Báo chí Việt-Nam (2/7): Miền Bắc thời Pháp thuộc
Từ Lý Toét, Xã Xệ đến
Tự Lực Văn đoàn
(Tiếp theo)
Theo tôi, hai tờ tạp chí nổi
bật nhất miền Bắc thời Pháp thuộc là Phong Hóa (1932 – 1936) và Ngày Nay (1936
– 1939) vì lý do cả hai tờ báo gần gũi với người đọc hơn nếu so với các báo ra
đời trước đó. Đó cũng là quy luật tất yếu của nghề báo: độc giả thích đọc những
gì mình quan tâm hơn là đọc những gì người làm báo, viết báo quan tâm.
Phong Hóa là một tuần báo đã
trải qua hai thời kỳ rõ rệt:
(1) từ số 1 (ra ngày 16/6/1932) đến số 13 (ra
ngày 8/9/1932) do Phạm Hữu Ninh làm Quản lý (Administrateur) và Nguyễn Hữu Mai
làm Giám đốc Chính trị (Directeur politique);
(2) từ số 14 (ra ngày 22/9/1932) đến số cuối
cùng (số 190, ra ngày 5/6/1936) do Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh) làm Giám đốc
(Directeur).
Tháng 6/1935, Phong Hóa bị
nhà cầm quyền bảo hộ ra lệnh đóng cửa 3 tháng, rồi lại được tiếp tục xuất bản
cho đến số 190 (ra ngày 5/6/1936), thì bị đóng cửa vĩnh viễn. Đây chính là tờ
báo trào phúng đầu tiên trong lịch sử báo chí Việt Nam kể từ số 14 trở đi.
Trong bối cảnh hàng loạt các
nhà yêu nước rơi vào tình trạng tù đày, mọi hình thức đấu tranh hầu như bị triệt
tiêu thì Nguyễn Tường Tam [*], với bằng Cử nhân Khoa học, trở về Hà Nội sau thời
gian du học từ Pháp. Tại Pháp, ngoài việc học hỏi những kiến thức về khoa học,
ông Tam còn chuyên tâm nghiên cứu về nghề báo. Ông nhận thấy loại báo trào
phúng là khá thích hợp với sở thích của độc giả người Việt.
Nhất Linh Nguyễn Tường Tam
(Tranh của họa sỹ Nguyễn Gia
Trí)
Về Hà Nội, để thực hiện ước
vọng của mình, Nguyễn Tường Tam nộp đơn xin Sở Báo chí cho phép ra báo Tiếng Cười,
tuy nhiên chỉ được trả lời bằng câu… “chờ xét”. Trong thời gian đợi giấy phép
ra báo, Nguyễn Tường Tam xin vào dạy học tại trường tư thục Thăng Long, tại
đây, ông quen biết với hai đồng nghiệp là Trần Khánh Giư (Khái Hưng) và Phạm Hữu
Ninh.
Khi biết ông Ninh đang làm
quản lý cho tờ Phong Hóa, đã ra 13 số báo, nhưng sắp sửa phải đình bản vì không
thu hút được người đọc, Nguyễn Tường Tam ngỏ ý mua lại tờ báo. Sau đó, ông Tam,
với vai trò giám đốc, thành lập một ban biên tập mới gồm một nhóm anh em bạn hữu
trong đó có: Khái Hưng vốn là cây bút chủ lực giữ nhiều mục quan trọng trên báo
Phong Hóa, Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Hoàng Đạo ( tức Nguyễn Tường Long, em kế của
Nhất Linh), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân, em áp út của Nhất Linh)…
Bắt đầu ngày 22/09/1932, báo
Phong Hóa số 14 ra 8 trang khổ lớn, bước sang giai đoạn mới, được đánh giá là…
một quả bom nổ giữa làng báo. Tôn chỉ đầu tiên của tuần báo Phong Hóa là đả
kích những gì cũ kỹ của xã hội Việt Nam, và chủ trương một đời sống mới, thích
hợp với phong trào lãng mạn của thời đại.
Ban đầu, tòa soạn và ban trị
sự của báo Phong Hóa đặt tại trường Thăng Long ở góc phố hàng Cót (thời Pháp là
Rue de Takou) và phố cửa Bắc (Carnot), Hà Nội. Ít lâu sau, báo dời về số 80, phố Quán Thánh (Avenue du grand
Bouddha). Ngoài ra, báo còn có chi nhánh ở Sài Gòn trên đường La Grandière (đường
Gia Long dưới thời VNCH và ngày nay là đường Lý Tự Trọng).
