Saturday, November 2, 2019


Lộ mặt một DLV chạy tội cho cuộc đi đêm ô nhục ở Thành Đô

Lộ mặt một DLV chạy tội cho cuộc đi đêm ô nhục ở Thành Đô



Phạm Đình Trọng (Danlambao)

1. Facebooker có nick Tran Thanh Chuong ngày 4.5.2019 có bài viết chạy tội cho một sự kiện đớn hèn, tội lỗi của đảng cộng sản Việt Nam. Để tăng độ tin cậy vào những điều lừa dối trong bài viết Phải Hiểu Cho Đúng Về Hội Nghị Thành Đô, dư luận viên này tự nhận là bác sĩ, nhà thơ, nhà văn và “tôi có người bạn thân làm việc ở Bộ ngoại giao từ những năm 1980. Về sau, anh là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại một nước châu Âu. Qua anh, tôi biết được khá nhiều điều bí mật và tế nhị phía “hậu trường” liên quan đến sự kiện này”.

Rồi Dư luận viên Tran Thanh Chuong lên giọng tuyên giáo cấp phường:

“- Tuyệt đại đa số nhân dân trong nước tin tưởng vào lãnh đạo Đảng ta thời đó thì đánh giá: Hội nghị này đóng vai trò tích cực và có lợi cho Việt Nam.”

“Theo đánh giá của tôi, Hội nghị là kết quả tất yếu đáp ứng đòi hỏi bức thiết của tình thế đất nước ta thời đó. Nó được tiến hành sòng phẳng, vị thế hai bên ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam. Vì:

- Nhờ chấm dứt chiến tranh, bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, tiến tới cắm mốc biên giới để từ đó Trung Quốc trở thành đối tác kinh tế lớn nhất của nước ta.

- Phái Khmer đỏ dần dần bị loại bỏ, chính quyền của Thủ tướng Hun Sen do ta ủng hộ vẫn vững mạnh nhiều năm qua. Đất nước Campuchia hoà bình, biên giới Tây Nam ổn định.

- Hội nghị là tiền đề giúp ta thực hiện bình thường hoá quan hệ với Mỹ và các nước phương Tây, sau đó tiến tới xoá bỏ hoàn toàn bao vây và cấm vận kinh tế.

- Chấm dứt chiến tranh không những quân đội ta chấm dứt đổ máu mà còn tạo điều kiện cho ta giảm quân từ 1,5 triệu xuống còn 0,5 triệu, giảm chi phí quân sự, tập trung nguồn lực xây dựng kinh tế để nước ta có được vị thế như ngày nay.

Vậy thì, có thể gọi Hội nghị Thành Đô là một HIỆP ĐỊNH HOÀ BÌNH ký kết cho cả ba dân tộc Việt - Trung- Khmer. Giá trị lịch sử của nó chẳng kém gì hai Hội nghị: Giơ-ne -vơ (1954) và Pa-ri (1973). Nếu Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ lập lại hoà bình cho nước ta một thời gian ngắn, Hiệp định Pa-ri chỉ có tác dụng buộc Mỹ rút quân về nước, chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra, thì Hội nghị Thành Đô là cơ sở kiến tạo hoà bình lâu dài, bền vững cho cả ba nước đến tận bây giờ.”

Suốt mấy chục năm qua, suốt mấy thế hệ người Việt bị tuyên giáo cộng sản lừa dối cho ăn bánh vẽ, nhiều người đã tỉnh ra, dễ dàng nhận ra ở bài viết Phải Hiểu Cho Đúng Về Hội Nghị Thành Đô giọng tuyên giáo, giọng dư luận viên bóp méo sự thật, tuyên truyền lừa dối, răn dạy người dân như cô giữ trẻ răn dạy đám con nít ở lớp mẫu giáo. Nhưng phải ăn bánh vẽ mãi, nhiều người đã thành con nghiện, thành tín đồ bánh vẽ và Phải Hiểu Cho Đúng Về Hội Nghị Thành Đô có tới hơn 2 K like, hơn 1,3 K share và tới tấp những lời tấm tắc “Một bài viết thấu đáo dù anh không là người trong cuộc. Bài viết đã làm rõ mà trên hết ta đã thấy kết quả lập lại hoà bình và những bước phát triển như ngày nay! Một vị tướng trận mạc trong bốn cuộc chiến tranh hiểu rất rõ nên đã có những hành động đúng và đầy trách nhiệm với dân tộc”. Và “Nhờ bài viết của anh mà em hiểu thêm công lao to lớn của nguyên chủ tịch nước Lê Đức Anh, ông xứng đáng được nhân dân cả nước mang ơn và ngưỡng mộ.”

Đến kỷ nguyên tin học, mạng xã hội ra đời làm cho tuyên giáo cộng sản không còn độc quyền thông tin, không thể mặc sức dối trá được nữa mà một dư luận viên cấp phường vẫn nhâng nháo vào mạng xã hội, trợn trạo bịp bợm và vẫn có nhiều người háo hức, sung sướng ăn bánh vẽ cộng sản thì quá thảm hại. Thảm hại như chủ tịch hội Nhà Văn Việt Nam Hữu Thỉnh viết bài tâng bốc thứ thơ thiền ba xu của nhà thơ dỏm Hoàng Quang Thuận. Thảm hại như “Nhà báo quốc tế” dỏm Lê Hoàng Anh Tuấn được hết trường trung học nọ đến viện nghiên cứu kia rải thảm đỏ đón rước. Thảm hại đến mức từ lãnh đạo hội nhà báo quốc gia đến chủ tịch hội nhà báo tỉnh cùng hí hửng tháp tùng, cùng vênh váo công kênh đưa “nhà báo quốc tế” dỏm đi khắp nơi lừa bịp.

Vì sự thảm hại đó, dù hơn tuần sau tôi mới đọc những lời lừa dối của bài viết Phải Hiểu Cho Đúng... tôi phải viết những dòng này.

2. Trước hết, cuộc đi đêm Thành Đô là chuyện riêng, kín mít ở cấp chóp bu của đảng cộng sản Việt Nam. Chuyện riêng của mấy ông Bộ Chính trị Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh... và mấy ông già cố vấn Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Võ Chí Công... Chuyện riêng của hai đảng Việt Cộng và Tàu Cộng chứ không phải chuyện của hai nhà nước. Cơ quan đứng ra lo bảo đảm kỹ thuật cho chuyến đi đêm lén lút, tội lỗi này là ban Đối ngoại của đảng. Bộ Ngoại giao của nhà nước bị gạt ra rìa. Những người nắm giữ vị trí trọng yếu nhất ở bộ Ngoại giao như Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Thứ trưởng Trần Quang Cơ cũng phải ngồi nhà và chỉ được chứng kiến những chuyện đã rồi. Vì đớn hèn và ô nhục, nội dung thỏa thuận Thành Đô năm 1990 đến nay vẫn phải niêm phong kín mít, chưa dám hé ra một chi tiết nhỏ. Đến những ông bà ủy viên ban chấp hành trung ương của các khóa từ 1990 đến nay còn mù tịt thì ông cán bộ vô danh những năm 1980 mới ngơ ngác về bộ Ngoại Giao làm sao có thể biết “nhiều điều bí mật và tế nhị phía “hậu trường”.

Hư cấu ra nhân vật “người bạn thân làm việc ở bộ Ngoại giao” chỉ để ông dư luân viên mang danh “bác sĩ”, “nhà thơ, nhà văn” có cớ vẽ ra bức tranh “Hội Nghị Thành Đô” rực rỡ màu hồng bằng trò lửa bịp sống sượng và cũ rích của tuyên giáo cộng sản “cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam”...

3. Tháng chín, 1989, trước cuộc gặp Thành Đô một năm, quân đội Việt Nam đã hoàn toàn rút hết khỏi Campuchia, kết thúc mười năm cuộc sa lầy quân sự đẫm máu ở Campuchia. Tháng chín, 1989, trước cuộc gặp Thành Đô một năm, chiến sự ở biên giới Việt Trung cũng hoàn toàn chấm dứt, kết thúc cuộc chiến tranh mười năm Trung Quốc xâm lược Việt Nam. Ngày đó còn làm biên tập ở xưởng phim Quân đội Nhân dân Việt Nam, tôi đã dẫn một tổ điện ảnh mang máy quay phin Konvat của Nga đi quay phim tư liệu quân Việt Nam rút khỏi Campuchia. Đơn vị lính quân khu Năm rút về nước có cả mấy người đàn bà Campuchia vợ lính ôm con theo chồng ngồi trên thùng ô tô giữa những người lính Việt. Dừng chân ở Đà Nẵng, mỗi gia đình lính, chồng Việt vợ Miên được đưa đến ở tạm trong một gian nhà khách của bộ tư lệnh quận khu Năm ở bãi biển Mỹ Khê. Những thước phim lịch sử đó nay còn trong kho phim tư liệu của Điện ảnh Quân đội Nhân dân Việt Nam.

