Tiếng nước tôi (16/19)
Sep 16, 2014
Tiếng nước tôi: Văn-học dân-gian (4.1) / Dân ca / Bắc Bộ
4. Dân ca
Chúng ta đã xem qua Thành ngữ (những từ-ngữ bóng bảy dùng trong đời sống
hàng ngày), Tục ngữ (đúc kết kinh-nghiệm sống dân gian), và Ca dao (những câu
hát ngắn bộc lộ tình cảm dân gian).
Xin mời các bạn chiêm ngưỡng và hãnh diện với viên ngọc quí trong kho tàng
văn-học dân-gian, thuần tuý, phong phú và phức tạp nhất: Dân ca.
Dân ca là một thể loại ca hát dân gian, chủ yếu phát xuất từ môi-trường
nông-ngư-nghiệp ở thôn làng, rất có thể bắt đầu từ một cá nhân có năng khiếu dệt
nhạc vào một bài ca dao (thơ dân gian), rồi được truyền miệng và nhào luyện, uốn
nắn, gọt dũa qua nhiều người trong tập thể, từ làng này đến làng khác, từ thời
này qua thời khác, có thể sinh ra nhiều dị bản khác nhau, thường khó xác định
được gốc phát xuất.
Nước Việt Nam ta, với gần 80 triệu người Việt và 15 triệu người thuộc 53 sắc
tộc khác nhau thừa hưởng một truyền thống dân ca thật phong phú và đa diện.
Dân ca lại mang một màu sắc địa phương đặc biệt, tùy theo phong tục, ngôn
ngữ, giọng nói, và âm nhạc tính từng vùng mà khác đi đôi chút. Nhưng nhìn
chung, vẫn là bài hát thoát thai từ lòng dân quê với tính chất mộc mạc, giản dị
của nó.
Tính cách địa-phương xem như rất rõ rệt nên tôi xin được phân-loại dân ca
qua tiêu chuẩn Bắc-Trung-Nam.
Ngoài ra, dân ca Việt-Nam rất ư là đa dạng và phức-tạp nên trong phạm-vị của
những bài tham-khảo này, tôi chỉ dám giới thiệu qua vài điểm chính chứ không
dám vào sâu hơn.
4.1 Dân ca Bắc bộ
Đồng bằng và Trung du Bắc Bộ là một vùng dân ca lớn. Những sinh hoạt ca hát
dân gian ở đây mang đậm dấu ấn văn hóa cổ truyền của dân tộc, mà chừng mực nào
đó, ở mỗi thể loại đều phản ánh những sinh hoạt tinh thần của cộng đồng, xã hội
người Việt xưa.
Những lễ nghi, lề lối, thủ tục... gắn bó với hội hè, đình đám, lễ lạc theo
mùa vụ, mà nổi trội lên là hội Thu và hội Xuân, ảnh hưởng trực tiếp đến hình thức
diễn xướng và hình thành đặc trưng nghệ thuật riêng cho mỗi thể loại.
Hát Trống quân, hát Quan họ, hát Xoan...với lề lối và thể hát đối đáp, giao
duyên nam nữ, những lễ thức tín ngưỡng,...đều chứa đựng yếu tố phồn thực trong
đời sống tinh thần của cư dân nông nghiệp
người Việt cổ. Những tín hiệu văn hóa có tính cội nguồn đó rất đặc trưng
cho vùng Bắc bộ.
4.1.1 Hát hội
(Dân ca Việt-Nam, Trần Quang Hải
Hát hội là loại hát đối đáp giữa trai gái tùy hứng ca hát đối đáp, thi tài cao thấp
trong những dịp lễ đầu xuân hay thu, hoặc khi đêm trăng thanh gió mát sau một
ngày làm việc mệt nhọc ngoài đồng.
Hát hội có nhiều loại: hát trống quân, hát quan họ, cò lả ở
vùng Bắc Ninh, hát đúm ở Hải Dương, hát ghẹo, hát xoan ở
Phú Thọ, v.v..
Đặc điểm chung như sau:
- Người hát, làng xã, phải đối nhau chẳng hạn nhóm ("bọn") nam ca
sĩ đối lại với nhóm ("bọn") nữ ca sĩ, và thuộc làng xã khác nhau.
- Hầu hết đều là tình ca.
- Ðặc tính đoàn thể rất được nhấn mạnh, như trong quan họ có tục kết
bạn và phải thuộc vào gia đình quan họ.
- Thi đua là một trong những đặc tính quan trọng. Trong một cuộc hát
đối, các người hát thi đua về trí nhớ, lời ca, óc nhạy bén, phải tùy cơ ứng biến,
khi gặp khó khăn, tài sáng tác tùy hứng, và kỹ thuật ca hát phải có trình độ
cao. Do đó, các làng xã xứ ta thường hay tổ chức hát lấy giải.
