Hồi ký của
người về từ Hoa lục đỏ
Hồi ký của người về từ Hoa lục đỏ
Posted on January 27, 2017 by dongsongcu
Bí Thư Thắng
Một bất hạnh chợt đến với gia đình tôi trong những ngày đầu
năm của mùa Xuân Giáp Dần. Tôi cũng như một số chiến hữu khác được ghi nhận là
mất tích trong trận hải chiến với Hải Quân Trung Cộng tại quần đảo Hoàng Sa
ngày 19 tháng 1 năm 1974.
Sau hai mươi bảy ngày, được gọi là tù binh nơi ngục tù cộng
sản trên Hoa lục đỏ, tôi được trở về với quê hương, được tiếp tục phục vụ cạnh
đồng đội trên Khu trục Hạm Trần Khánh Dư HQ4.
Giờ đây, những gian truân đã qua rồi. Là một kẻ bị bắt
làm tù binh, tôi mặc cảm vì sự yếu đuối của bản thân, đã không làm tròn phận sự
mà Tổ quốc giao phó. Quần đảo Hoàng Sa đã lọt vào tay Trung Cộng, chúng tôi
toàn thể mười bốn thủy thủ thuộc Khu trục Hạm Trần Khánh Dư HQ4, trú đóng đảo
Cam Tuyền (Robert) trong những giờ phút cuối cùng với hỏa lực khủng khiếp từ hạm
đội địch cũng như lực lượng hùng hậu của địch đổ bộ, chúng tôi không còn cách
nào để giữ tròn nhiệm vụ của chiến sĩ trấn thủ hải biên, để cuối cùng bị bắt sống.
Nhưng Tổ quốc mến yêu đã không bao giờ quên chúng tôi.
Trong thời gian bị bắt và bị giam cầm tại trại Thu Dung
tù binh thuộc tỉnh Quảng Châu, nhưng phản ứng mãnh liệt của mười chín triệu
nhân dân miền Nam Việt Nam đã làm cho bọn Trung Cộng phải nới tay với chúng tôi
trong cái lý luận “cải tạo tư tưởng bằng hình thức lao động”. Và sau hai
mươi bảy ngày, không thể giữ mãi cái trắng trợn của kẻ cướp đất, cướp người, bọn
Trung Cộng xâm lược đã phải nhượng bộ cái hào khí bùng cháy của một dân tộc có
bốn ngàn năm lịch sử kiêu hùng, bằng cách trao trả toàn thể bốn mươi tám tù
binh Việt Nam Cộng Hòa vào ngày 17 tháng 02 năm 1974.
Bước xuống phi trường, tôi nôn nao trong một nỗi niềm khó
tả trước sự tiếp đón nồng hậu của đại diện các cơ quan chính quyền, quân đội cũng
như hàng ngàn học sinh, đồng bào đã chẳng quản ngại nắng nôi, mệt nhọc, đến
chào mừng chúng tôi được trở về với Tổ quốc, với mái ấm gia đình. Tôi tự xét bản
thân mình, chẳng làm được việc gì cho đất nước mà vẫn được tổ quốc và nhân dân
đãi ngộ, ít nhất cũng một lần vinh quang trong đời. Tổ quốc ơi, mười chín triệu
đồng bào miền Nam ơi, tôi xin cúi đầu nhận lãnh những ân huệ đại lượng này và
chẳng biết nói gì hơn là xin cho tôi được một lần viết lên sự thật bằng chính
những điều mắt thấy tai nghe, của cái mà Cộng Sản Bắc Việt cùng Mặt Trận giải
phóng Miền Nam tôn thờ như quan thầy của mình.
Vâng, tôi xin nhân danh là một bằng chứng cụ thể với sự
phán đoán khách quan trung thực nhất thế nào là thiên đường Cộng Sản ở Hoa Lục.
Với danh dự mà nói rằng hồi ký này không ẩn chứa một phần chính trị nào, mà chỉ
là những sự thật, tôi không sợ lầm lạc là chỉ phán đoán một chiều hay theo một
khía cạnh tuyên truyền giữa hai ý thức hệ. Tôi đã đến đó, đến với đầy đủ ngũ
quan và một khối óc. Một cán bộ Trung Ương Đảng Bắc Kinh, mà tôi mến phục qua
cái dáng dấp, nhân cách trí thức, điềm đạm và tế nhị, đã nói với tôi:
“Ngày nào ông có trở về nước, nếu có trình bày điều gì,
tôi khuyên ông đừng nên trình bày trung thực quá, nếu không, tôi e ông sẽ ân hận
thì đã muộn …” Vâng, cảm ơn “đồng chí”. Cũng cảm ơn cho những ngày làm tù binh của tôi. Nếu
có mệnh hệ nào thì cũng đủ cho tôi an lòng nhắm mắt, như ông Saint Thomas đã được
nhìn thấy năm dấu thánh của Chúa. Tôi không ân hận dầu cho dù cách mạng vô sản
có nhuộm đỏ cả quê hương tôi, tôi vẫn là kẻ ly khai khỏi tập đoàn đảng trị độc
đoán sai lầm. Bây giờ tôi viết là phó thác cả tâm hồn lẫn thể xác theo giòng chữ
vì không nói lên được những ẩm ức từ trong đáy thẳm tâm hồn thì rồi những tháng
ngày câm lặng này cũng sẽ giết lần đời tôi trong ray rứt ưu phiền …
… Những ngày cuối cùng của năm “con trâu” mệt mỏi đang chậm
chạp trôi qua, thì một biến cố bất chợt mang đến cho trang sử Hải Quân Việt Nam
cận đại một nét chấm phá dị thường, với một khó khăn khôn lường trước một đối
thủ siêu cường, bọn Tàu đỏ xâm lược. Để tiếp nối chí khí hào hùng của một dân tộc
với một quá trình chiến đấu bền bỉ, kiên cường. Vị nguyên thủ quốc gia chỉ thị
cho Hải Quân Việt Nam gửi hạm đội với bốn chiến hạm mang theo ý nguyện của mười
chín triệu con tim rực máu căm hờn, cương quyết tuyên chiến với bọn Tàu đỏ xâm
lược để bảo vệ chủ quyền quốc gia trên những mảnh đất xa lắc ngút ngàn thiêng
liêng của dân tộc …
Các chiến hạm uy dũng vượt hải trình tiến về Hoàng Sa trong hào khí bừng bừng.
Khi đến gần Hoàng Sa, thấy có hai chiến hạm Hải quân
Trung Cộng đang thả trôi án ngữ phía đông nam đảo Cam Tuyền (Robert). Hạm trưởng
chiến hạm chúng tôi (HQ4), chỉ thị cho mười bốn nhân viên thuộc thủy thủ đoàn
tình nguyện đổ bộ lên đảo treo quốc kỳ cùng ngăn chặn lực lượng hải quân Trung
Cộng trá hình ngư phủ xâm nhập đảo.