Vì vậy không có chuyện “Kết quả Hội nghị gồm hai phần được ký kết:

Phần thứ nhất: Chấm dứt xung đột biên giới giữa hai nước, bình thường hoá quan hệ Việt- Trung.

Phần thứ hai gồm bảy điều khoản về vấn đề Campuchia. Chủ yếu là: Các bên ngừng bắn, chấm dứt chiến tranh. Quân đội Việt Nam rút hết về nước...

4. Trước sự sụp đổ liên hoàn của các nhà nước cộng sản Liên Xô và Đông Âu, những trái tim xơ cứng và những cái đầu tăm tối, cuồng tín giáo điều cộng sản của lãnh đạo đảng cộng sản Việt Nam không biết đến thân phận đau thương của giống nòi Việt Nam trong nô lệ cộng sản, không biết đến đất nước Việt Nam tan hoang vì sự tàn phá của ấu trĩ, ngu dốt tham lam cộng sản, không biết đến tiến trình lịch sử của loài người đang phẫn nộ chôn vùi cái quái thai cộng sản vào hố rác lịch sử. Chỉ biết có đảng cộng sản, hốt hoảng lo mất ngai vàng vua tập thể, họ liền quên ngay tội ác của nhà nước cộng sản Trung Quốc với dân tộc, với lịch sử Việt Nam, kẻ vừa xua hơn nửa triệu quân tràn qua biên giới xâm lược Việt Nam, giết hàng chục vạn dân Việt Nam, kẻ vừa cướp toàn bộ quần đảo Hoàng Sa và cướp bảy bãi đá trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Họ ảo tưởng rằng đảng cộng sản Trung Quốc với gần trăm triệu đảng viên là một sức mạnh to lớn của lực lượng cộng sản thế giới, là một cái cọc vững chắc cho đảng cộng sản Việt Nam bấu víu trước bão táp nhân dân khi dân nổi can qua. Với ảo tưởng đó, Lê Đức Anh đã thốt ra lời: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xóa cộng sản. Nó đang xóa ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xóa cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc” (Trần Quang Cơ. Hồi Ức Và Suy Nghĩ. T88)

Sợ cơn bão nhân dân loại bỏ cộng sản từ Liên Xô và Đông Âu sẽ lan tới Việt Nam Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã hành xử vô nguyên tắc, bỏ qua bộ máy nhà nước, phớt lờ bộ Ngoại giao, nhân danh đảng hạ mình trực tiếp thậm thụt tiếp xúc với đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy và cùng viên đại sứ thiết kế ra cuộc đi đêm Thành Đô.

Đang trên giường bệnh nhưng khi được nghe báo cáo việc Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh hấp tấp hạ mình cầu cạnh Trương Đức Duy, cố vấn Lê Đức Thọ cũng phải thở dài: “Việc anh Nguyễn Văn Linh và anh Lê Đức Anh gặp đại sứ Trung Quốc đã làm cho Trung Quốc cứng lên. Đáng lẽ không nên gặp” (Trần Quang Cơ. Sách đã dẫn. T77) Còn cố vấn Phạm Văn Đồng thì nói rõ hơn: “Trong cuộc họp Bộ Chính trị bàn về đàm phán với Trung Quốc, tôi đã nói tới ba lần là không được hớ, phải rất thận trọng với Trung Quốc. Đằng này các anh lại ngửa bài trước để họ biết hết... Trung Quốc họ nghĩ theo kiểu Đại Hán của họ và kết quả là họ ép mình. Ngoại giao là một vũ đài, phải giữ thế, không phải lúc nào cũng lật hết bài ra. Không thể đưa ngực ra cho nó đấm” (Trần Quang Cơ. Sách đã dẫn. T77)

5. Không khi nào vì đời sống nhân dân khó khăn do Mỹ cấm vận mà lãnh đạo cộng sản Việt Nam phải vội vã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc để mở lối thoát cho nền kinh tế Việt Nam và mở cửa làm ăn cho người dân Việt Nam như sự dẫn dụ của dư luận viên cấp xã, cấp phường Tran Thanh Chuong. Với lãnh đạo cộng sản, đất nước chỉ là kho tài nguyên để họ vơ vét và nhân dân chỉ là bầy nô lệ để họ sử dụng như người nông dân sử dụng sức kéo của con trâu. Nhân dân chỉ là kho sức người để họ bóc lột và kho máu để họ làm chiến tranh củng cố và mở rộng lãnh thổ thống trị của họ mà thôi. Lịch sử cai trị của nhà nước cộng sản Việt Nam và của tất cả nhà nước cộng sản trên thế giới đã chứng minh đầy đủ điều đó. Nhà nước cộng sản Việt Nam vét của, vét máu dân ngày chiến tranh là “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, ngày nay là tăng thuế, tăng giá vô tội vạ móc túi dân, hút máu dân bù vào ngân khố trống rỗng do làm ăn kém cỏi, thua lỗ và tham nhũng.

Lịch sử cận đại của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan đã khẳng định muốn phát triển kinh tế, dân giầu, nước mạnh, đất nước hóa rồng, hóa hổ thì phải thiết lập mối quan hệ làm ăn đàng hoàng, văn minh, tin cậy với Mỹ và thế giới phương Tây, một quan hệ bình đẳng, sòng phẳng có luật pháp minh bạch và nghiêm ngặt. Còn vì ý thức hệ cộng sản, vì cái ngai vàng vua tập thể mà lẻn đi vào lối mòn ô nhục của Trần Ích Tắc, Lê Chêu Thống sang cầu cứu Trung Quốc để giữ ngôi vua tập thể thì chỉ giơ cổ ra nhận lấy cái dây xích chư hầu và rước họa Bắc thuộc về cho giống nòi. Nếu làm việc chính đáng vì dân vì nước thì Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh đâu phải hấp tấp và lén lút tiếp xúc với Trương Đức Duy sau lưng bộ Ngoại giao vậy.

6. Sau khi ngừng đấu súng ở biên giới Việt Trung và sau khi quân đội Việt Nam rút hết khỏi Campuchia cũng là khi hệ thống nhà nước cộng sản Liên Xô và Đông Âu tan rã. Tình thế đó tạo ra cho hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc hai mối liên quan lớn. Mối quan tâm của đảng cộng sản Việt Nam là cần gấp gáp bình thường hóa quan hệ giữa hai nhà nước Việt Trung để đảng cộng sản Việt Nam tìm liên minh, tìm sự bảo kê của đảng cộng sản đàn anh Trung Quốc hòng tồn tại trước xu thế của thời đại rũ bỏ độc tài cộng sản khỏi đời sống chính trị thế giới. Còn đảng cộng sản Trung Quốc lại chỉ quan tâm giành cho Khmer Đỏ do Trung Quốc nuôi dưỡng đã bị quân đội Việt Nam đánh cho tan tác vẫn có được vị trí ngang bằng với ba lực lượng chính trị khác trong cơ cấu quyền lực nhà nước Campuchia.

Cuộc đi đêm Thành Đô tháng chín, 1990 là cuộc giao kèo, đổi chác hai nội dung trên. Vì đầu óc tối tăm, tâm thế thấp hèn, Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã ngửa bài trước khi vào ván bài Thành Đô, đã bộc lộ sự hốt hoảng lo sợ mất ngai vàng vua tập thể, bằng mọi giá phải bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc để dựa vào Trung Quốc mà giữ ngai vàng cộng sản. Nguyễn Văn Linh và Lê Đức Anh đã đưa cộng sản Trung Quốc lên vị thế cứu tinh đối với số phận cộng sản Việt Nam. Từ vị thế cứu tinh đó, cộng sản Trung Quốc ép đoàn cộng sản Việt Nam đến Thành Đô do Nguyễn Văn Linh dẫn đầu phải chấp nhận mọi đòi hỏi của họ. Và cộng sản Việt Nam đã mang độc lập của đất nước, danh dự của tổ quốc, đất đai của giang sơn, tự hào của lịch sử, khí phách của giống nòi ra đánh đổi lấy bình thường hóa quan hệ Việt Trung. Cộng sản Việt Nam phải chấp nhận để Pôn Pốt kẻ thua trận ở vị thế ngang hàng với Hun Sen người thắng trận trong cơ cấu quyền lực nhà nước Campuchia.

