NGƯỜI MẸ CỦA BIÊN GIỚI SỐNG VÀ CHẾT.
NGƯỜI MẸ CỦA BIÊN GIỚI SỐNG VÀ CHẾT.
Năm 2000, tôi tới giúp tĩnh tâm cho cộng đoàn Công Giáo Việt Nam ở Oakland,
miền bắc California. Hôm ấy, cuối nhà thờ có người gọi tôi. Quay lại nhìn, ngờ
ngợ, ai ngờ đâu tôi gặp lại người đàn ông tôi đang muốn tìm từ lâu…
Sáu năm làm việc tại trại tỵ nạn Palawan, Philippines 1989 – 1995, tôi gặp
ông ở đấy. Một người đàn ông im lặng, ít nói. Ông lúc nào cũng như có chuyện khổ
tâm. Ngày ngày ngồi tráng bánh ở một góc đường trong khu trại tỵ nạn. Ngâm gạo
đêm trước, dậy tráng bánh từ hai giờ sáng bên vỉa đường. Mỗi ngày vài chục
pesos. Ngày ấy,1 US dollar được 25 pesos tiền Philippines.
Hoàn cảnh tỵ nạn bấy giờ nhiều người túng cực. Ông phải đùm bọc hai người gốc
Chàm không người quen với bốn em bé không thân nhân. Mấy người sống chung với
nhau trong căn nhà tỵ nạn. Kẻ xách nước, người kiếm củi, ông tráng bánh… Khoảng
ba tháng ông góp được hai chục đô la, lại nhờ cha Crawford, một cha già người Mỹ
trước ở Việt Nam, sau qua trại tỵ nạn giúp đồng bào, gởi qua trại tỵ nạn
Hongkong cho vợ.
Ông rời cửa biển Cam Ranh ngày 2.9.1988 vào đất
Philippines. Một năm sau, tháng 9 năm 1989 ghe của vợ ông rời Vạn Ninh, Nha
Trang được hai ngày bị bể máy. Ghe lênh đênh trên biển đông, rồi lâm nạn. Vợ
ông đem theo ba con nhỏ. Hết lương thực, nhờ mưa gió có nước uống mới sống sót.
Sau nhiều ngày bão táp, một chủ ghe đánh cá người Tầu ở đảo Hải Nam bắt gặp chiếc
ghe lâm nạn này. Ông ta chỉ đồng ý tiếp tế gạo, cho nước và kéo ghe ra khỏi
vùng lâm nạn san hô với điều kiện cho ông ta bé cháu trai trên ghe. Cháu bé
chính là con của người đàn ông này.
Kể từ ngày rời bờ biển Vạn Ninh đến khi gặp chiếc ghe người
Tầu rồi cập được vào đất liền là 25 ngày. Nước Tầu hạn chế sinh sản. Ông chủ
ghe người Tầu mong một cháu trai mà không được. Cuộc mặc cả là xé ruột gan người
mẹ. Trước biên giới sống và chết, họ phải chọn sống. Vấn đề ở đây là sự sống của
toàn thể 44 người trên chiếc ghe. Nếu không mất đứa bé, toàn ghe có thể chết.
Chiếc ghe đánh cá người Tầu mang theo cháu bé rồ máy chạy vội vã biến mất
hút về phía Trung Quốc. Rồi tin ấy đưa đến cho người đàn ông này ở Palawan. Mỗi
ngày ông cứ lặng lẽ tráng bánh, kiếm ăn gởi qua cho vợ ở trại tỵ nạn Hongkong.
Ðau thương vì mất con. Con tôi trôi giạt nơi đâu ? Vợ chồng mỗi người một ngả…
Ðứa con mất tích sẽ ra sao? Dáng ông buồn lắm. Cháu bé lúc đó mới hơn ba tuổi.
Cha Crawford kể cho tôi câu chuyện này. Không biết người đàn ông đã nhờ cha
già gởi tiền cho vợ như thế bao lâu rồi. Theo ông kể lại, vì không là người
Công Giáo, ông đâu có tới nhà thờ. Một hôm có mấy người vào cha xin tiền mua
tem gởi thư. Ông cũng đi theo. Rồi một linh cảm nào đó xui khiến ông gặp cha.