Khoảng mười giờ ngày 18-1-1974, toán đổ bộ gồm Tr/uý Dũng,
ĐT Quý, TP Hội, TP Cung, TP Chương, PT Bắc, QK Nghiêm, BT Thắng, KT Hưng, CK
Chí, CK Huy, PT Hùng, VC Thanh, và GL Lâm thi hành lệnh đáp xuống đổ bộ đảo. Vừa
đặt chân lên đảo, chúng tôi lục soát chung quanh hạ cờ Trung-Cộng và dựng quốc
kỳ, rồi tìm các địa thể thích hợp để phòng thủ, thu mình trong những lùm cây chờ
đợi diễn biến bất chợt xảy đến …
Qua các tín hiệu trao đổi trên làn sóng vô tuyến, cho thấy
có nhiều gay go, nội dung đại khái bên nào cũng nhận chủ quyền đảo và đuổi đối
phương ra khỏi hải phận mình … rồi một sự yên lặng nặng nề căng thẳng, hình như
hai bên đang rơi vào thế thủ chờ đợi.
Một đêm yên tĩnh đi qua, sáng sớm ngày 19 tháng 01 năm
74, chúng tôi thức tỉnh bởi hằng loạt biến cố dồn dập. Tình hình trở nên nghiêm
trọng, đưa đến cuộc hải chiến thực sự vào lúc mười giờ hai mươi lăm phút sáng
hôm đó. Tất cả chúng tôi xách súng chạy ra bãi biển trong lúc đạn hải pháo vang
rền. Trước mặt chúng tôi, nhiều chiến hạm đang rực lên những lóe lửa hực sáng từ
những họng trọng pháo đang nhả đạn làm khuấy động cả vùng biển êm lặng. Bởi quá
xa, khói súng mù mịt, không phân biệt được chiến hạm nào của ta, chiến hạm nào
của địch … Cuộc hải chiến kéo dài chừng ba mươi phút, có tàu chìm, có chiếc
cháy, chiếc nghiêng, của cả đôi bên dần dần khuất xa tầm mắt chúng tôi.
Nhìn về vùng biển xa mù mà lòng nghe nặng trĩu, tôi không
hiểu số phận của các chiến hạm và thủy thủ đoàn ra sao. Riêng bản thân thì
không một hối tiếc ân hận nào. Dù có ta thán cũng bằng thừa trước những bất ngờ
đương nhiên của chiến tranh. Để tự an ủi chúng tôi ngồi bàn bạc về trận hải chiến
và hy vọng HQ11 sẽ đến tiếp viện.
Đêm đó, tôi suy nghĩ thật nhiều, nhìn những khuôn mặt đăm
chiêu, buồn bã của đồng đội, tôi nghe những nao nao bứt rứt … Dù thế nào chăng
nữa, con người cũng có những yếu đuối của bản thân, tôi liên tưởng đến sự hy
sinh nhưng những bâng khuâng lo ngại vẫn nhen nhúm bùng lên trong giờ phút lặng
lẽ ghê rợn của sự chờ đợi giữa bóng tối dày đặc của vùng biển đen … Tôi mệt mỏi
với niềm suy tư chín mùi để rồi thiếp dần trong giấc ngủ ưu phiền …
Sáng sớm ngày 20 tháng 01 năm 1974, xuất hiện mười bốn
chiến hạm Hải quân Trung Cộng, trực chỉ đảo Cam Tuyền, Hoàng Sa (do lực lượng địa
phương quân và nhân viên dân chính đài khí tượng trú đóng). Việc gì đến ắt phải
đến, sau nhiều loạt hải pháo,lực lượng hùng hậu của Trung Cộng đổ bộ tràn ngập
bốn bề đảo. Cuối cùng, nhóm tử thủ chúng tôi đành cúi đầu chấp nhận những bất hạnh
đã an bài.
Thế là hết, tôi không ngờ lần đầu và cũng là lần cuối
cùng đặt chân trên mảnh đất nhỏ bé tít mù của dân tộc. Tôi tuyệt vọng ngước
nhìn về vùng biển xa mù và xót xa trước những đôi mắt u buồn đang lặng lẽ cúi
xuống của đồng đội. Vâng, hãy cúi xuống, hãy cúi xuống thật gần để nhìn lần cuối
cùng cái thân phận của một quốc gia nhược tiểu, sẽ còn điêu linh biết đến bao
giờ?
Những khuôn mặt dữ dằn, với súng trên tay, chĩa về chúng
tôi. Thời gian vô vọng này kéo dài đến đúng cái nắng gay gắt của buổi quá ngọ,
thì bọn chúng đổi thái độ, họ vui vẻ mời chúng tôi hút thuốc, uống nước … Tôi
nghe họ qua sự thông dịch mơ hồ của CK Chi và PT Hưng (là hai người Việt gốc
Hoa), họ thuyết trình về “Chính sách khoan hồng tù binh”, tất cả chúng tôi
thinh lặng, dường như trong thâm tâm ai cũng tự vẽ ra một bối cảnh tối đen hơn
là nghe một điều gì … Sau đó, họ dẫn chúng tôi ra bãi biển và trói lại.
Sáng hôm sau, đưa lên tàu chở về đảo Hải Nam. Khoảng mười
hai giờ trưa tàu cặp bến, được chuyển sang một chiến hạm lớn hơn, nơi đây chúng
tôi bắt gặp thêm ba mươi bốn người nữa bị bắt lên đảo Hoàng Sa. Chúng tôi nhìn
nhau thông cảm, và sau hai đêm một ngày, tàu cập cảng Quảng Châu. Chúng tôi được
tiếp nhận bằng hàng ngàn con mắt của dân quân thị hiếu đứng đầy hải cảng. Tôi
đoán thầm, không lẽ họ tử hình chúng tôi tại đây để trả thù cho đồng chí của họ
đã bỏ mình trong trận hải chiến vừa qua. Nhưng vừa lúc đó, có ba chiếc Molotova
chạy tới và theo sự hướng dẫn của tên cán bộ thông dịch, chúng tôi được đưa qua
thành phố Quảng Châu để đến trại Thu Dung tù binh. Lên xe, tôi chiếm vị trí
thích hợp nhất để quan sát hai bên đường. Khí tiết ở đây thật là lạnh, tôi đã mặc
chiếc áo ấm bên trong, khoác thêm chiếc ba-đờ-xuy bên ngoài mà vẫn còn thấy lạnh
khủng khiếp. Tôi chợt nhớ hôm nay là ngày mùng Một Tết, thì ra, ngẫu nhiên,
mình hưởng những ngày Tết tha hương bất đắc dĩ với thân phận làm tù binh. Tôi
ngạc nhiên khi thấy phố xá hai bên đường không có màu sắc nào của Xuân và Tết,
tôi khẽ hỏi tên cán bộ thông dịch:
“Thưa ông, hôm nay là Tết, sao vắng vẻ và sơ sài thế này
hả ông?”.
Tên cán bộ trả lời: “Tại Trung Cộng vĩ đại
của chúng tôi, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Mao Chủ Tịch, Tết bây giờ đã đổi
khác rồi chứ không còn lạc hậu như thời tiền cách mạng nữa.”
