Em bé gái trên Đại Lộ Kinh Hoàng của
Mùa Hè Đỏ Lửa 1972
Em bé gái trên Đại Lộ Kinh Hoàng của Mùa Hè Đỏ Lửa 1972
Em bé ngày xưa, nay là Trung Tá Kimberly M. Mitchell
Feb 18, 2014 at 7:56 am
Vào mùa hè đỏ lửa năm 1972, một em bé 4 tháng tuổi nằm
trên xác mẹ trên Đại Lộ Kinh Hoàng; em đang trườn người trên bụng mẹ tìm vú để
bú nhưng mẹ đã chết từ bao giờ. Một người lính Quân Cụ chạy ngang, bồng em bé bỏ
vào chiếc nón lá rồi chạy qua cầu Mỹ Chánh, trao lại cho một Thiếu úy Thủy Quân
Lục Chiến đang hành quân.
Bao năm trôi qua, em bé mồ côi mẹ nay trở thành Trung Tá
trong Quân Lực Hoa Kỳ còn người Thiếu úy TQLC sang Hoa Kỳ theo diện HO nay đang
định cư tại tiểu bang New Mexico. Hai người vừa gặp nhau sau 41 năm bặt vô âm
tín. Ngày Thứ Ba 2 tháng 4, 2013 vừa qua, nhân dịp sang California dự lễ cưới,
người Thiếu Úy TQLC này đã kể cho phóng viên Viễn Đông câu chuyện cảm động và
ly kỳ ngay tại khách sạn nơi ông đang tạm cư ngụ.
Người Thiếu Úy TQLC tên là Trần Khắc Báo. Vào thời điểm 1972 ông còn độc
thân và phục vụ tại Đại Đội Vận Tải Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến, được biệt phái
sang Phòng 4 của Sư Đoàn làm sĩ quan phụ trách chuyển vận. Vào sáng 1 tháng 5
năm 1972, Thiếu Úy Báo được lệnh cấp trên, cùng một số đồng đội mở cuộc hành
quân để giúp di chuyển Tiểu Đoàn 7 TQLC ra khỏi vùng vừa bị thất thủ thuộc tỉnh
Quảng Trị vì một số đông quân nhân bị thất lạc không tìm thấy vị chỉ huy của họ.
Ngoài ra, ông cũng xin lệnh giúp di tản các Quân, Dân, Cán, Chính khác đang tìm
đường chạy về phía nam sông Mỹ Chánh là nơi quân đội VNCH còn đang trấn giữ;
ông được cấp trên chấp thuận.
Khi đơn vị ông đến cầu Mỹ Chánh (Quảng Trị) thì nơi đây
là phòng tuyến cuối cùng của VNCH để ngăn chặn quân Bắc Việt tràn xuống phía
Nam. Ông đã chỉ huy 20 quân xa GMC thực hiện cấp tốc cuộc di tản suốt ngày. Đến
khoảng 4 hay 5 giờ chiều ông Trần Khắc Báo nhìn thấy thấp thoáng bên kia cầu
còn một người đang ôm chiếc nón lá thất thểu đi qua với dáng điệu hết sức mỏi mệt. Ông định chạy qua giúp người
này nhưng vị Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 5 TQLC đang trách nhiệm trấn
giữ tại đó la lớn:
ông Trần Khắc Báo trong ngày hội ngộ
“Cây cầu tao đã gài mìn, có thể nổ và sẵn sàng phá hủy
khi thấy chiến xa Việt Cộng xuất hiện, đừng chạy qua, mày sẽ bị bỏ lại bên đó
không về lại được đâu nghe!”
Ông cố nài nỉ:
“Đại Bàng chờ em một chút, cho em cứu người cuối cùng
này.”
Và ông chạy đến đưa người này qua cầu. Thấy người này đi không nổi, thất
tha thất thểu mà tay còn cố ôm vòng chiếc nón lá, Thiếu Úy Báo nói đùa:
“Đi không nổi mà còn mang theo vàng bạc châu báu gì nữa
đây cha nội?”