Ông kể cho cha già nghe chuyện ông mất con.
Một trong những ý định qua trại tỵ nạn làm việc của tôi là thu lượm những mẩu
đời thương đau của người tỵ nạn. Tôi tìm gặp ông ta để hỏi chuyện…
Câu chuyện bắt đầu.
Sau khi chiếc ghe được kéo vào đảo Trung Quốc, một nửa số
người quá sợ hãi, đi đường bộ trở về Việt Nam. Số còn lại kết hợp với ít người
đã trôi dạt vào đảo trước đó, sửa ghe tìm đường qua Hongkong. Người đàn ông tưởng
chừng vợ đã chết trên biển vì hơn ba tháng sau mới nhận được mấy lời nhắn tin
viết vội bằng bút chì từ trại tỵ nạn Hongkong. Ông đưa miếng giấy nhàu với nét
bút chì mờ cho tôi. Sau khi ông rời trại tỵ nạn, mất liên lạc, tôi chỉ còn giữ
tấm giấy như một kỷ niệm quý hơn chục năm nay.
Ðó là lá thư thứ nhất ông nhận được. Những lần giảng trong Thánh Lễ về tình
nghĩa vợ chồng, tôi lại nghĩ đến ông.. Một người đàn ông cặm cụi tráng bánh để
rồi ba tháng trời dành được 20 đô la gởi tiếp tế cho vợ.
Ông tâm sự với tôi là ông dự tính một ngày nào đó được đi
định cư, dành dụm tiền rồi đi Trung Quốc dò hỏi tin con. Nghe ông nói vậy, tôi
thấy ngao ngán cho ông. Bao giờ ông mới được định cư ? Rồi định cư xong, biết
bao giờ ông mới thực hiện được mơ ước ? Tình trạng tỵ nạn lúc này quá bi đát. Mười
người vào phỏng vấn may ra đậu được ba. Ðất Trung Quốc rộng mênh mông như thế
biết đâu tìm ? Bao nhiêu khó khăn như tuyệt vọng hiện ra trước mặt. Tôi thấy ý
nghĩ mơ ước đi tìm con của ông như cây kim lặng lờ chìm xuống lòng đại dương.
– Tại sao không nhờ Cao Ủy Tỵ Nạn, nhờ Hội Chữ Thập Ðỏ
Hongkong ?
Người đàn ông này sợ lên tiếng như thế gia đình Tầu kia
biết tin sẽ trốn mất. Chi bằng cứ âm thầm tìm kiếm. Tôi thấy dự tính của ông
khó khăn quá. Những năm làm việc bên cha già, tôi biết một đặc tính của ngài là
thương kẻ nghèo. Ngài thương họ vô cùng, ngài sẽ làm bất cứ gì có thể. Tôi đề
nghị cha già cứ viết thư khắp nơi, kêu cầu tứ chiếng.
Các thư được viết đi. Ngài cầu cứu Cao Ủy Ti Nạn, Hội Hồng Thập Tự, cơ quan
từ thiện dịch vụ tỵ nạn Công Giáo, từ Manila đến Bangkok, Thailand. Ðợi chờ mãi
mà năm tháng cứ bặt tin. Tôi vẫn thấy người đàn ông cứ dáng điệu buồn bã ngồi
bên đường tráng bánh… Trời nhiệt đới nắng và nóng, mỗi khi xe chạy qua, bụi đường
bay mờ người. Hàng ngày lên Nhà Thờ, tôi lại hình dung bóng hình ông. Chỗ ông
ngồi không xa tháp chuông Nhà Thờ bạc vôi sơn và tiếng chuông mỗi chiều là bao.
Mỗi chiều dâng lễ, tôi lại nhìn thấy cây Thánh Giá trên nóc Nhà Thờ đã
nghiêng vì gỗ bị mục. Cây thánh giá trải qua nhiều mùa mưa nắng quá rồi. Bức
hình Mẹ Maria bế Chúa Hài Nhi trên tấm ván ép dưới cây Thánh Giá cũng bạc nước
sơn. Những người tỵ nạn đã bỏ một vùng đất rất xa. Quê hương của họ bên kia bờ
biển mặn. Nhiều người cứ chiều chiều ra biển ngồi. Ðêm về sóng vỗ ì ầm. Biết
bao người đã không tới bến.. Họ đến đây tìm an ủi trong câu kinh.