Tôi nghe đến tiếng “lạc hậu” thì kín đáo
nhìn sang hai bên. ừ, lạc hậu, nếu cái lý luận hoa mỹ của “đêm ba mươi
vác cuốc ra đồng, sáng mùng một trồng cây mừng tuổi đảng”, thì những y
phục lòe loẹt, sặc sỡ, những cuộc du xuân ngày nào chỉ còn là trong mơ. Tôi ngậm
ngùi thương cảm cho những con người bị rơi vào cái thế chỉ biết đầu tắt mặt tối,
tăng gia sức lao động để phục vụ cho một lý tưởng mơ hồ. Tôi hỏi người thông dịch:
“Tết
mà người ta vẫn đi làm sao ông?” Anh cán bộ đang ưu tư, có vẻ lười
trả lời, nhưng cũng cố gắng: “Đó là những anh hùng lao động, biết phấn đấu gian khổ
cho đại thế giới cách mạng vô sản, các anh chỉ biết hưởng thụ nên không thấy
cái cao cả trong chính sách của đảng, của nhà nước chúng tôi, từ thực tiễn đến
nhận định là thế, tức là những anh hùng công nông của Trung Quốc, trước kia cũng
ích kỷ nhỏ hẹp như các anh, nghĩa là đặt quyền lợi cá nhân trên cái sống tập
đoàn thương yêu. Nhưng nhờ lao động, họ đã ý thức được công trình vĩ đại cao cả
của Đảng và nhà nước Trung Hoa“.
Tôi lạnh mình ý nhị liếc sang người bạn thầm nói:
“Gớm! Tên này ý hẳn cũng vài mươi tuổi đảng chứ chẳng vừa
với những mỹ từ giả dối mà có khả năng lấp khóe mắt dò xét của con người, đâu
phải là thứ thường”.
Tôi buồn cười bởi cái phô trương của anh
cán bộ. Anh ta nói mà trong ánh mắt dường như ẩn hiện một nỗi lòng khó tả được
tiềm ẩn như trong cái thế nén của chiếc lò so bất lực.Có lẽ anh ta mơ tưởng đến
những thú vui của thời thơ ấu. Đầu năm vẫn là những ngày thiêng liêng nhất của
người thuần tuý Á Đông. Con người vẫn là con người, chứ không phải là hệ thống
máy móc để có thể dễ dàng giết chết cái tập tục truyền thống của dân tộc có từ
muôn đời xa xưa được.
Đoàn xe vẫn tiếp tục lăn bánh, hai bên đường không một mảnh
đất hoang, dù là khô cằn sỏi đá, đều được cày xới trồng trọt. Tôi rùng mình nghĩ
đến phần đất màu mỡ của quê hương miền Nam Việt Nam, là vựa thóc của Đông
Dương, nên hẳn nhiên là miếng mồi quá thơm ngon đối với Trung Hoa lục địa vĩ đại
đầy nhân khẩu mà nạn nhân mãn là mối đe dọa trầm trọng.
Mãi miên man suy nghĩ, xe chạy vào trung tâm thành phố mà
tôi không hay. Khu nội thành cũng vậy, có nghĩa là những hình thức phấn đấu
gian khổ đã đồng lõa với sự áp bức, để cho người dân lầm than khổ đau của Trung
Hoa ngày nay, phải câm lặng khứng chịu tất cả những tàn phá do chính sách đảng
trị nhiễu nhương tác quái… Tôi nhìn đoàn người trên phố, họ đi từng toán trên
đường, với y phục giản đị, đồng nhất được khoác lên những tấm thân còm cõi vốn
có của người Quảng Đông. Họ trầm lặng quá, đúng như người ta bảo “người Cộng sản
thầm lặng như chiếc bóng”, thỉnh thoảng có vài thiếu niên đốt lên vài cây pháo, và
đó chính là dấu hiệu duy nhất đón Tết qua đôi mắt trung thực của tôi.
Tôi viết những sự thật này, cũng như có lần tôi đã viết
bài “Mùa Xuân của Quảng Châu”, khi còn bị giam ở bên Trung Quốc, nội
dung cũng như thế này. Và được các “đồng chí” bên đó nói rằng:
“Anh
có nhận xét thiếu tinh tế và tư tưởng xuyên tạc, nên cảm nghĩ của anh về mùa
Xuân Quảng Châu còn đầy tính chất châm biếm, thiếu sự giáo huấn chính trị …
“Vâng, tôi
không thích chính trị, tôi chỉ thích những nguồn sống thực, những ngôn từ tôi
nói phải phát xuất từ đáy lòng, chứ không phải từ những chiêu bài chính trị.
Đoàn xe vẫn từ từ lăn bánh, dường như họ muốn chúng tôi
quan sát cái trung tâm của một thành phố được gọi là lớn vào hàng thứ năm của
Trung Cộng. Tôi mỉm cười nhìn những khu chung cư cao ngất “nếu không ở
trên đám mây xanh ấy, thì họ sẽ phải ở đâu!”
Với tôi, đừng phô diễn cái trò
tuyên truyền trẻ con này, vì phải chăng đây chính là
“nguồn gốc
phát sinh ra chính sách xâm lược để tự tồn”.
Những con đường phố ở đây hẹp và dây điện rối mù như mạng
nhện, phương tiện giao thông chính yếu là xe buýt điện và xe đạp, tuyệt đối
không có một chiếc xe gắn máy nào.
Người bạn bên cạnh hỏi anh cán bộ thông dịch:
“Ông ơi, ở bên này không có xe Honda, Yamaha, hay sao?”
Anh cán bộ ngẩn người: “Honda là gì?”
Tôi giải thích: “Đó là một loại xe chạy bằng
động cơ, giống như chiếc xe bình bịch ấy.”
Anh cán bộ nhún vai: “ừ, thế thì bên này
chúng tôi không thèm cái loại xe vô dụng đó, vì nó có tính cách tư bản lãng phí
quá, cũng như nó không sản xuất mà lại còn làm hao hụt nhiên liệu của nhà nước
nữa…”
và cũng để tỏ ra mình cũng thông thạo về vấn đề quốc tế, “đồng
chí” theo thao bất tuyệt về tình hình căng thẳng ở Trung Đông và sự tranh chấp
giành quyền lợi giữa Nga và Mỹ… Tôi không cần nghe anh ta nói gì cả, bởi những
lời bào chữa để thỏa mãn tự ái cá nhân đều vô dụng. Tôi cũng không nêu lên cái
tính chất quê mùa của cuộc đối thoại, mà chỉ cần biết rằng anh ta đã bày tỏ
trung thực cái hệ thống kiểm thảo nghiêm ngặt của đảng và nhà nước, để đến nỗi
một cán bộ như anh ta mà còn không biết được cái xe thông dụng ấy, thì huống hồ
chi người dân chân lấm tay bùn, sinh ra trong lao động và chết trong lao động sẽ
còn nhận thức được gì ánh sáng văn minh của nhân loại, đối với họ chỉ được dạy
dỗ rằng:
“Chỉ có Mao-Trạch-Đông là hoàn mỹ …”
Đoàn xe ra khỏi thành phố, tôi thấy một quân trường ló dạng
qua khung cửa kính và đoàn xe từ từ rẽ vào, hai cánh cổng mở rộng, những tân
binh đứng đầy hai bên chiếu cố nhìn chúng tôi tận tình.