- Ðặc tính bán chuyên nghiệp. Người hát quan họ phải thuộc một số bài căn bản, phải luyện tập thường
xuyên. Do đó mới có tục lệ ngủ bọn, nghĩa là các người hát cùng chung một nhóm
thường tựu hợp ở nhà của một người trong bọn, ăn ngủ tại đó để có thì giờ học tập
với nhau và tập hát gọi là bẽ giọng.
Tiến-trình mỗi cuộc thi hát như thế thường chia làm ba hay bốn giai đoạn:
- Hát mời ăn trầu trong trống quân; Hát giọng lề lối trong quan họ; Hát dạo, hát
chào, hát mừng, hát hỏi trong hát phường vải; Hát dạo, hát mừng, hát thăm trong
hát ghẹo.
- Sau khi hát mở đầu thì đến phần hát thi. Phần này, bắt đầu các bài
hát khó vì phải sáng tác tại chỗ, như hát trả lời câu đố trong trống quân, giọng
sỗng, giọng vặt trong quan họ,hát đố, hát đối trong phường vải, và hát đối, hát
đố, hát xe kết trong hát ghẹo. Chẳng hạn như trong bài hát trả lời câu đố trong
trống quân, bên gái ra câu đố thì bên trai phải giải cho trúng và đố lại. Bên
nào không đối được thì kể như thua. Loại hát này được đệm bằng một nhạc khí đặc
biệt là cây trống quân hay thổ cô. Một cây mây dài bốn, năm thước căng vòng cầu
bắt ngang một cái hố được đào ngay điểm giữa cây mây. Một người hát đánh vào
cây mây để đệm, tạo âm thanh giống như tiếng trống.
- Cuộc thi hát tiếp tục sang giai đoạn ba với các bài hát khen tặng
trong trống quân, hát mời, hát xe kết trong phường vải, và giọng hãm, giọng huỳnh
trong quan họ.
- Sau cùng là hát tiễn như trong phường vải, hát giã bạn trong quan họ, hát
thề, hát dặn, hát tiễn trong hát ghẹo.
4.1.1.1 Quan họ Bắc Ninh
Đặc biệt và phức tạp nhất có lẽ là thể-loại này. Lề lối ca hát Quan họ mang
tính chất quy củ, khuôn phép chặt chẽ và tác động đến sự giữ gìn, phát triển
Quan họ.
Quan họ Bắc Ninh tập trung chủ yếu ở vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh và Bắc Giang).
Đây là môn nghệ thuật được hợp thành bởi nhiều yếu tố như âm nhạc, lời ca,
phục trang, lễ hội … với một lối hát giao duyên dân dã, thể hiện mối quan hệ gắn
bó tình nghĩa giữa những liền anh, liền chị hát quan họ và là nét văn hóa tiêu
biểu của người dân vùng Kinh Bắc. Tuy nhiên, theo tập tục cổ truyền, trai gái
trong các nhóm kết bạn hát với nhau lại không bao giờ lấy nhau.
Trải qua một quá trình phát triển lâu đời trên một vùng đất có sự giao lưu
rộng và phát triển sớm, Hát Quan họ đã trở thành một điểm sáng trong dân ca Việt
Nam. Dân ca Quan họ có khoảng 180 bài khác nhau , không tính các dị bản - một trong
những kỷ lục của các thể loại dân ca Việt Nam.
Lời hay ý đẹp, ngôn ngữ bình dân nhưng tinh tế, ý nhị, giàu hình tượng và cảm
xúc, âm điệu phong phú, trữ tình, lối hát mượt mà với kỹ thuật nảy hạt độc đáo,
phong cách lịch thiệp - tất cả làm nên vẻ đẹp và sức hấp dẫn của dân ca Quan họ
Bắc Ninh.
Ngày 30 tháng 9 năm 2009, tại kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban liên chính phủ
Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, quan họ đã được công nhận là
di sản phi vật thể đại diện của nhân loại.
Xin mời các bạn nghe một vài bài hát quen thuộc:
Bèo dạt mây trôi https://www.youtube.com/watch?v=bHucAgOrN0M
;
Cây trúc xinh https://www.youtube.com/watch?v=3qglyaGt-fM
;
Con nhện giăng mùng https://www.youtube.com/watch?v=A8gi3wc99nQ
;
Qua cầu gió bay https://www.youtube.com/watch?v=Ds-ngcz1qgo
;
Se chỉ luồn kim https://www.youtube.com/watch?v=COcJRx81JNI
;
Người ơi, người ở đừng về (bài tôi "mê" nhất)
Tập dợt hát Quan họ https://www.youtube.com/watch?v=g66L4wue8KU
...
4.1.1.2 Hát Trống Quân
Hát Trống Quân là hình thức sinh hoạt ca hát giao duyên rất phổ biến ở các
tỉnh đồng bằng và Trung Du Bắc Bộ, kể từ Thanh Hoá trở ra.