Vì sự đổi chác ở Thành Đô ngu xuẩn, nhục nhã như vậy nên đến nay cộng sản Việt Nam vẫn phải giấu kín nội dung cuộc đổi chác Thành Đô như mèo giấu cứt.

Trong đoàn chư hầu ô nhục đi Thành Đô có Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban Chấp hành trung ương đảng cộng sản Việt Nam và ông cố vấn tóc bạc, mắt lòa phải có người dắt đi từng bước này phải ngậm ngùi nói về ông trưởng đoàn chư hầu, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: “Đã hớ, đã dại rồi mà còn nói đặt sự nghiệp cách mạng lên trên hết… Người lãnh đạo không nên làm như vậy. Với Trung Quốc, vừa qua không phải là chúng ta bình thường hóa, mà là chúng ta đã bị “phụ thuộc hóa” quan hệ" (Sách đã dẫn. T93).

Còn Thứ trưởng bộ Ngoại giao Trần Quang Cơ thì nhìn nhận về cuộc gặp Thành Đô: “Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ CNXH, thay thế cho Liên Xô làm chỗ dựa vững chắc cho cách mạng Việt Nam và chủ nghĩa xã hội thế giới, chống lại hiểm hoạ “diễn biễn hoà bình” của chủ nghĩa đế quốc do Mỹ đứng đầu. Tư tưởng đó đã dẫn đến sai lầm Thành Đô” và “Vì quá nôn nóng cải thiện quan hệ với Trung Quốc, đoàn ta đã hành động một cách vô nguyên tắc, tưởng rằng thỏa thuận như thế sẽ được lòng Bắc Kinh nhưng trái lại thỏa thuận Thành Đô đã làm chậm việc giải quyết vấn đề Campuchia và do đó chậm việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, uy tín quốc tế của ta bị hoen ố.” (Sách đã dẫn. T 94)

Cuộc đổi chác Thành Đô buộc Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc đến mức ngày 5.8.91, giữa cuộc họp Hội Đồng Bộ Trưởng, Hồng Hà trưởng ban đối ngoại của đảng cộng sản cao giọng nhắc nhở cả bộ máy chính quyền: Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại Sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh’’ (Sách đã dẫn. T109).

7. Kí văn bản giao kèo đổi chác Thành Đô, lãnh đạo cộng sản Việt Nam chỉ có hồn cộng sản, hồn băng nhóm giang hồ cướp quyền con người, cướp quyền làm chủ đất nước của người dân, không có hồn Việt Nam, không có tư thế của lịch sử Việt Nam, của văn hóa Việt Nam “Như nước Đại Việt ta từ trước / Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” (Nguyễn Trãi. Bình Ngô đại cáo). Do đó đảng cộng sản vừa phải giấu kín văn bản đổi chác nhục nhã ở Thành Đô vừa phải tung đội ngũ dư luận viên đi lừa bịp “Hội nghị (Thành Đô) là kết quả tất yếu đáp ứng đòi hỏi bức thiết của tình thế đất nước ta thời đó. Nó được tiến hành sòng phẳng, vị thế hai bên ngang ngửa, cả Việt Nam, Trung Quốc và Campuchia đều được hưởng lợi. Tuy nhiên, bên giành thắng lợi lớn hơn cả là Việt Nam.”

Người dân không được thấy câu chữ nhem nhuốc của văn bản bán linh hồn cho quỉ ở Thành Đô. Nhưng người dân thấy rõ thực tế ứng xử đớn hèn của nhà nước cộng sản Việt Nam với Trung Quốc từ sau Thành Đô 1990 và ứng xử đớn hèn đó đã tố cáo sự bán mình của đảng cộng sản Việt Nam cho đảng cộng sản Trung Quốc.

Với chính sách phụ thuộc, nô lệ vào nhà nước cộng sản Trung Quốc, với thân phận chư hầu, nhà nước cộng sản Việt Nam đã phản bội cha ông, phản bội lịch sử Việt Nam kí hiệp định biên giới 1999 dâng mười lăm ngàn cây số vuông đất biên cương cho Trung Quốc.

Từ sau 1990 tất cả bia đá, tượng đồng ghi nhớ chiến công của quân dân ta trong mười năm 1979 – 1989 chiến đấu chống quân Trung Quốc xâm lược bị đục bỏ. Bia ghi tội ác của quân Trung Quốc xâm lược bị xóa sạch. Pháo đài Đồng Đăng, Lạng Sơn lịch sử, nơi hàng trăm người dân Việt Nam chạy giặc ẩn náu đã bị quân Trung Quốc xả hơi độc, đánh thuốc nổ giết chết nay chìm trong lau lách hoang vu quên lãng

Nhà trường không được dạy học sinh, sinh viên những trang sử hào hùng của cha ông chống quân của các triều đại Trung Quốc xâm lược. Người dân tưởng niệm những người con yêu của Mẹ Việt Nam đã ngã xuống trong cuộc chiến đấu giữ nước chống quân Trung Quốc xâm lược, người dân biểu tình chống những hành động Trung Quốc đang tiến hành xâm lược Việt Nam đều bị công cụ bạo lực nhà nước cộng sản Việt Nam đàn áp dã man.

Từ sau 1990, nhà nước cộng sản Việt Nam hoàn toàn bỏ ngỏ biển Việt Nam cho Trung Quốc làm chủ. Quân đội bảo vệ chủ quyền lãnh thổ đã khoanh tay đứng nhìn những đoàn tàu dân đánh cá Trung Quốc nhiều như là tre tràn vào biển Việt Nam, đến nhà nước cộng sản Việt Nam cũng im lặng coi Trung Quốc làm chủ biển Việt Nam như là điều bình thường, đương nhiên. Tàu vũ trang Trung Quốc tự do ngang dọc trên biển Việt Nam, đâm chìm tàu dân Việt Nam, giết hại dân Việt Nam cũng chỉ có người phát ngôn bộ Ngoại giao lên tiếng “quan ngại” chiếu lệ. Nhà nước Trung Quốc công bố lệnh cấm dân Việt Nam đánh cá trên biển Việt Nam, nhà nước cộng sản Việt Nam cũng câm miệng hến chấp nhận. Chỉ có hội Nghề cá của dân lên tiếng phản đối yếu ớt.

Bỏ ngỏ biển cho Trung Quốc làm chủ biển Đông. Mở rộng cửa đón người Trung Quốc vào tàn phá đất nước Việt Nam, đón hàng hóa Trung Quốc vào giết chết nền công nghiệp sản xuất hàng hóa Việt Nam, đón văn hóa Trung Quốc vào thiết lập trong tâm hồn người Việt Nam nền văn hóa chư hầu. Sách Vòng Tròn Bất Tử ghi nhận ý chí chiến đấu của những người lính Việt Nam giữ đảo Gạc Ma bị cấm phát hành. Nhưng lại cho dịch, in ấn số lượng lớn và phát hành rộng rãi trên cả nước hàng loạt sách ca ngợi Đặng Tiểu Bình kẻ phát động cuộc chiến tranh biên giới 1979 giết hại hàng vạn người Việt Nam.

Những sĩ quan cao cấp của quân đội, của công an phải lần lượt nối nhau sang Trung Quốc ăn cơm Tàu, học sách Tàu, thay máu Đại Việt bằng máu chư hầu. Sĩ quan cấp tướng chỉ bộc lộ lòng yêu nước, bộc lộ ý chí giữ nước chống quân Trung Quốc xâm lược liền lập tức phải rời quân ngũ như đại tướng Đỗ Bá Tỵ.