Giữa tháng ngày cằn cỗi ấy, rồi một chiều bất ngờ tin vui đến.. Hội Hồng Thập
Tự Hongkong báo tin về Manila.. Manila điện xuống báo cho cha Crawford biết người
ta đã tìm được cháu bé.
Lúc bắt cháu bé, người Tầu trên ghe đánh cá kia đã lanh
trí che tất cả số ghe. Không ngờ trời xui khiến, trong lúc thương lượng bắt
cháu, trên chuyến ghe tỵ nạn Việt Nam có kẻ lại ghi được mấy chữ Tầu ở đầu ghe
bên kia vào một chiếc áo. Không ngờ chiếc áo này lại là chính chiếc áo của cháu
bé bỏ lại. Quả thật là chiếc áo định mệnh. Nguồn gốc nhờ mấy số ghe đó mà sau
này người ta mới phanh phui ra được gốc tích chiếc ghe. Ðó là một thuyền đánh
cá ở đảo Hải Nam.
Tìm được cháu rồi, bây giờ lại đến phần gia đình người Tầu
đau khổ. Cháu không còn nói được tiếng Việt, vì hơn một năm liền mọi sinh hoạt
trong gia đình kia là của cháu. Hồi bị bắt cháu còn bé quá, mới hơn ba tuổi. Bà
mẹ người Tầu cũng khóc, biết mình sẽ mất đứa con mà họ đã nuôi. Họ nhất định
không trả. Cao Ủy phải can thiệp nhiều lắm. Gia đình ở đảo Hải Nam kia dựa lý
do là cháu đang được nuôi nấng tử tế, còn ở trại tỵ nạn cháu thiếu thốn đủ thứ,
họ không chịu mất con. Nhưng Cao Ủy bắt phải trả cháu về cho bố mẹ ruột.
Ðể thỏa mãn điều kiện kia, Sở Di Trú Mỹ liền cho bà mẹ bị
bắt con quyền định cư tại Mỹ, dù đã đến trại sau ngày thanh lọc. Trong lúc đó
người đàn ông này đã bị Mỹ từ chối tại Philippines. Ông buồn lắm. Cha Crawford
bảo tôi rằng vợ người đàn ông đã được vào Mỹ, nên cơ quan Cao Ủy Tỵ Nạn tại
Philippines yêu cầu cho ông cũng được vào Mỹ theo. Vì nhân đạo, sở di trú Hoa Kỳ
đồng ý. Tin vui như vậy mà ông cứ đứng như trời trồng không tin chuyện có thể xảy
ra như thế.
Ngày trao trả cháu bé, báo chí Hongkong đăng hình cháu
khóc thảm thiết. Cháu đẩy mẹ ruột ra, đòi về với mẹ nuôi. Người mẹ nuôi khóc vì
thương nhớ cháu. Mẹ ruột cũng khóc vì thấy lại con mà con không biết mình. Tất
cả ai cũng khóc… Cao Ủy Tỵ Nạn bồi thường lại phí tổn nuôi nấng cháu bé cho gia
đình người Tầu kia. Chuyến bay rời Hongkong mang theo bao tình cảm nhân loại của
con người với con người.
Thời điểm bấy giờ không biết bao chuyện thương tâm xảy
ra. Hàng trăm ngàn người chết trên biển, ăn thịt nhau vì chết đói. Hải tặc Thái
Lan tung hoành bắt người nhốt ngoài đảo, hãm hiếp, chặt răng vàng, giết. Ðối với
thế giới chuyện cháu bị bắt cóc chỉ là chuyện nhỏ. Vậy vì đâu họ ra sức đi tìm
?