Tục truyền, hát Trống Quân xuất hiện vào đời nhà Trần, thời kháng chiến chống
quân Nguyên, binh sĩ khi giải trí ngồi thành hai hàng đối nhau, một bên là
"Hát xướng", một bên là "Hát đáp", khi hát gõ vào tang trống
(trống thùng) để làm nhịp.
Trống thùng được cấu tạo như sau: Hai cọc được được cắm ở hai bên, một bên
cọc là phe nam, một bên cọc là phe nữ đứng (hoặc ngồi). Một sợi dây thừng được
buộc vào hai cọc, chính giữa sợi dây đặt một cái thùng, mặt rỗng úp xuống một hố
đất nhỏ, mặt đáy trên sát sợi dây. Người ta gõ vào đầu dây ở phía cọc, dây bật
vào đáy thùng mà kêu thành tiếng.
Về âm nhạc, Trống Quân là một làn điệu gần với tiếng nói hơn. Vì lời ca là
thơ lục bát và mỗi lần hát có thể dài ngắn khác nhau, nên giai điệu biến đổi
theo dấu giọng, Trống Quân lấy đối lời làm chính và được diễn xướng ở tốc độ
nhanh vừa, lời ca chỉ có vài tiếng đệm nhằm phục vụ cho việc xây dựng giai điệu
như: thời, có mấy, hời, ư, nầy, rằng...
Xin mời các bạn nghe một vài bài xưa:
- Trống quân thách cưới https://www.youtube.com/watch?v=pPdjrhtSu9E
- Trống quân Giao duyên https://www.youtube.com/watch?v=EbBpxuY81UM
4.1.1.3 Hát ghẹo, hát xoan Phú Thọ
Nguồn gốc hát ghẹo được gắn với câu chuyện dựng lại ngôi đình làng
Nam Cường thờ Xuân Nương công chúa.
Chuyện kể rằng ngôi đình làng thờ nữ tướng Xuân Nương bị cháy, trai tráng
Nam Cường cùng nhau lên rừng đại ngàn kiếm gỗ về dựng lại đình. Đến địa phận xã
Thục Luyện, mệt quá, trai tráng ngồi nghỉ chân, trai gái Mường biết vậy liền
đưa thịt rừng rượu thơm ra đãi. Lại cùng nhau lên rừng ngả gỗ đóng bè cho trôi
theo dòng sông xuôi về. Qua địa phận xã Thục Luyện bè bị mắc cạn, đẩy mãi không
qua, những cô gái Mường ở thôn Hùng Nhĩ đi hái mǎng về bèn khuyên vừa đẩy bè vừa
hát thì thần thác mới hài lòng để cho bè xuôi. Quả thật, khi trai gái hai bên
cùng nhau đẩy và hát đối đáp với nhau thì bè nhích dần rồi chảy về xuôi.
Thác thần từ đó được gọi là thác "đôi ta", khúc hát đẩy bè trên được
gọi là "hát ghẹo" hay "ghẹo nước nghĩa" (nghĩa là hát giữa
các thôn làng kết nghĩa với nhau), "hát anh chị".
Cách hát là hình thức hát đối đáp nam nữ, nên các anh cũng như các chị mỗi
lần thường hát hai người, khi hát họ nhìn thẳng vào nhau vừa để biểu lộ tình cảm
vừa để khi hát ra vào cho ǎn khớp với nhau.
Hát Xoan là một loại dân ca độc đáo, tồn tại lâu đời ở hai xã Kim Đức và
Phượng Lâu, thuộc huyện Phù Ninh cũ. Nay là huyện Phong Châu và thành phố Việt
Trì.
Trước đây, hát Xoan thường được trình diễn vào mùa xuân trong những ngày hội
đám ở một số đình làng trong tỉnh, nên còn được gọi là Hát cửa đình. Chữ Xoan
là từ chữ Xuân đọc trẹo ra.
Xin mời các bạn nghe:
- Hát xoan Phú Thọ https://www.youtube.com/watch?v=tKVa8nmXR1w
- Hát xoan Đố hoa https://www.youtube.com/watch?v=FYCOR7yOigY
Yên Hà
Tháng chín, 2014
Xin đón đọc trong số tiếp: Tiếng nước tôi: Văn-học dân-gian (4) / Dân ca
Trung Bộ
Tài-liệu nguồn:
Dân ca Việt Nam
Dân ca Việt Nam
Sơ lược về dân ca Việt Nam, Trần Quang Hải
Dân ca Việt Nam, Trần Quang Hải
Trang dân ca Việt-Nam, X.T.
Quan họ Bắc Ninh (Di sản văn hoá phi vật thể)
Hát Trống Quân, Wikipedia
Hát ghẹo
Hát xoan, Hát ghẹo Phú Thọ - Dân ca độc đáo Phú Thọ, Trần Quang Hải
Posted by Thanh Tuyền and Ngọc Phú at 9:24 AM
No comments:
Post a Comment