Nhà nước cộng sản Việt Nam luôn chấp hành mọi đòi hỏi, luôn thực hiện mọi dự án chỉ mang lại lợi ích cho Trung Quốc và gây thiệt hại to lớn, nhiều mặt cho Việt Nam. Dự án cho Trung Quốc vào khai thác bô xít ở Tây Nguyên, dự án cho Trung Quốc xây dựng nhà máy điện than ở Bình Thuận, dự án cho Trung Quốc trúng thầu thi công đường sắt trên cao Cát Linh – Hà Đông, dự án mở những con đường thông thống từ Trung Quốc thọc sâu vào lãnh thổ Việt Nam, dự án cho Trung Quốc xây dựng nhà máy đam Ninh Bình, những đặc khu kinh tế Vân Đồn, Bắc Vân Phong, Phú Quốc chỉ nhằm “đón đại bàng Trung Quốc vào làm tổ”, chỉ để biến những thế đất hiểm yếu của Việt Nam thành đất sang nhượng cho Trung Quốc được lãnh đạo cộng sản Việt Nam sốt sắng thảo ra... Đất nước Việt Nam đang nguy khốn, nền kinh tế thoi thóp, què quặt, không thể phát triển. môi trường sống của thiên nhiên, của con người đang bị đầu độc, văn hóa chư hầu đang xâm nhập tâm hồn con người, đang tràn ngập trong đồi sống xã hội Việt Nam, an ninh quốc phòng bị bỏ ngỏ bởi những nhượng bộ, những.chính sách phụ thuộc đó.

Với giao kèo Thành Đô năm 1990, sẽ còn nhiều chủ trương, chính sách, nhiều dự án lớn nhỏ trên đất nước Việt Nam tiếp tục ra đời chỉ vì lợi ích của Trung Quốc và gây nguy khốn đất nước, cho giống nòi Việt Nam.



Phạm Đình Trọng
danlambaovn.blogspot.com

30 Comments
Cuộc chiến tranh Việt-Trung 1979 làm Trung Cộng phải rút quân khỏi chiến trường Viết Nam cấp thời là vì Việt Nam ta lúc bấy giờ "nghèo sơ nghèo xác", nếu chiếm được Việt Nam thì Trung Cộng sẽ phải khổ thêm khi đất nước của họ cũng đang "quá nghèo".

Nói gì thì nói, "Hội Nghị Thành Đô" đã chứng minh "Việt Nam đi theo Liên Xô" thì bị "cấm vận", còn đi theo "Trung Cộng" thì được "mở cửa cấm vận"... là vì trên chiến trường Cộng Sản lúc bấy giờ thì có 2 lằn ranh Cộng Sản. 1 là Cộng Sản theo Liên Xô và 1 là Cộng Sản theo Mỹ (như Trung Cộng).

Bây giờ lằn ranh Cộng Sản này đã dẹp bỏ, mà chỉ có "theo Trung Cộng" hay "theo Đồng Minh" mà thôi. Khô>? nỗi ĐẢng Ta lại nói chính sách "3 KHÔNG" hay "30" = "BƯƠI MA"... nghĩa là theo chính sách này thì "Việt Nam sẽ tìm ra MA"...(MA DZE IN VIỆT NAM)

==========
Chuyên gia Mỹ: Việt Nam là đối thủ lý tưởng để Trung Quốc “luyện binh”

May 16, 2019


Trung Quốc ngày càng lộ rõ ý đồ muốn dùng sức mạnh để đánh chiếm Đài Loan, và nếu cần, đánh bật Mỹ và các đồng minh đến cứu viện. Bên cạnh đó, Quân Đội Trung Quốc đang ráo riết rèn luyện để trở thành một đạo quân có “đẳng cấp thế giới”, tức là ngang hàng với Quân Đội Hoa Kỳ. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc rất cần kinh nghiệm thực chiến. Việt Nam, nước sau cùng đánh bại Trung Quốc vào năm 1979, đã trở thành nước mà Bắc Kinh nhòm ngó trong tư cách là đối thủ thực thụ trên chiến trường.

Trong một bài phân tích đăng trên chuyên san Nhật Bản The Diplomat ngày 14/05/2019, ông Derek Grossman, chuyên gia phân tích quốc phòng kỳ cựu tại trung tâm Mỹ Rand Corporation, nguyên là cố vấn cho trợ lý bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ đặc trách Châu Á – Thái Bình Dương, đã giả định rằng: “Đến một lúc nào đó, Quân Đội Trung Quốc sẽ cần phải kiểm tra (trên chiến trường) năng lực mới của họ – và Việt Nam hoàn toàn có thể bị coi là đối thủ được ưa thích”.

Bài viết mang tựa đề rất khiêu khích “Việt Nam là nước được Quân Đội Trung Quốc ưa thích trong một trận đánh mang tính chất khởi động – Vietnam is the Chinese military’s preferred warm-up fight”, chuyên gia Mỹ đã nêu bật ba lý do khiến cho Quân Đội Trung Quốc sẵn sàng đánh Việt Nam để gọi là “luyện binh”, chuẩn bị cho cuộc chiến chống Mỹ.

Theo ông Grossman – trong một bài điều trần ngày 07/02/2019 trước Ủy Ban Kiểm Tra Kinh Tế và An Ninh Mỹ-Trung của Quốc Hội Hoa Kỳ, Dennis Blasko, một nhà phân tích kỳ cựu về Quân Đội Trung Quốc đã nhận định rằng lực lượng này hiện đang phải chịu sức ép lớn là phải tăng cường năng lực chiến đấu thông qua các kịch bản huấn luyện chiến đấu thực tế.

Quân Đội Trung Quốc cần có kinh nghiệm thực chiến

Khi chỉ thị cho Quân Đội là phải rèn luyện để trở thành một đạo quân có “đẳng cấp thế giới” vào năm 2050, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình có lẽ đã nghĩ đến sự kiện là cuộc chiến lớn sau cùng mà Trung Quốc đã tham gia là cuộc chiến tranh năm 1979 ở vùng biên giới phía bắc Việt Nam, mà Trung Quốc đã thua một cách đáng xấu hổ.

Tuy nhiên, cuộc chiến năm 1979 lại liên quan chủ yếu đến lực lượng bộ binh, chứ không phải là một cuộc chiến mà Bắc Kinh dự trù phải đối mặt hiện nay, dù là để chống lại Đài Loan hay một đối thủ khu vực khác ở Biển Đông hay Biển Hoa Đông, với tất cả hầu như chỉ liên quan tới không quân và hải quân. Do đó, kinh nghiệm chiến tranh lớn cuối cùng của Bắc Kinh gần như không thể áp dụng được. Đây là một lỗ hổng nghiêm trọng và đáng báo động đối với Quân Đội Nhân Dân Trung Quốc.

Trong tình hình đó, Quân Đội Trung Quốc đã phải nỗ lực tập luyện, nhưng đến một lúc nào đó, họ sẽ cần phải kiểm tra hiệu quả của các năng lực mới tiếp thu, và rất có thể họ sẽ muốn chiến đấu với Việt Nam một lần nữa, như là một bài tập khởi động cho các trận chiến lớn hơn, nhưng lần này là ở Biển Đông. Theo ông Grossman, có ít nhất ba lý do khiến cho Việt Nam biến thành điểm nhắm của ý đồ nói trên của Quân Đội Trung Quốc.

Lý do thứ nhất : Chiến trường Việt Nam và Biển Đông thuận lợi cho không và hải quân

Lý do đầu tiên là Trung Quốc cần phải chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh trong lĩnh vực không quân và hải quân.

Nói cách khác, chiến đấu với Ấn Độ ở vùng biên giới trên bộ, trên vùng đồi núi cao của dãy Himalaya, không có lợi chút nào cho Quân Đội Trung Quốc. Một cuộc chiến khác trên Bán Đảo Triều Tiên có thể mang đến một số cơ hội, nhưng vẫn tương đối hạn chế và cá biệt.

Ngược lại, các yêu sách chủ quyền chồng chéo của Trung Quốc với Việt Nam ở Biển Đông và sự xích mích liên tục giữa hai bên đã cung cấp cho Quân Đội Trung Quốc một kịch bản có sẵn để tiến hành các hoạt động chiếm giữ và phòng thủ hải đảo, cùng với các chiến dịch có phối hợp trên biển chống lại một đối thủ khu vực.

Theo Grossman, Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1988 đã từng có một cuộc giao tranh ngắn ngủi tại Đá Gạc Ma (Johnson South Reef), với hệ quả là Bắc Kinh chiếm cứ các thực thể trước đó do Việt Nam kiểm soát. Tuy nhiên, trận đánh đó khác xa với kiểu xung đột mà Quân Đội Trung Quốc cần tiến hành để kiểm tra năng lực thực hiện và duy trì các chiến dịch quân sự có phối hợp.