Người ôm vòng chiếc nón lá nói:
“Em là lính Quân Cụ thuộc Tiểu Khu Quảng Trị, trên đường
chạy về đây em thấy cảnh tượng hết sức thương tâm này, mẹ nó đã chết từ bao giờ
không biết và nó đang trườn mình trên bụng mẹ nó tìm vú để bú, em cầm lòng
không được nên bế nó bỏ vào chiếc nón lá mang đến đây trao cho Thiếu Úy, xin
ông ráng cứu nó vì em kiệt sức rồi, không thể đi xa được nữa và cũng không có
cách gì giúp em bé này.”
Nói xong anh ta trao chiếc nón lá có em bé cho thiếu úy Báo.
Ngừng một chút, ông Báo nói với chúng tôi:
“Mình là người lính VNCH, mình đã được huấn luyện và thuộc
nằm lòng tinh thần ‘Tổ Quốc – Danh Dự – Trách Nhiệm’ nên lúc đó tôi nghĩ trách
nhiệm của mình là lo cho dân nên tôi nhận đứa bé và nói với người lính Quân Cụ:
‘Thôi được rồi, để tôi lo cho nó, còn anh, anh cũng lo
cho sức khỏe của anh, lên GMC đi để chúng tôi đưa anh về vùng an toàn.’”
Sau đó, người sĩ quan TQLC ôm em bé leo lên chiếc xe Jeep chạy về Phong Điền,
cách đó khoảng 20 cây số. Trên đường đi, ông Báo cảm thấy rất bối rối vì em bé
khóc không thành tiếng vì đói, khát mà ông thì còn là một thanh niên trẻ (lúc
đó mới 24 tuổi) chưa có kinh nghiệm gì nên ông hỏi người tài xế, bây giờ phải
làm sao? Người tài xế tên Tài trả lời:
“Ông thầy cho nó bú đi! Ông thầy không có sữa thì lấy bi
đông nước chấm đầu ngón tay vào nước để vào miệng nó cho nó bú.”
Ông Báo làm theo lời chỉ và em bé nín khóc rồi nằm im cho đến khi ông đưa
em vào Phòng Xã Hội của Lữ Đoàn TQLC. Tại đây, gặp Thiếu tá Nhiều, Trưởng Phòng
4 TQLC, ông trao em bé cho Thiếu tá Nhiều và nói:
“Thiếu tá, tôi có lượm một em bé ngoài mặt trận, xin giao
cho Thiếu tá.”
Ông này nhìn ông Báo cười và nói:
“Mày đi đánh giặc mà còn con rơi con rớt tùm lum!”
Ông Báo thanh minh:
“Không! Tôi lượm nó ngoài mặt trận; nó đang nằm trên xác
mẹ nó.” Thiếu tá Nhiều bảo:
“Thôi, đem em bé giao cho Phòng Xã Hội để họ làm thủ tục
lo cho nó.” Sau đó, ông Báo đưa em bé cho một nữ quân nhân phụ trách xã hội. Cô này
nói với ông:
“Thiếu úy giao thì Thiếu úy phải có trách nhiệm, vì em bé này ở ngoài mặt
trận thì Thiếu úy phải cho nó cái tên và tên họ Thiếu úy nữa để sau này nó biết
cội nguồn của nó mà tìm.”
Lúc đó, ông còn độc thân nhưng trong thâm tâm ông vốn nghĩ rằng sau này khi
ông cưới vợ, nếu có con gái ông sẽ đặt tên là Bích, nếu con trai ông sẽ đặt tên
là Bảo, nên sau khi nghe người nữ quân nhân nói, ông Báo đặt ngay cho em bé cái
tên là Trần Thị Ngọc Bích.