“Không, bởi chúng tôi xuống đảo nên ăn bận lôi thôi thế
này, chứ không phải quân đội chúng tôi có cái ăn bận như cái bàn tán xì xào của
các người đâu, còn các anh em Địa-phương-quân, sở dĩ tóc họ quá dài là vì ba
tháng liền ở đảo không có thợ hớt tóc, chứ quân đội chúng tôi không đồng hóa với
Hippy đâu.”
Tôi bực bội nghĩ thế khi thấy ánh mắt diễu cợt của đám tân binh. Chúng tôi
xuống xe và tập họp trước cái sân rộng lớn, nơi đây có hơn hai mươi cán bộ đứng
đợi sẵn, họ mặc quân phục gồm có hải quân và bộ binh, tôi đoán có lẽ đây là
nhóm khai thác tù binh.
Chúng tôi được chia làm
bốn tổ, tổ một và tổ ba là Địa-phương-quân, tổ bốn là sĩ quan, và tổ hai là hải
quân. Sau đó, họ hướng dẫn chúng tôi đến một dãy nhà dành sẵn, chỉ định những
khu vực của tổ và phát những vật dụng cần thiết.
Sau mấy thủ tục tạp nhạp, chúng tôi được dẫn đến một phòng họp, và tại nơi
đây một đề tài được giáo huấn cấp thời:
“Chủ quyền
lãnh thổ của Trung Cọng trên hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa”,
nội
dung nói về những di tích lịch sử của người Trung Quốc để lại đảo, và họ nói
nhiều về những vua chúa đã đem quân chiếm đảo … cuối cùng, họ xác nhận chủ quyền
bằng lập luận:
“Trung Quốc muốn thì làm chứ không cần
ảnh hưởng gì của quốc tế, quốc tế chỉ là con số không nếu đi ngược lại quyền lợi
của đảng và nhà nước Trung Hoa”.
Trước khi rời phòng, họ chận đầu chúng tôi:
“Các
anh nghe theo lời đường ngọt của ngụy quyền Sài Gòn nên cứ tưởng Hoàng Sa là
quê hương mình, điều đó thật là lầm lẫn, lầm lẫn về sự thực đã đành mà còn hy
sinh một cách vô lý nữa!”
Về đến tổ mình, chúng tôi phải tụ tập lại để “tọa
đàm” dưới sự hướng dẫn của ba cán bộ trách nhiệm tổ, trong khi tọa
đàm các tổ viên có quyền phát biểu, tuy nhiên cán bộ luôn nhắc nhở
“phải phát biểu những gì khách quan, đứng đắn, chứ không
phủ nhận sự thực bằng thái độ ngoan cố, vì đây là lúc chỉnh đốn lại sai lầm chứ
không phải là cuộc tranh luận chưa có mục đích rõ rệt …”
Trong cuộc “tọa đàm” đầu tiên này, chúng tôi không ai
phát biểu gì hết, một cán bộ có vẻ tâm lý, kéo hai người bạn đứng dậy và nói: “Vì hôm nay các anh tinh thần còn căng thẳng và mệt mỏi,
nên chúng ta tạm ngừng ở đây.” Trong nhóm không ai có ý kiến gì cả,
chúng tôi muốn yên thân hơn là phải nói một điều gì.
Khoảng mười hai giờ trưa, chúng tôi tập hợp đi ăn cơm, bữa cơm tạm thời khá
đầy đủ cho buổi sơ giao của chính sách tuyên truyền –
“Hôm nay, ngày đầu năm của người Á Đông chúng ta, Đảng và
nhà nước chúng tôi lấy bữa cơm này là kết tinh của lao động để đón mời cũng như
khuyến khích các đồng chí, cứ tự nhiên hưởng xuân và sẽ dành được thắng lợi cho
đại thế giới cách mạng vô sản.”
Tôi mỉm cười, quả nhiên do kết tinh của lao động, nhưng đảng
và nhà nước đâu có lao động! Chỉ những công nông là những anh hùng biết lao động!
Lòng bảo lòng, thôi cứ hưởng thụ đi, nếu đã tốt đẹp thì bố mẹ, họ hàng ta đâu
di cư vào Nam!
Họ đứng chung quanh bàn ăn chúng tôi, ân cần chuyện trò, hỏi han: “Sao, cơm Trung Quốc ngon không?” … Tôi cười
thầm trong bụng “Nếu cứ thế này cho vài năm
thì hay biết mấy! Chỉ sợ bữa một bữa hai rồi đổi món“. Một cán bộ
có vẻ rất trí thức và cao ngạo, một tay chống nạnh, một tay vân vê điếu thuốc,
cười nửa miệng, hóm hỉnh nhìn chúng tôi – “Cao
ngạo trong sự đương nhiên của kẻ chiến thắng, thì cái thất thế phải đến cho đối
thủ, làm quân tử sao cho là nhục!” Tôi thầm nghĩ như vậy.
Sau một bữa ăn cho bỏ ghét, có giỏi thì cứ nuôi như thế
này mãi đi, còn không đủ khả năng thì cứ thực tình cung khai tám trăm triệu
nhân khẩu ra thì có ai bảo sao đâu!
Trước khi về tổ, một cán bộ tập họp chúng tôi lại và nói:
“Sau khi quan sát và nhìn chung vào vấn đề ăn uống của anh
em hôm nay, tôi thấy anh em có nhiều lỗi lầm cần phải tự sửa chữa, đó là sự
phung phí của anh em. Anh em không biết cái tiêu chuẩn chống lãng phí của đảng
và nhà nước, hãy nhìn xem trên mặt bàn của tám người ăn đầy những hạt cơm vung
vãi thế kia, nếu tám trăm triệu người Trung Quốc mà ăn uống như các anh thì hơn
tám trăm triệu hạt cơm rơi ấy sẽ nuôi được bao nhiêu người đó!”
Tôi ớn
xương sống, quả thật, những thằng đói nó có lý luận hay, cả đời chúng chỉ nhìn
vào nồi cơm, rá gạo huyền nào mà chẳng tinh thế!
Chúng tôi về tổ nghỉ ngơi, hai giờ chiều, một sĩ quan quản
gia đến đánh thức chúng tôi và cho biết sẽ phải “tọa đàm” tiếp đề tài hồi
sáng. Chúng tôi thinh lặng rất lâu, một cán bộ lên tiếng “Anh em cứ tự
nhiên phát biểu ý kiến, vì đây là cuộc tranh luận, không sao cả.”