Gần đây hơn, vào tháng 5 năm 2014, Trung Quốc và Việt Nam đã xung đột với nhau quanh giàn khoan HD-981 mà Bắc Kinh mang vào vùng thềm lục địa của Việt Nam trên Biển Đông. Mặc dù xung đột chỉ diễn ra giữa các lực lượng tuần duyên và tàu cá, nhưng một số lượng hạn chế tàu Hải Quân Trung Quốc cũng đã túc trực gần đó, dự phòng trường hợp leo thang. Lần đụng độ tới đây có thể rất khác.

Lý do thứ hai : Tránh được việc lôi kéo Mỹ vào cuộc chiến

Lý do thứ hai, theo chuyên gia Grossman, là Quân Đội Trung Quốc gần như chắc chắn sẽ thích lao vào một cuộc chiến không có khả năng lôi kéo Hoa Kỳ vào cuộc.

Do việc Quân Đội Trung Quốc vẫn chưa trở thành đạo quân đẳng cấp thế giới, nên rất hợp lý khi cho rằng Trung Quốc ngay lúc này, chưa sẵn sàng xử lý một kịch bản có Mỹ (cho dù dĩ nhiên họ sẽ chiến đấu, nếu bị bắt buộc). Điều đó có nghĩa là nếu chiến đấu với các nước có hiệp ước an ninh với Mỹ như Úc, Nhật Bản, Philippines, Hàn Quốc và Thái Lan, có rất nhiều nguy cơ là Trung Quốc phải chạm trán Mỹ, điều mà Bắc Kinh không mong muốn.

Trong số các quốc gia vừa kể, Trung Quốc đang có tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản và Philippines, những tranh chấp có thể dẫn đến xung đột vũ trang. Tuy nhiên, trong trường hợp Nhật Bản, Washington năm 2014 đã nói rõ là việc bảo vệ quyền kiểm soát hành chính của Nhật Bản đối với quần đảo Senkaku/Điếu Ngư bị Trung Quốc tranh chấp ở Biển Hoa Đông, nằm trong phạm vi áp dụng của hiệp ước an ninh Mỹ-Nhật.

Tương tự như vậy, vào tháng 3 năm 2019, Hoa Kỳ nhắc lại rằng một cuộc tấn công vào lực lượng vũ trang hoặc tàu thuyền nhà nước của Philippines sẽ kích hoạt Hiệp Ước Phòng Thủ Hỗ Tương Mỹ-Phi. Cho dù cam kết của Hoa Kỳ dường như không nhất thiết bao hàm việc Trung Quốc xâm lược các hòn đảo đang tranh chấp ở Trường Sa, như đảo Thị Tứ, tuy nhiên, điều đó chứng tỏ Washington cũng chú ý đến việc bảo vệ Manila trong khu vực.

Đáng chú ý là sự kiện Washington không có liên minh an ninh chính thức với Đài Loan, một nguy cơ cho đảo này. Điều đó tuy nhiên chỉ đúng trong một chừng mực nào đó, vì Luật Quan Hệ với Đài Loan của Mỹ buộc Washington phải bảo vệ Đài Bắc chống lại sự xâm lược của quân đội Trung Quốc, kể cả khi hai bên không có liên minh quân sự chính thức.

Không giống như các đồng minh của Mỹ trong lãnh vực an ninh, cũng như trường hợp đặc biệt của Đài Loan, Việt Nam sẽ không được Washington hỗ trợ về quân sự.

Chẳng hạn, trong vụ giàn khoan HD-981 tháng 5 năm 2014, Mỹ chỉ ra tuyên bố quy trách nhiệm cho Trung Quốc và kêu gọi cả hai bên duy trì hòa bình và tuân thủ luật pháp quốc tế.

Tuy nhiên, quan hệ quốc phòng Hoa Kỳ-Việt Nam đã có những bước tiến lớn trong những năm gần đây, với một tàu sân bay Mỹ đến thăm Đà Nẵng vào tháng 3 năm 2018 – lần đầu tiên kể từ khi kết thúc Chiến Tranh Việt Nam.

Dù sao thì chính sách quốc phòng “ba không” của Việt Nam nghiêm cấm các liên minh về an ninh, quân sự, khiến Hà Nội khó có thể tìm cách ngăn chặn Trung Quốc thông qua một tuyên bố chính thức với Washington. Do đó, Bắc Kinh có lẽ đã cảm thấy tương đối yên tâm, vì sự can thiệp của Hoa Kỳ ít có khả năng xảy ra trong trường hợp của Việt Nam.

Lý do thứ ba : Việt Nam có thể bị đánh thắng dễ dàng

Lý do thứ ba và cuối cùng theo chuyên gia Mỹ, là Quân Đội Trung Quốc có lẽ sẽ thích một cuộc chiến tranh mà họ có thể chiến thắng.

Mặc dù đây là một điều hiển nhiên, nhưng lý do này đặc biệt quan trọng do việc Quân Đội Trung Quốc cảm thấy bối rối sau khi bị thua trong cuộc xung đột biên giới năm 1979 chống lại Việt Nam. Cái may mắn cho Quân Đội Trung Quốc vào lúc này là họ sẽ có lợi thế quân sự áp đảo ở Biển Đông.

Đối với chuyên gia Grossman, việc hiện đại hóa quân đội Việt Nam trong những năm gần đây đã hướng đến việc bảo vệ lãnh thổ, và nếu cần thiết, mở một cuộc tấn công bất ngờ và ngoạn mục vào các vị trí của Quân Đội Trung Quốc để buộc Bắc Kinh xuống thang chiến tranh. Nhưng nếu Trung Quốc vượt qua được chiến lược đánh “chảy máu mũi” này, thì Việt Nam không có khả năng duy trì các hoạt động ngang tầm với Trung Quốc, do thiếu người và phương tiện.

Ngoài ra, trong lĩnh vực quan trọng là học thuyết quân sự, Việt Nam chưa bao giờ thực sư chiến đấu trong các lĩnh vực không quân và hải quân (mặc dù cũng phải thừa nhận là Quân Đội Trung Quốc cũng vậy). Điểm đó làm dấy lên hoài nghi lớn về khả năng Hà Nội có thể tiến hành chiến dịch hợp đồng binh chủng từ đầu. Thay vào đó, Việt Nam có thể sẽ tập trung hơn vào việc chống lại các lực lượng dân quân và cảnh sát biển Trung Quốc trong những cái gọi là “vùng xám”, vì đây là kịch bản khả thi nhất trong tương lai.

Dù sao thì việc Việt Nam chỉ là một cường quốc bậc trung, nên dễ bị đánh bại, có thể giúp Tập Cận Bình cải thiện năng lực của Quân Đội Trung Quốc.

Cần theo dõi quan hệ Việt Nam-Trung Quốc tại Biển Đông

Trong phần kết luận, chuyên gia Derek Grossman công nhận rằng các lập luận ông đưa ra mang tính chất cố tình khiêu khích, nhưng dựa trên những sự kiện thực tế và lý luận có cơ sở.

Đối với ông Grossman, Quân Đội Trung Quốc và chính quyền Bắc Kinh có lẽ không tìm kiếm một cuộc chiến với Việt Nam, vì chiến tranh có thể làm gián đoạn nghiêm trọng sự phát triển kinh tế của Trung Quốc và có thể làm tổn hại thêm đến uy tín và mối quan hệ quốc tế của Bắc Kinh với Hoa Kỳ.

Nhưng nếu một tình huống khu vực dẫn đến việc phải sử dụng vũ lực, thì Việt Nam sẽ là địa bàn “khởi động” ưa thích của Quân Đội Trung Quốc, vừa mang lại kinh nghiệm chiến đấu rất cần thiết cho trong các lĩnh vực không quân và hải quân, vừa không sợ bị Mỹ can thiệp, vừa dễ dàng mang lại chiến thắng cho Trung Quốc.

Không có đối thủ nào ngoài Việt Nam có thể mang lại cho Quân Đội Trung Quốc các điều kiện thuận lợi như vậy. Do đó, chúng ta cần phải chú ý hơn trong thời gian tới đây về quan hệ Trung Quốc-Việt Nam ở Biển Đông.

Theo RFI

 [color=red]Bài quá dài, phải cắt bớt[/color]


Ngay cả Nguyễn Văn Linh, một tên bán nước rõ ràng, đã từng tuyên bố như trên mà bọn nhà sản cũng tung hê tới bến ... thì để ý làm gì tên Tran Thanh Chuong, một tên dư lợn viên cam quýt rẻ tiền, mở miệng ra còn thúi hơn kít?