Sau đó ông trở về đơn vị và cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt cho tới
tháng 3/1975, đơn vị ông bị thất thủ cùng Lữ Đoàn 2 TQLC ở Huế và ông Báo bị bắt
làm tù binh. Mãi đến năm 1981 ông được thả về. Tháng 9/1994 ông được sang định
cư tại thành phố Albuqueque, tiểu bang New Mexico…
EM BÉ MỒ CÔI GẶP MAY MẮN
Em bé Trần Thị Ngọc Bích được Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC đem đến Cô Nhi Viện
Thánh Tâm Đà Nẵng giao cho các Dì Phước chăm sóc. Số hồ sơ của em là 899.
Một hôm có ông Trung Sĩ Hoa Kỳ thuộc binh chủng Không Quân phục vụ tại phi
trường Đà Nẵng tên là James Mitchell vô Cô Nhi Viện xin nhận một trong các em tại
đây làm con nuôi. Em Trần Thị Ngọc Bích may mắn
lọt vào mắt xanh của ông James Mitchell và trở thành thành viên của gia đình
này từ đó đến nay.
Sau khi rời khỏi binh chủng Không Quân, ông James Mitchell trở về Hoa Kỳ
vào cuối năm 1972. Ông quyết định mang theo đứa con nuôi Trần Thị Ngọc Bích,
lúc đó em mới được 6 tháng.
Hai ông bà Mitchell đặt tên Mỹ cho em là Kimberly Mitchell. Em ở tại trang
trại của gia đình tại Solon Springs, tiểu bang Wisconsin. Kimberly Mitchell lớn
lên tại đây và được bố mẹ nuôi rất thương yêu, coi như con ruột. Em được đi học,
tham gia thể thao và vào hội thanh niên. Lớn lên em vừa đi học vừa phụ giúp cha
mẹ nuôi bò và làm phó mát. Cái tên Trần Thị Ngọc Bích đã bị quên lãng từ đó, và
Kimberly Mitchell cho biết, mỗi khi nghe ai nói gì về Việt Nam, cô thường tự hỏi,
Việt Nam là đâu nhỉ?
Khi đã có trí khôn, Kimberly Mitchell nhận thấy mình không phải người Mỹ
như bố mẹ, không phải con lai, không phải người Tàu. Cô không biết mình là người
nước nào và cứ mang cái thắc mắc đó mãi mà không ai có thể trả lời cho cô.
Một hôm, Kimberly Mitchell đánh bạo hỏi bố:
“Con muốn biết con người gì, nguồn gốc con ở đâu? Tại sao
con lại là con bố mẹ?”
Bố nuôi James giải thích cho cô:
“Con là người Việt Nam, bố mẹ xin con từ trong viện mồ
côi ở Đà Nẵng, Việt Nam. Nếu con muốn tìm nguồn cội của con, con có thể về Đà Nẵng,
may ra tìm được tông tích của gia đình con.”
Ngay từ khi Kimberly còn học lớp ba, bố nuôi em đã muốn sau này cho
Kimberly gia nhập Không Quân nhân khi cô được chọn tham dự hội thảo về nghệ thuật
lãnh đạo dành cho những học sinh xuất sắc. Nhưng rồi định mệnh xui khiến, cô lại
theo Hải Quân. Trong thời gian theo học, Kimberly Mitchell phải bỏ học một năm
vì bố nuôi qua đời năm 1991 trong một tai nạn tại trang trại của gia đình. Sau
đó cô trở lại trường và tiếp tục học. Năm 1996 cô tốt nghiệp Cơ Khí Hàng Hải và
phục vụ trong Hải Quân Hoa Kỳ và hiện nay mang cấp bậc Trung Tá, Phó Giám Đốc
Văn Phòng Trợ Giúp Quân Nhân và Thân Nhân tại Ngũ Giác Đài.
Năm 2011, Kimberly Mitchell trở về cố hương với tư cách một nữ Trung Tá Hải
Quân, Quân Lực Hoa Kỳ, mong gặp lại người thân. Đến Viện Nuôi Trẻ Mồ Côi Thánh
Tâm ở Đà Nẵng, cô may mắn gặp được Sơ Mary, người tiếp nhận cô năm 1972 từ một
nữ quân nhân Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC. Giây phút thật cảm động, nhưng Kimberly
chỉ được Sơ Mary cho biết:
“Lúc người ta mang con tới đây, con mới có 4 tháng và họ
đặt tên con là Trần Thị Ngọc Bích. Họ nói mẹ con đã chết trên Đại Lộ Kinh
Hoàng, con được một người lính VNCH cứu đem đến đây giao cho Cô Nhi Viện rồi đi
mất, vì lúc đó chiến tranh tàn khốc lắm.”