Một anh bạn của chúng tôi rụt rè hỏi: “Thưa
đồng chí, theo đài BBC Luân Đôn, Vua Gia Long đã đem quân trú đóng ở Hoàng Sa
vào năm 1802 …”
Vừa nói tới đây, thì anh cán bộ đưa tay ngăn lại
“Các anh em thật là lạ, tại sao đài mình không nghe, lại đi nghe cái
đài xuyên tạc đó, bên chúng tôi không bao giờ nghe đài nào khác ngoài đài Bắc
Kinh, nên không bao giờ lầm lẫn như thế. Còn cái vấn đề đồng chí Gia Long nào
đó cho có quân lính Việt Nam ra trú đóng đảo vào năm 1802 thì thật không thể
tin được, vì sử sách Trung Quốc không hề ghi chép điều đó. Bởi vậy, đây là lần
đầu tiên, cũng là lần cuối cùng, anh em đừng nhắc nhở đến Vua Gia Long nữa.”
Anh ta nhìn sang phía khác: “Anh em bên này
có ý kiến nào không?”, rồi quay ra mỉm cười đắc ý với hai cán bộ ngồi
đằng sau, dường như anh ta thỏa mãn với câu trả lời vừa rồi lắm. Tôi thấy hai
tên kia cũng nghiêm mặt gật gù, áng chừng như đã bằng lòng. Chúng tôi lặng
thinh và hầu như trong mấy ngày đầu chúng tôi không hề muốn nói gì cả. Mấy anh
cán bộ có vẻ sốt ruột bởi sự lặng thinh của chúng tôi nên hơi cau có:
“Sao các anh em không nói gì cả? Đây là tọa đàm chứ không
phải là mơ mộng viển vông, nếu cứ như tình trạng này thì các anh em làm sao
thông suốt được đường lối lãnh đạo sáng suốt của Mao Chủ Tịch và nhận thức thế
nào là đúng đắn, thế nào là sai lầm.”
Chúng tôi cảm thấy tình trạng trở nên nhột nhạt nên lặng
lẽ nhìn nhau … cùng cười, đến một lúc nào đó, con người phải trở về với bản
tính cố hữu của mình, cho dù có phải trên búa dưới đe. Tôi ít khi chịu khuất phục
trong vấn đề tranh luận …
Tôi hắng giọng hỏi:
“Thưa các ông, sau bản
hiệp định San Francisco năm 1951, 49 quốc gia đều xác nhận chủ quyền Hoàng Sa của
Việt Nam Cộng Hòa, mà Trung Quốc cũng không phủ nhận bản hiệp định trên. Đến
nay phải chăng Trung Quốc phát hiện được ở dưới lòng đảo có một tài nguyên
thiên nhiên nào nên ngày nay Trung Quốc …”
Còn đang nói dở, thì tên cán bộ quắc mắt nhìn tôi. “Ai bảo với anh như thế, nếu còn giữ mãi cái nhận thức
này thì …”
Một tên có vẻ khôn ngoan trầm tĩnh hơn khẽ kéo tên kia ngồi xuống và nói:
“Các anh bị nhiễm tư tưởng Đế-Quốc Mỹ, cũng như ngụy quyền
Sài Gòn quá nhiều, nên những ý tưởng sai lầm rất nhiều, nhưng chúng tôi tạm thời
coi đó như là lỡ lầm đầu tiên và bây giờ các anh phải chú ý đừng phát ngôn những
gì xâm phạm đến quyền lợi của đảng và nhà nước chúng tôi.”
Tôi nghe trong mình những mạch máu tưởng chừng như dừng lại,
vì đây cũng là lần trắc nghiệm cái phản ứng của chúng. Tôi biết chúng phải
chinh phục chúng tôi bằng vuốt ve hơn là bạo tàn, có lẽ lệnh ở trên chỉ thị như
thế …
Rồi hai tuần trôi qua trong chán chường của những đề tài
và tọa đàm liên tục không lúc nào ngơi. Tôi không hiểu tại sao chúng tôi lại phải
siêng học gấp gáp quá sức, sáng học tập tới 10 giờ, rồi tọa đàm đến 12 giờ, ăn
cơm trưa xong ngủ được một chút lại tiếp tục tọa đàm đến giờ ăn cơm chiều, xong
giờ cơm chiều bắt đầu coi sách báo và tư tưởng Mao Trạch Đông … Tối đến đi coi
xi-nê xong tọa đàm đến 11 giờ mới được đi ngủ … Ngày nào cũng thế, ở đây đời sống
chung không có ngày chủ nhật, một ngày lao động như mọi ngày là lao động để
sáng tạo thế giới … Về vấn đề xi-nê, chúng tôi sợ còn hơn là cơm nếp nát, cứ những
phim với nội dung đấu tranh giai cấp, tăng gia sản xuất, các thời sự về mối
bang giao của tranh giai cấp, tăng gia sản xuất, các thời tự về mối bang giao của
Trung Quốc hoặc những phim chiến tranh chống Nhật, những trận đánh du kích của
thuở tiền cách mạng với ngụy quyền Tưởng-Giới-Thạch …
Có một lần, tôi bạo dạn hỏi:
“Thưa đồng
chí, coi những phim như thế này mãi đồng chí có chán không?”
Một cán bộ cười trừ:
“Không, tuy hình thức
và nội dung chúng giống nhau, nhưng nó nâng cao tư tưởng bằng cách mình luôn
luôn nhớ mãi cái tàn ác của những gì đi sai lạc đường lối của cách mạng xã hội
chủ nghĩa, như các anh thấy trong phim Bạch-Mao-Nữ hôm qua đó, với phim Nữ-Hồng-Quân
hôm nay, anh thấy không, những chuyện kể lên những tàn bạo, dã man của tập đoàn
phản động đế quốc Mỹ và các bọn tay sai có bao giờ hết đâu … bởi thế, càng coi
càng thấy thích thú, càng thấy cái nhân đạo của vầng hồng cách mạng… ”
Tôi mỉm cười:
“nhưng thưa đồng chí, đã gọi
là nghệ thuật thì phải trả cho nó về đúng với các thuần tuý của nó chứ.”
Tên cán bộ hỏi: “Anh tin có nghệ thuật, vì
nghệ thuật?”
Tôi gật đầu: “Đương nhiên là thế!”
Tên cán bộ cười khảy:
“Không, anh lầm lẫn rồi,
không bao giờ thế, không bao giờ có cái nghệ thuật siêu giai cấp, mà nghệ thuật
chính là công cụ chính yếu để phục vụ cho đồng chí phần nào cái sự thực của sự
lạm dụng nghệ thuật, chứ nghệ thuật vẫn là thuần túy nghệ thuật, nó vẫn là thế
giới tách biệt riêng rẽ bởi nó khách quan và trung thực …”
Tên cán bộ cười khan trong cổ không trả lời, tôi buồn cười
cái nghệ thuật qua cái trận đánh mìn và đánh sạn đạo với tụi Nhật cũng như quân
đội của Trung Hoa Quốc Gia, cứ chỗ nào có mìn thì bảy tám tên Nhật hoặc lính
Trung Hoa Quốc Gia liền bước vô và chỉ cần vài trái mìn là cả một đại đội Nhật
hoặc Trung Hoa Quốc Gia chết như rạ…
Nói chung là những phim tuyên truyền quá lố đã đành mà
còn đồng hóa người ngồi coi thành một sự ngu độn không tưởng … tôi không hiểu
những cán bộ họ có thực sự thỏa mãn với những phim như thế hay không hoặc muôn
đời sự giả tạo này khoác lên đầu môi mép mỏ để mê muội cái dân trí 800 triệu
người mà chỉ có 19 vạn sinh viên.