[color=red]Bài quá dài, phải cắt bớt[/color]

Gửi ông ... "bác sĩ, nhà thơ, nhà văn" Tran Thanh Chuong.
Ông khoe rằng "ông có người bạn thân làm việc ở Bộ ngoại giao từ những năm 1980" và rằng "biết được khá nhiều điều bí mật và tế nhị phía “hậu trường” liên quan đến sự kiện này”, phải không?

Thế "ông bạn thân của ông" có kể cho ông nghe chuyện bộ trưởng ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lúc ấy, sau khi bị gạt ra ngoài rìa của cuộc họp lịch sử này, đã phải than thở: «Thế là một thời kỳ Bắc thuộc mới rất nguy hiểm đã bắt đầu!» hay không? Chắc là ông ... chưa nghe đâu nhỉ, ông Tran Thanh Chuong nhỉ??

[color=red]Bài quá dài, phải cắt bớt[/color]

Dân nail • 19 hours ago
- Chó nói: "Tôi biết đi với TQ là rất nguy hiểm, nhưng thà mất nước chứ quyết không để mất đảng" (Nguyễn Văn Linh).
- Chó sủa: "Ta đánh Mỹ là đánh cho LX, đánh cho TQ" (Lê Duẫn)


[color=red]Bài quá dài, phải cắt bớt[/color]

Avatar
Dân nail  Dân nail • 11 hours ago
ĐM-HoBuMom, còn nữa. Tên ấu dâm HCM bị tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim chửi là phải:
"Nó phát động đấu tố cha mẹ, gọi bố mẹ là tao mầy. Thế thì tôi chống cái đấy, và tôi đi trở lại với cái đạo làm người. Tôi thấy Hồ Chi Minh làm cái việc vô đạo, mà tôi dám chửi trước đại hội. Ví dụ như tập họp để tôn vinh Hồ Chí Minh, đạo đức Hồ Chí Minh. Cái bữa tập hợp để tôn vinh đạo đức của Hồ Chí Minh ầm ỉ, thì ai đội ông Hồ Chí Minh là thánh trên đầu, mà tôi thì tôi im tôi không nói, vì tôi thấy thằng này là thằng mất đạo đức, bởi vì nó phát động cải cách ruộng đất, nó phát động con đấu tố bố mẹ. Tôi cho thằng này mất dạy, không còn giống người nữa, nhưng mà lúc giờ không ai dám nói" - Nguyễn Hữu Loan

[color=red]Bài quá dài, phải cắt bớt[/color]

Nguyễn • a day ago
Tuyên giáo vc chạy tội cho Mật ước Thành Đô

1- Về vụ tên dlv thanh chuong già họng:
“ Giá trị lịch sử của nó chẳng kém gì hai Hội nghị: Giơ-ne -vơ (1954) và Pa-ri (1973). Nếu Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ lập lại hoà bình cho nước ta một thời gian ngắn, Hiệp định Pa-ri chỉ có tác dụng buộc Mỹ rút quân về nước, chiến tranh vẫn tiếp tục diễn ra, thì Hội nghị Thành Đô là cơ sở kiến tạo hoà bình lâu dài, bền vững cho cả ba nước đến tận bây giờ.”

Đúng là giọng điệu dối trá trơ tráo vẹm.
Bởi vì thực tế lịch sử chứng minh:

Hiệp định Genève: Thực dân Pháp a tùng với việt gian hồ bác cụ theo lịnh Nga hoa ký kết chia đôi Đất nước, dâng Bắc Việt cho cọng sản quốc tế Nga tàu.

Hiệp định Paris: hậu duệ hồ bác cụ Duẫn – Thọ a tùng với Mỹ giả đò ngưng chiến để 2 năm sau đánh chiếm Việt Nam Cộng Hòa dâng cho Nga hoa như lời lê duẫn hiện còn ghi nơi nhà mồ của nó.

Ngày nay, sự thật chang bang. Chỉ có việt gian – việt cọng mới già họng sủa càng như trên.

2- Về hậu quả đau thương của Mật ước Thành Đô:
Dlv thanh chuong sủa:
“ Hội nghị Thành Đô là cơ sở kiến tạo hoà bình lâu dài, bền vững cho cả ba nước đến tận bây giờ.”

Hòa bình thì có, nhưng để làm gì?
Thực tế 29 năm nay đã chứng minh:
Để thi ành Mật ước bán nước Thành Đô, hán ngụy vc đã tiến hành các bước sau đây nhằm kết thúc cái mật ước bán nước ấy:

Cập Nhật Hóa Tiến Trình Thi Hành Mật Ước Thành Đô

" Dù chưa qua hết trọn tháng, chỉ mới hơn hai mươi ngày, nhưng các diễn biến mới nhất, đã và đang xảy ra trên chính trường Việt Nam trong tháng 9/2018, vừa khá dồn dập lại vừa có tính chất thúc bách, nên vô hình chung cho thấy thêm khá rõ các bằng chứng khẳng định về việc cộng sản Việt Nam chấp nhận bán nước cho Tàu cộng, đang được Hà Nội thực hiện từng bước theo lộ trình đã cam kết và được vạch ra bởi Mật ước Thành Đô 1990, với nhiều dấu hiệu đậm đặc tính hiện thực, nhằm đáp ứng đúng với kỳ hạn năm 2020 đang gần kề. "

.... Gác qua tranh chấp, cùng hợp tác khai thác biển Đông

Trong chuyến qua làm việc với Phạm Bình Minh, phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng Hà Nội ngày 16/9/2018, Vương Nghị ủy viên quốc vụ viện và là ngoại trưởng Bắc Kinh - con cáo già sâu hiễm Hoa Lục - đã lập lại quan điểm của Tàu cộng về biển Đông, núp dưới gian mưu được nói là cách tốt nhất để kiểm soát bất đồng giữa Tàu cộng và Việt Nam là cùng hợp tác để khai thác trong vùng biển tranh chấp.

.... Trò tung hứng của liên minh ma quỷ cộng sản Bắc Kinh và cộng sản Hà Nội đang đi dần vào hồi kết. Âm mưu gác qua tranh chấp để cùng khai thác và phát triển, chỉ là cách mượn màu son phấn huê dạng để mê hoặc người dân Việt Nam, nhằm tiến tới việc công nhận chủ quyền Tàu cộng, thông qua sự hợp thức hóa đường lưỡi bò liếm trọn vùng Biển Đông, vốn ngàn đời và vĩnh viễn thuộc về Tổ quốc Việt Nam. Cộng sản Việt Nam bán nước. Muốn giữ nước toàn dân Việt Nam cần phải gấp rút đứng lên hành động để cứu lấy quê hương.
( Hoàng Tất Thắng - Mật ước Thành Đô trên đường trở thành hiện thực )

Để nhìn rõ các bước đi của hán ngụy bán nước việt cọng, xin trích dẫn về nguyên lý thi hành Mật ước Thành Đô:

Trích: " Địa điểm Thành Đô được chọn để bảo đảm bí mật cho hội nghị. Cuộc đàm phán thành công và hai bên thỏa thuận bình thường hóa quan hệ ngoại giao song phương. Tuy nhiên, đối với phần nói chuyện bí mật thì phái đoàn CSVN giữ tuyệt đối cho riêng mình, không tiết lộ và cũng không tuyên bố cho nhân dân Việt Nam hay.
Mặc dầu vậy, ngay sau khi hội nghị vừa kết thúc thì nhật báo Tứ Xuyên loan tải một thông điệp của phái đoàn CSVN. Thông điệp đó như sau: “Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền trung ương tại Bắc Kinh như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng và Quảng Tây. Phía Trung Quốc đồng ý và chấp nhận đề nghị nói trên và cho Việt Nam 30 năm (1990-2020) để Đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc Trung Quốc”. (Lý Bằng Nhật Ký Ngoại Sự).
Để lừa bịp nhân dân Việt Nam, chương trình 30 năm mà hai đảng cộng sản Việt Nam và Trung Quốc thực hiện, cho đến nay đã được 26 năm, được ngụy trang dưới những danh từ mỹ miều như: đại cục và 16 chữ vàng (sơn thủy tương lân, lý tưởng tương thông, văn hóa tương đồng, vận mệnh tương quan).
Bây giờ, sau 26 năm thực hiện đại cục, chúng ta thử cùng nhau nhìn xem những người cộng sản Việt Nam đã làm mất về tay Trung Cộng những gì của đất nước?
( Nguyễn Cao Quyền - CSVN: Từ bước quy phục Thành Đô qua chính sách Ba Không đến lập trường Một Có )

Đến nay là 28 năm đã trôi qua, chỉ còn 2 năm nữa thôi là đáo hạn sát nhập An nam vào "tân đế quốc tàu khựa ".
Thử kiểm điểm vắn tắt, hán ngụy Lê Chiêu Thống vc đã y lịnh thực hiện " các bước tiên hành cần thiết " để hội nhập vào đại gia đình chệt khựa những gì rồi?!