Kimberly không biết gì hơn và cô quay trở lại Mỹ. Sau khi đã biết mình là
người Việt Nam, thỉnh thoảng cô viết trên website câu chuyện của mình.
GẶP LẠI CỐ NHÂN
Ông Trần Khắc Báo đưa cho chúng tôi xem một số hình ảnh, một số báo tiếng
Việt và mấy tờ báo tiếng Anh đăng hình cuộc gặp gỡ giữa gia đình ông và cô Trần
Thị Ngọc Bích, và nói:
“Sau khi ra tù Việt Cộng, tôi cũng cố tìm hiểu xem em bé
Trần Thị Ngọc Bích nay ra sao, kể cả người lính Quân Cụ năm xưa, nhưng tất cả đều
bặt vô âm tín. Một hôm tình cờ tôi đọc được một bài viết của tác giả Trúc Giang
trên tờ Việt Báo Hải Ngoại số 66 phát hành tại New Jersey, tác giả kể lại câu
chuyện đi Mỹ của một em bé trong cô nhi viện Đà Nẵng mang tên Trần Thị Ngọc
Bích. Đọc xong tôi rất xúc động pha lẫn vui mừng, vì có thể 80, 90% cô Ngọc
Bích đó là do mình cứu và đặt tên cho cô.”
Sau đó, ông nhờ người bạn tên là Đào Thị Lệ làm việc trong New York Life,
có chồng người Mỹ và có em cũng ở trong Hải Quân Hoa Kỳ, liên lạc tìm kiếm
Mitchell. Và chính cô Đào Thị Lệ là người đầu tiên trực tiếp nói chuyện với Trần
Thị Ngọc Bích đang làm việc tại Ngũ Giác Đài.
Theo ông nghĩ, có thể cô Mitchell bán tín bán nghi, không biết chuyện này
có đúng không hay là chuyện “thấy người sang bắt quàng làm họ” như ông cha
mình thường nói. Nhưng sau khi nói chuyện với ông Trần Khắc Báo, Mitchell quyết
định tổ chức một cuộc hội ngộ trước các cơ quan truyền thông. Cô xin phép đơn vị
và mời được 7 đài truyền hình cùng một số phóng viên báo chí từ Washington, D.C
cũng như nhiều nơi về tham dự.
Cuộc hội ngộ, theo ông Báo cho biết, hoàn toàn do cô Kimberly Mitchell quyết
định, địa điểm là trụ sở Hội Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia New Mexico vào Thứ
Sáu, ngày 29.8.2012. Cô đến phi trường vào tối Thứ Năm 28.8, gia đình ông Báo
ngỏ ý ra phi trường đón nhưng cô cho cô Đào Thị Lệ biết là cô không muốn gia
đình đón ở phi trường cũng như đưa vào khách sạn. Cô muốn dành giây phút thật cảm
động và ý nghĩa này trước mặt mọi người, đặc biệt là trước mặt các cơ quan truyền
thông, và cô muốn ông Báo mặc bộ quân phục TQLC như khi ông tiếp nhận cô đưa đến
Phòng Xã Hội Sư Đoàn TQLC cách nay 41 năm.
ông Trần Khắc Báo và Kimberly Mitchell
GIÂY PHÚT XÚC ĐỘNG
Gia đình ông Trần Khắc Báo gồm vợ và con gái cùng có mặt. Khi ông Chủ Tịch
Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia hỏi cô Kimberly Mitchell:
“Cô đến đây tìm ai?”
Cô trả lời:
“Tôi muốn tìm ông Trần Khắc Báo.”