Tôi hiểu cái thâm ý của họ qua cuốn phim
“Thi
đua phong trào học tập Công Xã Đại Trại”,
Công xã đại trại là một
công xã phải nói là bất hạnh được thiết lập trên vị trí thiên nhiên đầy đồi núi
sỏi đá khô cằn. Nhưng có một tên bí thư Đảng đã hô hào toàn thể nhân dân trong
xã hãy phấn đấu gian khổ để khắc phục thiên nhiên bằng cách lấy sức mạnh của những
gì còn lại nơi con người, đục bằng phẳng trái núi, rồi gánh đất đổ lên đó trồng
lúa, sau bao gian truân khó nhọc, cuối cùng họ thành công. Và một điều lạ lùng
hơn nữa là năm đó Đại Trại lại được mùa hơn tất cả mọi công xã khác, tôi vô
cùng xúc động khi thấy ánh mắt bừng vui của toàn thể nhân dân trong xã nhảy múa
vui mừng bên khúc ca được mùa …
Nhưng xúc động vui lây với sự khó nhọc của họ chợt se lại
khi thầy từng xe Molotova chất đầy những bó lúa vàng ánh như giọt mồ hôi phản
chiếu cái thiếp vàng của khung ảnh Mao Trạch Đông treo trên bức tường … Vâng,
muốn sống trong sức lao động của người để mà hưởng thụ thì điều kiện tiên quyết
là phải giết đi cái tri thức mà những ngày tháng lam lũ trong lao động đã khiến
con người như quên đi cái quyền lợi bản thân …
Hôm nay, chúng tôi được đưa đi tham quan xưởng chế tạo xe đạp, nhà máy cơ
khí hạng nặng cũng như tiện nghi ăn ở của tất cả công nhân. Trước tiên là nhà
máy cơ khí, chúng tôi được quan sát những hệ thống máy móc tương đối khá vĩ đại,
nhưng tiếc rằng tôi chẳng thu thập được gì ngoài những tư tưởng Mác Lê-Nin,
Staline, Mao-Trạch-Đông dán đầy trên tường cũng như mỗi lần nghe một nhân viên
hướng dẫn của nhà máy nói: “Đây là kết quả của
đường lối lãnh đạo sáng suốt của …” là tôi đã chán đến buồn ngủ.
Vâng, tôi không phải là hạng người sinh ra để ca tụng một con người, không có
ai là thánh sống đối với tôi hết, tôi cười ruồi khi nghĩ đến chiến tranh giai cấp
của họ.
Vậy giai cấp là gì khi há miệng ra là
Mao Trạch Đông, nằm ngủ cũng mơ thấy Mao Chủ Tịch …
Bây giờ thì đi thăm khu bệnh viện của nhà máy, tương đối
tiện nghi và rộng rãi, nhất là sự rộng rãi chúng tôi phải công nhận. Có hơn 50
giường bệnh nhân, mà chỉ tiếc rắng công nhân của hãng này ít người bệnh quá,
tôi chỉ thấy có vài ba người dưỡng bệnh, mặc dù có hơn 5,000 công nhân làm việc
cho xưởng. Nhưng tôi không ngạc nhiên khi nhìn thấy cái ngôi sao đỏ trên nón của
một bác sĩ đang chẩn bệnh cho một ông cụ già gần đó …
Chúng tôi đi thăm các khu chung cư của xưởng, vào từng nhà một tôi thấy các
cán bộ luôn luôn có cái thâm ý bắt chúng tôi chú ý đến cái máy thâu thanh (đặc
biệt có đài Bắc Kinh), cái xe đạp (loại khung đàn ông và theo tôi hiểu đó là
hình thức cơ giới hóa lao động hơn là để đi chơi), và cuối cùng là cái máy khâu
… đại khái nhà nào cũng được trang bị như thế (cái vấn đề tài sản này có phải của
gia chủ hay không thì chỉ có Trời biết).
Cuối cùng, đi thăm vườn trẻ, trong cuộc thăm viếng này, có một hoạt cảnh
hai toán chơi trò bắn nhau, một đám bị thua, đám kia bắt đầu hàng. Nhưng đám
kia nói: “Mao Chủ Tịch dạy ta không hàng …” Tôi
nhục quá, cúi đầu lặng thinh. “Vâng, chỉ những đứa
trẻ nó mới mơ mộng siêu việt như vậy thôi, còn con người nếu có đầy đủ tri giác
ai mà không có những yếu đuối của bản thân cũng như cam chịu những bất hạnh phải
đến.”
Chúng tôi chấm dứt cuộc tham quan tại đây để sang xưởng
chế tạo xe đạp, ban đầu chúng tôi nghe đồng chí Giám đốc thuyết trình về quá
trình phát triển của hãng sau 3 lần kế hoạch kinh tế ngũ niên. Theo ông ta cho
biết thì hãng bắt đầu từ năm nay sẽ sản xuất 2,000 chiếc xe mỗi ngày … cũng như
ông ta nói nhiều đến những lời khen của Mao Trạch Đông trong những lần viếng
thăm xưởng …
Cuộc thuyết trình được chấm dứt sau một loạt vỗ tay tỉnh
ngủ của chúng tôi, sau đó bắt đầu tham quan, tôi phải thú nhận những chiếc xe đạp
của họ rất đẹp và tiện lợi, có thể co rút cao thấp hay ngắn dài … Nhưng có điều
tôi thắc mắc là tại sao họ làm được như vậy mà lại chẳng hưởng thụ. Tôi xin thề
là cả trong cái trung tâm của một thành phố, xét về lượng còn lớn hơn cả Saigon
mà không hề thấy có một chiếc xe đạp nào đẹp như thế để đi học hoặc để đi chơi.
Duy chỉ có loại xe đạp thồ, tức để chở đồ … Rồi cuộc tham quan này chấm dứt sau
một bữa ăn tương đối thịnh soạn của xưởng ưu ái đãi ngộ tù binh …
Trên đường về cũng như buổi tối hôm đó nhức đầu vì những cảm tưởng của cuộc
tham quan, chúng tôi có nói hay thì cũng phải diễn giải cái hay ở chỗ nào, còn
nói dở thì thật khốn nạn bởi ta không có nhiều lỗ tai mà nghe cho kịp 6-6 cái
miệng …
Hôm nay đề tài mới “Phong trào phê phán Khổng
Tử và Lâm Bưu”. Tôi không ngờ họ lại nhục mạ một con người mà đã đưa
cái kiến thức của mình để tác tạo cho một Trung Hoa với một lần vàng son trong
lịch sử văn minh loài người, tôi cứ tưởng họ cũng phải tôn trọng phần nào cái
minh thuyết vĩ đại ấy chứ. Đúng là tiến hóa, tiến đến độ cực đoan của con người.