Hiệp định phân định biên giới Trung - Việt 1999
Bằng hiệp định kể trên, ngụy quyền " hán ngụy" đã dâng cho chủ chệt:
1/ Một giải đất biên giới 900Km2, bằng diện tích tỉnh Thái Bình
2/ Trọn Ải Nam Quan, di tích lịch sử dân tộc
3/ Một nửa thác Bản Giốc, giang sơn gấm vóc của tổ tiên
4/ Một phần bãi Tục Lãm của dân Việt
Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ 2000
Đặt ra một bên về các chi tiết kỷ thuật phức tạp, phần đông công luận đều cho rằng bằng vào hiệp định kể trên, " hán ngụy " việt cọng đã nhượng cho chệt cọng 1/3 Vịnh Bắc Bộ với tiềm năng khai thác dầu hỏa lớn lao và mất một phần lớn ngư trường truyền thống của ngư dân Việt.
Nhượng quyền khai thác Mỏ bauxite Tây nguyên
Ngày 18/03/2009, nhà báo Lê Phú Khải đã viết thư lên tổng bí thư Nông Đức Mạnhrằng:
Vấn đề bauxite còn nguy hại gấp trăm ngàn lần cải cách ruộng đất, vì nó hủy diệt cả dân tộc ta như các nhà khoa học đã dự báo. Mười năm nữa sông Đồng Nai và những con sông khởi nguồn từ Tây Nguyên bị nhiễm bùn đỏ thì cả miền Trung, Đông Nam Bộ và TP.HCM lấy gì mà uống, những bà mẹ sẽ đẻ ra toàn quái thai. Vì sự tàn khốc đó mà Trung Quốc đã đóng cửa các mỏ bauxite của họ trên toàn quốc vào năm 2008. Chính vì lẽ đó, với tư cách một công dân, một nhà báo lâu năm, tôi kiến nghị lên Ông Tổng Bí thư, người có trách nhiệm cao nhất của Đảng cầm quyền: Hãy đưa vấn đề khai thác bauxite ở Tây Nguyên ra bàn ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội và Nhà nước để dừng lại dự án này khi chưa quá muộn.
An ninh quốc phòng
Một trong các quan ngại lớn trong dư luận là sự tham gia của hàng ngàn người Trung Quốc tại địa bàn Tây Nguyên, nơi có vị trí chiến lược to lớn về an ninh, quốc phòng
Bất chấp mọi phản kháng của mọi người, mọi giới, hán ngụy việt cọng vẫn một mực tiến hành dự án nhượng cho chệt khựa quyền khai thác bauxite Tây nguyên với hoạn họa tiềm phục chết người, mất nước.
Từ thời triều Nguyễn, Tây nguyên vẫn là vùng đất trọng yếu của Quốc gia, mệnh danh là "Hoàng Triều Cương Thổ. "
Các chiến lược gia Miền Nam, từ Tổng thống Ngô Đình Diệm đến các hàng tướng lãnh đều mệnh danh " Tây nguyên là Nóc nhà Việt Nam. " Ai chiếm đóng Tây nguyên sẽ khống chế cả Miền Nam.
Hiện tại, lực lượng cả vạn công nhân chệt có thể là " đặc công ", bất cứ lúc nào cũng có thể ra tay phá hoại: Cho nỗ các hố chứa bùn đỏ tràn xuống Lâm Đồng và cả một dãy vùng duyên hải Cam Ranh, Ninh Thuận, Bình Thuận gây hỗn loạn và lập đầu cầu không vận cho đại quân chệt cọng đổ quân xuống Tây nguyên tiến chiếm cả Nam Phần giống như chiến dịch " hồ " 1975!
Nhượng Quyền Khai thác Rừng Đầu nguồn
( Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 94 (01-03-2010 )
... Và người ta những tưởng như thế là đủ các mặt xâm lăng của Trung Cộng, các mặt nhượng bộ của Việt Cộng rồi. Đùng một cái, bức thư tố cáo của hai tướng CS là Đồng Sĩ Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh hôm 22-01 làm cho tất cả cộng đồng người Việt trong lẫn ngoài nước giật mình kinh hoảng. Hai ông viết: “Theo chỉ thị của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Bộ trưởng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Cao Đức Phát đã cử đoàn cán bộ liên ngành trực tiếp kiểm tra hai tỉnh Lạng Sơn và Quảng Ninh, đồng thời tổng hợp báo cáo 8 tỉnh Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum và Bình Dương… Kết quả cho thấy 10 tỉnh đã cho 10 doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn dài hạn (50 năm) trồng rừng nguyên liệu với tổng diện tích 305,3534 nghìn ha, trong đó Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc chiếm trên 264 nghìn ha; 87% ở các tỉnh xung yếu biên giới”.Tiếp đó hai ông cảnh báo cách mạnh mẽ: “Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt của quốc gia. Hám lợi nhất thời, vạn đại đổ vào đầu cháu chắt. Mất của cải còn làm lại được, còn mất đất là mất hẳn.Cho Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc khai thác rừng đầu nguồn là tiềm ẩn đầy hiểm họa. Họ đã thuê được thì họ có quyền chặt phá vô tội vạ. Rừng đầu nguồn bị chặt phá thì hồ thuỷ lợi sẽ không còn nguồn nước, các nhà máy thuỷ điện sẽ thiếu nước không còn tác dụng, lũ lụt, lũ quét sẽ rất khủng khiếp. Năm qua nhiều tỉnh miền Trung đã hứng chịu đủ, chẳng phải là lời cảnh báo nghiêm khắc hay sao? Các tỉnh bán rừng là tự sát và làm hại cho đất nước.
Đông đô Đại phố, Bình Dương
Đông Đô Đại Phố được xây dựng trên quy mô 26 ha ngay tại trung tâm của thành phố mới Bình Dương. Dự án được xây dựng theo phong cách Trung Hoa với mục tiêu tạo ra một khu đô thị hiện đại phục vụ cho cộng đồng người Hoa sinh sống và làm việc tại Bình Dương.
Dự án có vị trí rất đắc địa tại trung tâm thành phố mới Bình Dương, tận hưởng các tiện ích xã hội hoàn hảo mà không nhiều nơi có được: gần trung tâm văn hóa - hành chính - chính trị tập trung; gần khu công nghiệp Việt Nam - Singapore 2; gần chùa bà Thiên Hậu;...
Đông Đô Đại Phố bao gồm nhiều hạng mục như: nhà phố liên kế, văn phòng cho thuê, trung tâm thương mại,... kết hợp hài hòa giữa phong cách hiện đại, sang trọng nhưng vẫn mang đậm dấu ấn kiến trúc Trung Hoa.
( diaoconline.vn› Dự án › Khu dân cư – Đô thị mới )
“Phố Tàu” xuất hiện ngày một nhiều tại Việt Nam
Không phải những khu phố Hoa kiều đượm màu thời gian với những nét sinh hoạt truyền thống quen thuộc nơi khu vực quận 5, quận 6 ở TP. HCM, giờ đây những khu phố Tàu mọc lên nhan nhản từ Nam ra Bắc đang gây bao sự lộn xộn, hỗn loạn do thói ăn ở, sinh hoạt bừa bãi của hàng vạn lao động phổ thông Trung Quốc, cho đến chiêu kinh doanh kiểu tận thu, tận diệt của các doanh nghiệp nước này.
( songmoi.vn› Xã hội › Thời sự )
Đặc khu Kinh tế Vũng Áng
Giới chuyên gia cho rằng Việt Nam sẽ đối mặt với những nguy cơ tiềm ẩn nếu phê chuẩn dự thảo đặc khu kinh tế ở Vũng Áng của tập đoàn Formosa.
… Ông Doanh cũng nói về mặt quốc phòng, Vũng Áng "là một địa điểm hết sức nhạy cảm".
"Ở trên mạng Trung Quốc đã lưu hành kịch bản tấn công Việt Nam trong 32 ngày, trong đó nói Trung Quốc sẽ đánh vào miền trung, chia cắt Việt Nam ra."
"Vũng Áng hay Quảng Trị là những vùng hẹp nhất trên đất liền của Việt Nam, vì vậy tôi hy vọng những nhà chiến lược quốc phòng của Việt Nam sẽ quan tâm và thận trọng trước những yêu cầu này."
"Từ Vũng Áng ngó qua Hải Nam không bao xa, nếu ngày nào đó, Trung Quốc đưa một hạm đội từ Hải Nam sang Vũng Áng thì cả Vịnh Bắc Bộ sẽ không giao thông được nước ngoài, không giao thông được với miền Nam Việt Nam, bị biến thành một cái hồ riêng của Trung Quốc"

