng 6 năm 2013

Hội Ái Hữu cựu Giáo Sư, Học Sinh Trung Học Ban-Mê-Thuột, đồng thành kính chia buồn cùng cô Nguyễn Thuý Sơn và toàn thể tang quyến.

Kính nguyện cầu hương linh Thầy THẾ UYÊN NGUYỄN KIM DŨNG sớm tiêu diêu Miền Lạc Cảnh.


No comments:

Post a Comment