Vị Chủ Tịch quay sang ông Báo đang mặc quân phục và giới thiệu:
“Đây là ông Trần Khắc Báo.”
Lập tức, Kimberly Mitchell Trần Thị Ngọc Bích tiến lại ôm lấy ông Báo và cả
hai cùng khóc nức nở.
Giây phút xúc động qua đi, cô Kimberly hỏi ông Trần Ngọc Báo:
“Ông là người đã cứu mạng tôi, tôi mới có ngày hôm nay;
tôi xin cám ơn ông, và bây giờ ông muốn gì ở tôi?”
Ông Trần Khắc Báo nói :
“Thực sự bây giờ tôi chỉ muốn cô nói với tôi một lời bằng
tiếng Việt, cô hãy kêu tôi là “Tía”. Vì tất cả các con tôi đều gọi tôi bằng
Tía, tôi xem cô cũng như con tôi, tôi chỉ mong điều đó.”
Và Kimberly Mitchell đã gọi “Tía”.
Ông nói với chúng tôi:
“Bấy giờ tôi thực sự mãn nguyện.”
Trả lời các câu hỏi của chúng tôi, ông Trần Khắc Báo cho biết, cô Kimberly
chưa lập gia đình và cô có hứa sẽ thường xuyên liên lạc với gia đình ông. Ông
có nhắc cô Kimberly điều này, rằng cô không phải là đứa trẻ bị bỏ rơi. Cô đã được
những người lính VNCH có tinh thần trách nhiệm cứu sống trên bụng mẹ cô đã chết,
và chính ông đã đặt tên cho cô là Trần Thị Ngọc Bích. Ông cũng mong rằng sau
này, cô có thể trở lại Quảng Trị, may ra có thể tìm ra tung tích cha cô hoặc
người thân của mình. Ông Trần Khắc Báo cũng cho biết, ông mất liên lạc với người
lính Quân Cụ từ lúc hai người giao nhận đứa bé đến nay.
Trong cuộc hội ngộ, trả lời câu hỏi của các phóng viên Hoa Kỳ, nữ Trung Tá
Kimberly Mitchell cho biết, cô có hai cái may. Cái may thứ nhất là cô được tìm
thấy và mang tới trại mồ côi. Cái may thứ hai là được ông bà James Mitchell bước
vào trại mồ côi và nói với các Sơ rằng, ông muốn nhận em bé này làm con nuôi.”
Câu chuyện sau 41 năm kết thúc tốt đẹp, cô Trần Thị Ngọc Bích đúng là viên
ngọc quý trên Đại Lộ Kinh Hoàng như ý nguyện của người đã cứu mạng em, vì chính
cô đã làm vẻ vang cho dân tộc Việt khi cố gắng học hành để trở nên người lãnh đạo
xuất sắc trong Quân Lực Hoa Kỳ, một quân lực hùng mạnh vào bậc nhất thế giới.
Người quân nhân binh chủng Quân Cụ và người sĩ quan TQLC Trần Khắc Báo đã
thể hiện tinh thần của một quân nhân Quân Lực VNCH, luôn đặt Tổ Quốc – Danh Dự
và Trách Nhiệm trên hết.
THANH PHONG
Nguồn: THỜI BÁO (The Vietnamese Newspaper)
TƯ LIỆU ĐỌC THÊM
Cuộc rút lui và thảm sát trên Đại lộ Kinh Hoàng
Ngày 31 tháng 3, căn cứ hỏa lực của TD4 TQLC tại núi Ba Hô và Sarge bị tràn
ngập, phải di tản vào lúc 9 giờ 40 tối sau khi tổn thất nặng. Ngày 1 tháng 4,
các căn cứ Đông Hà, Cam Lộ, Ái Tử bị pháo kích nặng nề nhưng nhờ hải pháo của Đệ
thất Hạm đội Hoa Kỳ nên QĐNDVN vẫn chưa chiếm được. Tuy nhiên trước sức tấn
công mạnh mẽ của QĐNDVN, lần lượt các căn cứ hỏa lực A-1, A-2, A-3, A-4 do
SD3BB trấn giữ, bị tấn chiếm, còn căn cứ Fuller và Khe Gió thì di tản chiến thuật.