Tình hình chuẩn bị hội nhập thành An nam đô hộ phủ chệt ngày càng cáp bách.
Đến mức chỉ trong vòng 4 thãng, từ tháng 6/2018 đến nay, tà quyền hán ngụy trơ tráo tiến hành 3 bước liên hoàn lộ rõ âm mưu bán nước theo Mật ước Thành Đô bất kể toàn dân phản kháng:

- Giao nạp 3 yếu điểm Vân Đồn - Bắc Vân Phong và Đảo Phú Quốc
- Vân Đồn: " Vân Ðồn rất hùng vĩ, như một chiến luỹ chắn biển Ðông."
Bây giờ sắp giao cho chệt làm trạm nghỉ chân đầu tiên trên đoạn đầu Biển Đông - " Con đường Tơ lụa trên biển " ( OBOR - One Belt - One Road ) của chệt khựa.
- Bắc Vân Phong: " Đặc khu kinh tế bắc Vân Phong có lợi thế là cảng nước sâu Đầm Môn có thể tiếp nhận tàu 200.000 DWT vào ra dễ dàng . "
Đây là nơi tàu bè di chuyển trên " Đường Tơ Lụa Biển " có thể thuận tiện ghé lại bảo trì.
Phú Quốc: Là Tiền đồn bảo vệ mặt Nam của Tổ quốc, "Phú Quốc, còn được mệnh danh là Đảo Ngọc " ở cuối Biển Đông sẽ là nơi tàu bè ghé lại để thủy thủ đoàn nghỉ ngơi, giải trí.

Tóm tắt lại là: An Nam xã nghĩa hán ngụy ta tích cực chuẩn bị " để hoàn thành nhiệm vụ tay sai:" Cung cấp tiện nghi hoàn thiện đoạn đầu trọng yếu của quỷ OBOR (*) chệt nhằm mở đường chinh phục thế gian.
Như vậy là hán chệt với sự a tòng của nội gian việt cọng vừa " tàm thực " trên đất liền vừa khống chế Biển Đông, hoàn thành công cuộc " đô hộ " nước An Nam việt cọng trên thực tế, khỏi cần bắn phát súng nào!
- Thoái nhượng Chủ quyền Tiền tệ Quốc gia cho chệt
" Cũng rất có thể chẳng hề là một sự trùng khớp ngẫu nhiên, Thông tư ‘Nhân dân tệ hóa biên giới phía Bắc’ của Ngân hàng nhà nước phát sinh ngay sau chuyến công du của Trần Quốc Vượng - Thường trực Ban bí thư - sang Bắc Kinh vào cuối tháng Tám năm 2018, trong đó có cuộc gặp với Tập Cận Bình mà một bức ảnh về tư thế ngồi của hai nhân vật này đã phản chiếu rất rõ vị thế ‘chủ - tớ’.
‘Nhân dân tệ hóa biên giới phía Bắc’ là một chính sách lớn không chỉ liên quan đến an ninh tiền tệ mà cả về quốc phòng của Việt Nam, không thể chỉ được quyết định bởi một ủy viên trung ương đảng như Thống đốc Ngân hàng nhà nước Lê Minh Hưng, mà phải được chỉ đạo từ những cấp cao hơn hẳn ông Hưng.
Vậy phải chăng việc dùng đồng CNY để thanh toán ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam là một trong những cam kết nằm trong các văn kiện mà Nguyễn Phú Trọng đã ký kết với Tập Cận Bình, và nhiều khả năng Tập Cận Bình đã vừa ‘nhắc nhở’ Trần Quốc Vượng vào tháng Tám năm 2018 để ông Vượng về truyền đạt lại cho ông Trọng phải thực hiện gấp cam kết trên?
‘Sáp nhập tiền tệ’ để tiến tới ‘sáp nhập lãnh thổ’?
Về mặt an ninh tiền tệ và chủ quyền kinh tế, ‘Nhân dân tệ hóa biên giới phía Bắc’ chính là một thất bại lớn và càng khiến người dân Việt có cơ sở để mang nỗi tuyệt vọng rằng bản Hiệp ước Thành Đô - được cho là đã được lén lút ký kết giữa các lãnh đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung Quốc vào thập kỷ 90 của thế kỷ XX để đưa Việt Nam trở thành một tỉnh của Trung Quốc vào năm 2020 - đang được giới lãnh đạo hậu bối của Việt Nam rắp tâm thi hành bằng thủ đoạn ‘sáp nhập tiền tệ’ trước khi tiến tới ‘sáp nhập lãnh thổ’."
( Phạm Chí Dũng -‘ Sáp nhập tiền tệ’ để tiến tới ‘sáp nhập lãnh thổ’? VOA )
- Thỏa thuận " Hợp tác Khai thác Biển Đông "
".... Gác qua tranh chấp, cùng hợp tác khai thác biển Đông

Trong chuyến qua làm việc với Phạm Bình Minh, phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng Hà Nội ngày 16/9/2018, Vương Nghị ủy viên quốc vụ viện và là ngoại trưởng Bắc Kinh - con cáo già sâu hiễm Hoa Lục - đã lập lại quan điểm của Tàu cộng về biển Đông, núp dưới gian mưu được nói là cách tốt nhất để kiểm soát bất đồng giữa Tàu cộng và Việt Nam là cùng hợp tác để khai thác trong vùng biển tranh chấp.

.... Trò tung hứng của liên minh ma quỷ cộng sản Bắc Kinh và cộng sản Hà Nội đang đi dần vào hồi kết. Âm mưu gác qua tranh chấp để cùng khai thác và phát triển, chỉ là cách mượn màu son phấn huê dạng để mê hoặc người dân Việt Nam, nhằm tiến tới việc công nhận chủ quyền Tàu cộng, thông qua sự hợp thức hóa đường lưỡi bò liếm trọn vùng Biển Đông, vốn ngàn đời và vĩnh viễn thuộc về Tổ quốc Việt Nam. Cộng sản Việt Nam bán nước. Muốn giữ nước toàn dân Việt Nam cần phải gấp rút đứng lên hành động để cứu lấy quê hương."

Đúng là giờ đây Toàn dân Việt phải vùng lên đánh đuổi việt gian Lê Chiêu Thống việt cọng để giành lại Chủ quyền cho Đất nước và Dân sinh cho Dân tộc.

Hoàng Sa - Trường Sa là hai mảnh Việt Nam trôi giạt trên Biển Đông.
Biển Đông truyền đời là của Dân tộc Việt Nam, ngự trên giải đất hình Rồng bên bờ Biển Đông.

Chệt ỉ thế mạnh cướp đoạt, giờ đây nói là " vùng tranh chấp ", yêu cầu hợp tác để cùng khai thác là ăn nói ngược ngạo.
Tên việt gian việt cọng ngu ngốc, hèn hạ cúi đầu vâng lệnh đúng là phường bán nước, tội đáng tru di tam tộc!

Toàn dân Việt hãy vùng lên thực hiện câu sấm Trạng:

" Bỉnh chúc vô minh, Quang tự diệt
Trọng Ngân bạc Phúc, sản tất vong”

Nguyễn Nhơn
Trước thềm Chiến đấu Mùa Hè
15/5/2019
[color=red]Bài quá dài, phải cắt bớt[/color]

dantoc  Nguyễn • a day ago
Sẵn vụ hiệp ước Thành Đô 1990, xin mời các bạn đọc bài dưới đây trong website CS của DLV Hoàng Nguyên Nhuận ngụy biện cho việc dâng phần đất phía Bắc VN và nhất là Ải Nam Quan cho Tầu.

Web CS: Tản mạn về Ải Nam Quan hay Sự thật về cái gọi là "Đảng CSVN dâng đất cho Trung Quốc"

[color=red]Bài quá dài, phải cắt bớt[/color]

No comments:

Post a Comment