Một cán bộ bảo:
“Thằng Khổng lão nhị có làm
cho một Trung Hoa đầy những liệt cường xâu xé, đầy những bóc lột như Từ Hy Thái
Hậu …”
Tôi chợt nghĩ, thế thì quá sức sai lầm, sự suy vong của một
quốc gia cũng như cái biến hóa thăng trầm của hoàn vũ chứ đâu do cái nền tảng
tư tưởng của nước đó làm sụp đổ …
Tại sao Nhật Bản
họ cũng lấy Nho học làm nền tảng sao không sụp đổ mà lại trở thành một cường quốc
nắm đầu về kinh tế như ngày nay. Không, Lâm Bưu và Lưu Thiếu Kỳ cũng như lấy
cái kinh nghiệm của Đảng cộng sản Nga Sô, sau mấy chục năm trời đã nhận thức thế
nào là thiên đường cộng sản để rồi phải đi đến giai đoạn “xét lại chủ nghĩa” mà
Mao Trạch Đông cho là:
“Hữu danh là Cộng sản mà
thực chất là Tư Bản”.
Tôi nhớ lại cái khuôn mặt đanh lại của tên thủ lãnh khi nhắc đến câu nói của
Kroutchev:
“Có vũ khí hạt nhân rồi thì chiến tranh nhân dân chỉ là đống
thịt người: “Câu nói này đã minh chứng thế nào là cộng
sản Nga Sô và thế nào là cái giá trị của Lâm Bưu trong cái mơ hồ, ngoan cố của
thiên đường cộng sản. Tôi tiên đoán trong những ngày cuối cùng của sự già nua,
có lẽ rồi Mao Trạch Đông sẽ được cái hân hạnh của hàng bao những Lâm Bưu, Lưu
Thiếu Kỳ đứng lên từ giai cấp công nhân lật đổ cái vàng son hiện hữu để tái tạo
một Trung Hoa với quyền sống của con người …
Image result for life in china in 1974 images
Tôi không bao giờ quên được cái khuôn dáng và cái bản chất
chân thực thuần túy Á Đông của một ông Sĩ quan quản gia chăm sóc chúng tôi và một
binh sĩ nấu ăn. Họ đúng là người Trung Hoa thực sự đúng nghĩa nhất. Bởi phải
chăng cái bản chất của con người vẫn là của con người, mặc dù có sống trong giả
tạo của môi trường sống bịp bợm. Tôi nghĩ chỉ bấy nhiêu đó thôi cũng nói lên phần
nào sự suy luận khách quan của mình về người dân Trung Hoa, họ sống như vậy đã
đành, đến khi chết vẫn không được toàn thây. Xác họ phải đốt thành tro và cái mớ
tro tàn cuối cùng đó có tác dụng gì trước cái luận lý thực tiễn của một lục địa
vĩ đại thiếu màu mỡ …
Tôi rùng mình sợ hãi như nhớ đến sự ghê tởm của cuốn phim mà Cộng sản Trung
Hoa Lục Địa cho là “Những nghệ thuật của Lao động”
khi đào các mồ mả của những vị vua chúa đáng gọi là những bậc minh
quân của Trung Hoa để kiếm tìm những di vật để lại theo cổ truyền mà nói lên
cái bàn tay khéo léo của lao động cũng như gây lòng căm thù trong đám quần
chúng u mê trước các vị tiền nhân của một nền văn minh huy hoàng đã sụp đổ.
Thời gian thấm thoát trôi qua, chúng tôi đã hít cái bầu
không khí của vầng hồng cách mạng này hơn ba tuần lễ. Hôm nay tôi thấy họ có những
khuôn mặt đăm chiêu tư lự, tôi nghĩ thầm lại một biến cố gì chăng. Và quả
nhiên, chúng tôi được tập họp cấp thời tại phòng ăn. Trong phòng đã được trang
trí tươm tất với hàng bàn ghế có khăn trải trắng tinh. Tôi khựng người lên vì cũng
cái khung cảnh như thế này mà một Đại úy Mỹ, 5 người tù binh bị thương đã về đợt
trước. Tôi còn nhớ cũng vì
có người Mỹ mà bao nhiêu cán bộ quắc mắt, xừng xộ nắm tay giá vào mặt tôi khi
tôi hỏi:
“Thưa các ông, tại sao lại thả người
tù binh sớm như vậy? Phải chăng Trung Quốc sợ áp lực của Đế Quốc Mỹ?”
Thú thật hôm đó thấy chúng làm dữ quá tôi phải xin lỗi để thỏa mãn tự ái của
chúng, tôi ngoan ngoãn chăm chú lắng tai nghe chúng thuyết về “Đế quốc và tập đoàn phản động là con hổ giấy”.
Còn đang ưu tư thì một cán bộ đứng lên hô “Nghiêm”. Tất cả chúng tôi giựt
mình đứng dậy, vị thủ lãnh cùng toàn thể cán bộ Trung Ương Đảng trại Thu dung
Tù binh Quảng Châu ngồi xuống hàng ghế danh dự. Sau đó, phái đoàn báo chí cũng
như đài vô tuyến truyền hình tới quay phim, chụp hình lia lịa. Và toàn thể toán
tù còn lại của chúng tôi đứng tim khi nghe xong bản tuyên bố của bộ ngoại giao
Trung Cộng nói với nội dung:
“Đúng 12 giờ trưa
ngày 17-2-1974, Trung Quốc sẽ trao trả toàn bộ 43 bù binh còn lại cho Ủy Hội Hồng
Thập Tự Quốc Tế tại Hồng Kông
…” Rồi tất cả chúng tôi dự một buổi phát biểu cảm tưởng tự
do với đầy đủ kẹo bánh, trái cây trên bàn. Những giờ phút cuối cùng này, chúng
tôi thực tình cởi mở … Tôi phải bị đề cử lên hướng dẫn 43 tù binh ca bài Việt
Nam Trung Hoa, nội dung bài ca này nói đại khái Việt Nam Trung Hoa nối liền
núi, sông liền sống chung một biển đông mối tình hữu nghị sáng như rạng đông …
Và từ đáy thẳm tâm hồn, tôi cũng ao ước rằng bao giờ không còn sự tranh chấp của
ý thức hệ, tất cả những người da vàng đoàn kết lại một khối với tình thương yêu
đồng chủng để sống mãi với bản chất cần cù đôn hậu của người Á Đông …
Một cán bộ có lẽ bị xúc động với những gì bản nhạc đã đứng dậy nói:
“Thưa các bạn, thưa các đồng chí. Tôi ao ước rằng ngày
này các bạn sẽ trở lại thăm chúng tôi với một tư cách khác nghĩa là khi MTGP miền
Nam của các bạn thành công, lúc đó tôi sẽ …”
Rồi dường như xúc động quá, hắn nói không nên lời. Chúng
tôi đang vui trong cái tình cảm của con người bỗng tư tưởng chính trị nhảy vào
làm xìu bao nét mặt. Anh chàng này thiệt ấm ớ quá, sao anh không vui bằng những
gì bộc lộ của tình cảm, và anh đâu có biết chúng tôi đang sung sướng vì sắp trở