Căn cứ Holcomb của TQLC cũng bị tràn ngập lúc 12 giờ 30 khuya đêm 2 tháng 4
Ngày 30 tháng 4, tư lệnh chiến trường kiêm tư lệnh SD3 Bộ Binh Việt Nam Cộng
hòa là Chuẩn tướng Vũ Văn Giai, triệu tập phiên họp đặc biệt và quan trọng để
bàn kế hoạch giữ thành phố Quảng Trị và bỏ căn cứ hỏa lực Ái Tử. Do đó, trong
cuộc lui quân, trên 2.000 quân Việt Nam Cộng hòa khi qua cầu Thạch Hãn thì cầu
bị sập, khiến cho một số lớn chiến xa, xe cộ, đại bác và quân trang quân dụng…
phải bị bỏ lại phía bên kia cầu. Cùng với dòng lính đang rút chạy, nhiều thường
dân cũng nhập lại thành một đoàn dài lẫn lộn cả dân và lính. Lúc đó Quốc lộ 1,
đoạn từ Hải Lăng về Mỹ Chánh, đang bị QĐNDVN chiếm và đóng chốt, nhất là cầu
sông Nhung, nằm giữa Quốc lộ. Đoàn người xuôi Nam hỗn loạn, lớp lính, lớp dân,
lớp dân trộn vào với lính, bằng đủ loại phương tiện, từ chạy bộ quang gánh đến
quân xa, thiết giáp, xe đò, xe lam, xe máy. Một số quân nhân còn khả năng tác
chiến cá nhân hay ở cấp đơn vị nhỏ, mạnh ai nấy đánh và mạnh ai nấy chạy nhưng
không còn khả năng hành quân nhổ chốt mở đường. Tình trạng này đã làm gián đoạn
giao thông, đoàn xe di tản của dân và lính, dài hơn ba cây số.
Theo RFA thì “hàng chục ngàn thường dân đã chết trên đoạn đường này, và cái
tên Đại lộ Kinh Hoàng được nhắc tới từ ngày đó”.
Ngày 23 tháng 7 năm 2005 Giáo hội Phật giáo Việt Nam làm lễ cầu siêu cho
các liệt sĩ tại Nghĩa trang Trường Sơn. Tại đây, sau khi dâng hương cúng tại
đài liệt sĩ, Hòa thượng Thích Chánh Liêm, Trưởng ban trị sự Phật giáo tỉnh Quảng
Trị, cho biết: “Năm 1972, trận chiến ở Quảng Trị đã làm hàng chục nghìn người
chết, con đường quốc lộ đoạn qua Hải Lăng bấy giờ được gọi là ‘đại lộ kinh
hoàng’, người chết la liệt. Tháng 8/1973 đã diễn ra một lễ đại cầu siêu kéo dài
7 ngày 7 đêm. Hơn 3.000 tăng ni và hàng nghìn Phật tử đã về đó tìm xác, chôn cất
người chết. Tất cả đều được chôn cất đàng hoàng và được làm lễ cầu an sinh
linh. Bây giờ đi trên quốc lộ 1A, qua đó vẫn thấy Đài Địa Tạng lưu giữ dấu ấn về
đại lễ cầu siêu năm đó”.
(Theo Wikipedia tiếng Việt)
DAI LO KINH HOANGHÌNH NHỜ ĐĂNG
Có một độc giả tên là Nguyễn Đình Hướng (Email: ndhuong54@gmail.com) gởi
cho chúng tôi một bức ảnh nói đó là “ông nội” của “Em bé trên đại lộ kinh
hoàng”. Ông này tên là Lê Quang Chung 91 tuổi hiện cư trú tại làng An Lưu, Triệu
Phong, Quảng Trị.
Chúng tôi đăng hình này theo yêu cầu và vì lòng nhân đạo. Chúng tôi không
chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin này.
Chia sẻ:
No comments:
Post a Comment