Ðây là lý do:
Câu chuyện thương tâm của người mẹ mất con đến tai Mẹ
Têrêsa Calcutta. Ấn Ðộ là thuộc địa cũ của người Anh. Mẹ Têrêsa viết cho chính
phủ Anh xin can thiệp chuyện này. Từ London, chính phủ Anh xin Bộ Ngoại giao Bắc
Kinh điều tra tìm chiếc ghe mang số như thế..
Bên ngôi mộ Mẹ Têrêsa ở Calcutta, ngày 14.5.2001 tôi kể
chuyện này cho Sơ Bề Trên Dòng. Sơ yêu cầu tôi viết lại cho sơ làm tài liệu.
Trong những ngày này, nhân viên Tòa Thánh đang ở Calcutta điều tra để xúc tiến
hồ sơ phong thánh cho Mẹ Têrêsa. Một Linh Mục ngồi nghe chuyện tôi kể, ngài
nói:
– Tâm hồn Mẹ Têrêsa rất bao dung. Mẹ thương người nghèo.
Mẹ là người của biên giới giữa sống và chết.
Nghe câu nói đó của cha. Tôi hiểu ý là Mẹ luôn đứng bên lề sự sống kéo kẻ
chết về phía mình. Chính vì thế tôi đặt tên cho bài viết này là: Người Mẹ của
biên giới sống và chết.
Nghe tiếng người đàn ông gọi. Quay lại nhìn, không ngờ
chính người đàn ông mất con, ngồi tráng bánh ở trại Palawan ngày xưa, tôi mừng
lắm. Sau lễ chiều, tôi tới nhà ông dùng cơm. Ông rời trại tỵ nạn Palawan tháng
6, lên Bataan rồi vào Mỹ tháng 12 năm 1990. Không ngờ mười năm sau tôi gặp lại.
Cháu bé bây giờ lớn rồi. Chuyện đã hơn cả chục năm qua.
Cháu chẳng nhớ gì. Riêng cha mẹ thì nhớ lắm, nhất là những gì đau thương vì con
cái thì trong trái tim cha mẹ không bao giờ quên. Còn tôi, đấy là một kỷ niệm đẹp
trong những ngày làm việc bên trại tỵ nạn.
Không ngờ có ngày tôi gặp lại người đàn ông này. Không ngờ
có ngày tôi ngồi bên mộ Mẹ Têrêsa trên đất Ấn. Một vùng đất rất xa với chỗ ngồi
tráng bánh của người đàn ông mất con. Không ngờ tôi lại là kẻ chứng kiến những
chuyện tình này, để rồi nối kết khung trời này với khung trời kia. Không ngờ
vào ngày Lễ Phục Sinh năm 1999 ông đã nhận lãnh Bí Tích Rửa Tội, nếu ông không
đi lễ ở Nhà Thờ Oakland hôm đó, làm sao tôi gặp lại.
Tại vùng đất Vạn Ninh, chỉ có một ngôi Nhà Thờ nhỏ miền
quê độc nhất. Ðêm Noel năm 1985 sau khi đến Nhà Thờ về, em bé chào đời đúng
ngày 25 tháng 12 năm 1985. Người đàn ông kể cho tôi ngày sinh nhật của em thật
đặc biệt. Còn tôi, tôi thấy ngày em mới hơn ba tuổi phải hy sinh để cứu chuyến
ghe là hình ảnh thế mạng sống chuộc thay cho người khác.
Trong câu chuyện này cả ba người đàn bà đều có những tấm
lòng rất đỗi đáng yêu. Người mẹ sinh cháu bé, bao yêu thương và xót xa. Mẹ
Têrêsa với tấm lòng hiểu nỗi thương đau của những người mẹ. Bà mẹ nuôi người Tầu
đã săn sóc em khi ông chồng đánh cá đem cháu về. Tất cả là tấm lòng bao dung của
những bà mẹ.
Tôi viết dòng này, cha già Crawford đã chết rồi. Mẹ Têrêsa cũng chết rồi.
Ngày mai, giữa biên giới của sự sống và chết ,còn những chuyện không ngờ
nào sẽ xảy đến nhỉ ?
Lm. NGUYỄN TẦM THƯỜNG, Dòng Tên,
Trích trong sách “Những Trang Nhật Ký Của Một Linh Mục”
No comments:
Post a Comment