về với gia đình. Các anh cười chúng tôi khi mỗi lần nhắc tới gia đình là chúng
tôi rưng lệ. Vâng, gia đình là nền tảng của xã hội, chúng tôi bằng an trong mái
ấm gia đình hơn là sống trong chủ nghĩa quá mơ hồ khó thực hiện …
Kìa anh thấy không, vị thủ trưởng cũng xìu nét mặt vì cái ý thức chính trị
không đúng chỗ của anh rồi đấy. Vâng, trong niềm vui của ông ta, tôi chắc chắn
không phải hoan hỉ vì chính sách khoan hồng tù binh đâu mà tôi tin chắc rằng
ông ta đang chung vui bằng cái niềm vui của chúng tôi nghĩa là sự đoàn tụ của
gia đình. Anh kém tinh tế quá, đúng là cán bộ hạng bét, anh nhìn kỹ đi, anh sẽ
thấy sau những chớp mắt kia, ông ta đang mơ mộng đấy. Ông ta thấy mình cũng vào
trường hợp như chúng tôi và đôi mắt đẫm lệ của người vợ hiền cùng bày con thơ
như đưa ông vào nỗi xúc động không cùng …
Vâng, đó mới là nguồn sống ông nghĩ thế và ngoái cổ nhìn
xung quanh, ông ta không thấy một dấu hiệu nào mừng đón của Đảng mà chỉ có vợ
con ông cùng một bà cụ già bên cạnh người mà trước kia ông từng cho là ngoan cố
lạc hậu… Nhưng anh đồng chí ấm ớ ơi, anh đã thức tỉnh giấc mộng đẹp của ông ấy
rồi, anh đã lôi ông ấy về với chức phận một cán bộ cao cấp của cục trung ương Đảng
Bắc Kinh, để ông ấy sắp sửa lại phải che đậy những tình cảm cao quý của bản
thân mà giáo huấn những điều chính ông cũng cảm thấy dư thừa, không hợp lý. Nhưng
anh đồng chí ấm ớ ơi, tuy anh là cấp dưới mà anh vừa chiến thắng được một thượng
cấp đấy và ngược lại anh đã làm cho ông ấy nổi giận, kể từ ngày mai anh phải
coi chừng và đừng nghĩ mình phải bị la rầy một cách vô lý …
Tôi nhìn lại chiếc giường lần cuối cùng, đêm qua đã mất ngủ để chuẩn bị đồ
đạc cũng như tâm sự vụn với đồng chí quản gia người mà tôi thích nhất vi ông ta
đúng thực là một người Tàu chất phác, chân chính, hiếu khách và tốt bụng. Các
cán bộ cũng thức dậy thật sớm để thi hành nhiệm vụ cuối cùng sau hơn ba tuần lễ
miệng lưỡi Tô Tần chinh phục bọn tôi.
Chúng tôi được đưa lên xe buýt chở lên nhà ga xe lửa Quảng
Châu, sau đó, một toa xe hạng nhất dành sẵn cho bọn chúng tôi. Chúng tôi lên
xe, và nơi đây có Hội Hồng Thập Tự Trung Cộng săn sóc cũng như yêu cầu chúng
tôi có những điều kiện gì muốn nói với Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế thì họ sẽ chuyển
lời. Chúng tôi không ai có ý kiến gì cả. 10 giờ ngày 17-2-1974, xe đỗ ga Thẩm
Xuyến, chúng tôi được đưa lên một khách sạn và ăn bữa cơm cuối cùng gọi là tiệc
ly. Sau đó, chúng tôi được dẫn đến một phòng đợi tại đầu cầu biên giới. 12 giờ
Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế sang nhận lãnh. Rồi chúng tôi lặng lẽ bước qua cầu…
Vừa sang bên cầu, chúng tôi được ông Đại sứ Việt Nam tại Hồng Kông tiếp đón,
ông nói: “Nhân danh là một Đại sứ của tòa
lãnh sự Hồng Kông, tôi thay mặt cho chính phủ Việt Nam Cộng Hòa hân hoan chào
đón những anh hùng …”
Chung tôi, 43 người bật khóc. Vâng, không hiểu tại sao
mình lại xúc động đột ngột như vậy, một khơi động nào đã làm nguồn tình cảm dạt
dào miên man trôi theo giòng lệ. Tôi thấm nước mắt leo lên xe buýt về phi trường
Hồng Kông. Nơi đây, vị Tư Lệnh Phó HQ, Đề Đốc Lâm Nguơn Tánh tiếp đón chúng tôi
niềm nở, và khoảng 2 giờ 15 phi cơ bắt đầu cất cánh. đúng 4 giờ 25 phút, phi cơ
đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất, một cảnh xúc động vô cùng diễn ra, hàng ngàn
người đủ mọi thành phần mừng đón chúng tôi trở về với Tổ Quốc và mái ấm gia
đình…
Tôi như lạc vào trong mơ, ngơ ngẩn trước rừng người. Trung tướng TCCTCT
thân mật bắt tay cùng phát quà và bao nhiêu giới chức nữa, cơ hồ tôi không thể
nhớ … Tôi gặp lại đầy đủ thân nhân cùng bạn bè mừng mừng tủi tủi sau bao ngày
trông tháng đợi …
Bây giờ hồi tưởng lại bao ngày gian lao qua đi, tôi chợt thấy mình trong
cái rủi lại có một cái may, may là mình đã được diễm phúc chui vào cái hỏa ngục
vĩ đại mà trước một áp lực nào, bọn quỷ đỏ đã phải buông tha. Chúng tha trong
nuối tiếc của kẻ khát máu mà phải nhịn để chỉ biểu lộ sự thèm thuồng bằng câu:
“Các anh là người đầu tiên đặt chân lên lục địa chúng tôi
và cũng là những người duy nhất đầu tiên của Ngụy quyền Sài Gòn có đến và có về.
Nếu lần thứ hai trong các anh hoặc bất cứ một người miền Nam nào chẳng may mà gặp
chúng tôi thì các anh chỉ có đi mà chẳng có đường về …”
Vâng, các người đừng phô trương cái khát máu của các người ra làm gì, 27
ngày thôi cũng quá đủ cho một người dù là kém thông minh như tôi nhận thức được
thế nào là mặt thực của xã hội chủ nghĩa.
Bí Thư Thắng
Ghi chú
[1] Cũng Nguyên Nhi, một đồng-đội cũ HQ.4, khi tưởng nhớ về chiến-hạm lúc
Ông nằm tù cải-tạo như sau: …
Những ngày cuối
cùng của cuộc chiến, con tàu nằm đại kỳ ở hải xưởng. Con kình ngư một thời lướt
sóng ngăn thù ấy bây giờ đành ngậm ngùi mắc cạn. Nó không còn cơ hội vượt trùng
lưu- vong. Nó, cũng như anh ta, nằm lại, nghẽn thở trong chiếc thòng lọng đỏ.
Sau này, anh ta viết:
Ðể khắc khoải đêm sâu tù cải tạo
Nghe thinh không thảng thốt một hồi còi...
(Nguyên Nhi, 5.2001)
No comments:
Post a Comment