Cái đêm hôm ấy… đêm gì?
Cái đêm hôm ấy… đêm gì? – Phùng Gia Lộc
Tác giả Phùng Gia Lộc, tháng 6-1988
Tiểu sử Nhà văn / Nhà báo Phùng Gia Lộc
Phùng Gia Lộc sinh năm 1939 tại làng Láng, xã Phú Yên, huyện Thọ Xuân, tỉnh
Thanh Hóa.
Phùng Gia Lộc có lúc làm thầy giáo tiểu học. Vốn được nhiều người hâm mộ
nên có khi ông cũng bị tai tiếng với những chuyện tình cảm phong lưu đến phải
chuyển công tác.
Thời làm văn nghệ ở phòng văn hóa huyện Thọ Xuân, ông sáng tác rất nhiều:
viết văn, làm thơ, viết kịch, cải lương, chèo, trong đó có rất nhiều vở do ông
viết và dàn dựng cho các đội văn nghệ cấp xã. Thời gian này ông là hội viên Hội
văn nghệ Thanh Hóa1.
Năm 1983, Phùng Gia Lộc về hưu trước tuổi, cùng vợ con vui thú ruộng vườn,
vẫn tham gia hội văn nghệ của tỉnh và giúp vực dậy phong trào văn nghệ ở địa
phương.
Đó là thời gian trước đổi mới 1986, ở Thanh Hóa quê ông và sau này được biết
là khắp nông thôn miền Bắc, nạn “cường hào mới” nổi lên khắp nơi. Một số cán bộ
vốn là “đầy tớ của nhân dân,” thời chiến tranh được nhân dân nuôi nấng, che chở,
bây giờ thành “người có công” lên nắm quyền hành, lợi dụng quyền thế ức hiếp
dân lành gây nhiều bức xúc. Chính sách thuế khóa từ trên áp đặt xuống, các địa
phương phải tận thu để đủ chỉ tiêu cùng với nhiều chính
sách đường lối thời bao cấp khác làm cho người dân ngày càng nghèo mạt, người
nông dân trực tiếp làm ra lúa gạo vẫn phải đói thiếu.
Người anh họ của ông, Phùng Gia Phan bị giết hại, được cho là có liên quan
tới truyện ngắn trước đó của ông “Được vật báu” đăng trên báo Văn nghệ. Sự kiện
này tác động mạnh tới Phùng Gia Lộc, cũng là tột cùng của đêm tối trong đời
ông. Ông ra Hà Nội, để tìm câu trả lời cho sự công bằng cho ông và những người
xung quanh mình. Lúc đó sự kiện cởi trói văn nghệ bắt đầu. Phùng Gia Lộc viết lại
những trải nghiệm của ông về thực trạng nông thôn và những người nông dân quê
ông trong bài bút ký “Cái đêm hôm ấy… đêm gì”, sau
này gắn liền với tên tuổi của ông.
(theo Wikipedia)
*
Chân dung cố nhà
văn Phùng Gia Lộc
Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều chủ nhật,
thằng Học con tôi rủ rỉ nói:
– Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ
Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố
mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.
– Hừ! Lại thế nữa…
Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với
nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?
Sáng thứ hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm
sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban
huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:
– Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng
liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.
Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu.
Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở
thành “phó thường dân.” “Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà
ăn thấu tết được.” Quang lắc đầu bảo thế.
Anh gạn tôi:
– Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.
Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh Quang:
– Phải mang “hàng chiến lược” này về chứ.
Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể
nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì…
Có cái “các” quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng
tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp
cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân
lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su
um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học – thằng con nhớn
đang học bài ở nhà trên.
Thấy tôi về thằng Thức reo lên:
– A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?
– Có cái rét cóng đây này!
Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:
– Ứng được năm cân gạo.
Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống
bếp sưởi. Cụ bảo:
– Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!
Tôi hỏi:
– Nhà ăn rồi hả mẹ?
Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:
– Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi.
Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.
Tôi thấy cay sè trong mắt.
– Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà.
Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?
Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại
mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:
– Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo.
May lấy được đấy, không thì mai gác con lên…
Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua
rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác.
Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban
định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run:
– Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.
Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà
tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong
cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn
bác bác, cháu cháu ngon ơ.
– Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.
– Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà…
Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi
yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng.
Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm,
phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà… thành quen
miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng
dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau… Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận
và làm nau: Bay trông tao chết à? Tao phải sống để nhìn con cháu được đến lúc
sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.
Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:
– Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?
– À… mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị
thuê khoán cháu nấu.
Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện “bí mật nội
bộ.” Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm “đồng khởi” thu sản, tổng vét cả
xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội
12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:
– Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi
– Thế thì tao đét bán rau cho mi nữa.
Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới
chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi
các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn
khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn
nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái
bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.
Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng
Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó
có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ…
Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:
– Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?
Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:
– Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước
thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở)
từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!
Tôi vỗ về:
– Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp,
nhà ta thiếu bao nhiêu?
– Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế
mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn,
không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được,
đến mà dỡ.
– Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình
mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.
Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:
– Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng
cái đời…
Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng
ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm.
Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc
rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.
– Ngủ đây mà ấm, bố ạ!
Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả
không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó
còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa
với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.
Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm
dưới bếp.
Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp…
Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như
một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch
huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực.
Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu
thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa
ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ
về đội 12 hội ý.
Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội
gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội
hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên
cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn
sổ.
Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa
vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út
Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong
lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng
rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát
lác, tôi nghe rõ mồn một.
– Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!
Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất,
kêu ử ử.
Cạch cạch cạch.
– Chị cò Lộc, mở cửa ra!
Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc
cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu
lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng
đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.
– Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?
– Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.
Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh… bốn anh
bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng
thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm “hộ
pháp” là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc
đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ
ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào.
Theo danh sách đội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị đem nộp
ngay!
Bà cụ tôi đáp thay con dâu:
– Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy
đàn con hắn đói xanh đói trong đi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát
nề, vàng cây úa lá đây à?
– Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?
Cả bốn người cùng soi đèn pin khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên
chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu máo:
– Làm gì có lúa để ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau.
Tôi chạy ra trụ sở đội, định tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học
với tôi ngày trước, đi bộ đội về giải nghệ, vào cấp ủy, đang đứng đấy. Thấy thế
tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư đảng ủy cũng
có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng tránh.
Anh Miện bảo nhỏ tôi:
– Chú về động viên gia đình thanh toán bằng đủ, nhà mình là cán bộ. Không
có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh đạo đã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi đó.
Tôi đang định nói: “Đã không có thóc thì làm cóc gì có tiền,” nhưng anh họ
tôi đã dịu giọng:
– Ở đội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải điếc đi…
“Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao động phải hy sinh cho lợi ích của
nhà nước.” Đồng chí bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị thế, chú biết rồi đó.
Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân đã khuân về nào xe đạp, bàn ghế, tủ,
chum vại, thùng tôn, lợn gà… để ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc đề
chữ bằng phấn trắng vào các đồ vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông
Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú Được phó chủ nhiệm)… Mấy con bò bị bắt cột gần
đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa
lên mặt kêu “hấp bồ,” “hấp bồ.”..
Tôi loạng choạng đi về nhà, thấy người ta đang còn soi đèn tìm rất kỹ. Tôi
nói:
– Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi xin khất đến mai, tìm
cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.
Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu.
– Đêm nay là đêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu cho?
– Bắt cái xe đạp ni, bay!
Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ:
– Các đàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. Đây là xe đạp nhà nước cấp
cho tôi để tôi đi công tác. Các vị bắt cái này không được đâu.
– Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?
Tôi loáng nghĩ được một mẹo. Rút cái “thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh” ra,
tôi nói:
– Tôi phản đối! Tôi là “nhà báo !” Tôi sẽ kiện lên tận ông Đồng.
Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ đã biết tên
tôi dưới những bài đăng nào chăng.
Chợt vị “hộ pháp” nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi
đi lại, vừa gõ vừa hỏi:
– Cái gì trong này, chị Lộc?
Im lặng…
– Cái gì trong này, chị nói mau?
Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở.
– Có cái gì đâu…
Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy
rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp đào vàng trúng vỉa:
– A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.
Mẹ tôi chống gậy vái dài:
– Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của
tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà
con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.
Thực ra là của hai bà chị trong đó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín
cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ
tôi đong để dành “hôm sau” cho bà.
Bà cụ nói như rên rẩm:
– Đã bảo xay phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm
bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là!
Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:
– Chị có gánh đi hay không thì bảo?
Một tay khác tôi hơi quen mặt, đến trước vợ tôi lạy lia lịa:
– Thôi em xin bà chị. Em đi làm ở đây thế này, nhưng lại có bọn khác đến chỗ
em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh, để cánh này bê cả hòm
ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền.
Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức
từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít.
– Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu nay
các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà!
– Buông ra đi! Ô hay, đồ con nít!
Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:
– Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân
già, để lấy phúc đức cho con cháu.
Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như
chiếc ghế đổ.
– Ối Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi… Trông xuống mà
coi…
Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:
– Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng! Đảng
ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!
Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực
tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà,
tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp…
Đoạn cuối này tôi dành cho anh Quang.
Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi
không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có
làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra.
Chuyện thật của nhà anh đây: lúa vay ăn còn
nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc đi
các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà
tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa.
Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: “Cái đêm hôm ấy… đêm gì?”
PHÙNG GIA LỘC
Cuối năm 1987
Nguồn:
*
Bài thơ Vô đề ông viết lúc cuối đời là những trăn trở, nỗi niềm đau của ông
trước những phận đời thấp bé luôn muốn vươn lên, đằng sau đó là mong muốn cứu
khốn phò nguy âm ỉ trong ông chưa bao giờ tắt.
Thương con thú ở thảo cầm viên
Cũng trời cũng đất cũng thiên nhiên
Ăn ở thoáng nhìn êm ả thật
Tháng ngày lồng lưới dám sai quên.
Thương cho cây cỏ mọc hang sâu
Leo lét xanh xao vẫn dãi dầu
Vẫn cố vươn tìm ra phía sáng
Mặt trời soi chiếu những nơi đâu.
Trần Văn Giang (st)
No comments:
Post a Comment