Trang bìa Phong Hóa, số 125
Nhà văn Nguyễn Thị Vinh cho
biết, “Ngay từ khi nhận tờ Phong Hóa do Phạm Hữu Ninh giao lại năm 1932, với tư
cách là giám đốc kiêm quản lý, Nhất Linh đã tính tới việc tập hợp một số nhà
văn, nhà thơ cùng một chí hướng ‘Chống phong kiến, chống thực dân’, phổ biến những
quan niệm nhân quyền và dân quyền, trình bày những quan niệm về tiến bộ cá
nhân, gia đình và xã hội, đặc biệt là khơi dậy lòng yêu nước của người mình”.
Ngoài ra, để báo ngày thêm
phong phú, Nguyễn Tường Tam đã rất chú trọng đến việc chiêu hiền đãi sĩ, khiến
các văn nghệ sĩ thường xuyên góp bài viết và tranh vẽ. Trong số đó phải kể đến
các nhà văn, nhà thơ như Huy Cận, Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu, Trần
Tiêu, Thanh Tịnh, Phạm Cao Củng, Nguyễn Khắc Hiếu, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Đinh
Hùng, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Tường Bách... Đặc biệt, Phong Hóa
còn có sự góp mặt các họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường
(Lemur), Lê Minh Đức....
CON LÝ TOÉT – A ha! Tam anh
chiến nhất Bố
(Tranh của họa sĩ Tô Ngọc
Vân)
Nguyễn Vỹ kể lại trong Văn
thi sĩ tiền chiến: “Tuần báo Phong Hóa số 1, trẻ con ôm đi bán rong, vừa chạy vừa
la inh ỏi, khắp các phố phường Hà Nội. Thiên hạ tò mò mua xem, báo ‘bán chạy
như tôm tươi’. Lý do: báo Phong Hóa đăng đầy những bức vẽ, những mục khôi hài,
chế giễu tập tục “phong hóa An Nam”.
…
Ai đọc báo Phong Hóa cũng
không thể nhịn cười, và mỗi tuần ai cũng chờ đến ngày báo Phong Hóa phát hành để
mua một tờ đọc cười chơi. Tuần báo Phong Hóa thật đã đem một không khí ‘cười nhộn’
khắp thành phố Hà Nội, một cố đô cổ kính nghiêm nghị của ‘nghìn năm văn vật’.
Theo Nguyễn Vỹ, người đọc
bình dân, từ cô sen, cậu bồi, đến các lớp học sinh, thanh niên nam nữ và công
tư chức đều cười rũ rượi khi đọc những mẩu chuyện hóm hỉnh và nhìn những bức vẽ
rất tức cười, chế nhạo nào ông Lý Toét Đình Dù, “nhà quê ra tỉnh” ngớ ngẩn trước
các sự kiện “văn minh”, tân tiến của thời đại, nào là các chuyến xe đò chở đầy
nghẹt dân quê lẫn lộn với heo gà, nào người mù đi không thấy đường ngã tòm xuống
lỗ cống trên bờ lề đường phố… Chẳng hạn trong bức tranh Lý Toét ra tỉnh dưới
đây vẽ cảnh phu lục lộ đào đường, Lý Toét thắc mắc:
LÝ TOÉT (lẩm bẩm): Quái! Người
ta chôn ai mà đào dài vậy??
Nhiều bức vẽ do nét bút khôi
hài của họa sĩ Đông Sơn (tức Nguyễn Tường Tam) mà ta gọi là hí họa đã chinh phục
người đọc, kể cả đàn bà và trẻ con ngay từ những số đầu tiên. Sau đó, báo Phong
Hóa vẽ và chế giễu các nhân vật trí thức, trung lưu và thượng lưu có đôi chút
tiếng tăm trong xã hội đương thời, khiến các giới ấy cũng phải mua Phong Hóa để
xem.
LÝ TOÉT (lẩm bẩm) – Cái
chuông quái gì mà giật lại kêu oai oái!
Ông giáo sư Lê Công Đắc bị
báo Phong Hóa đặt cho biệt danh là Con gà ba chân. Số là bà Bé Tý, quả phụ của một ông Tây Chánh chủ Sở
Bưu điện Hà Nội, ở phố Hàng Bạc, đã nổi tiếng nhờ chuồng thú của bà có nuôi nhiều
con vật lạ, trong số có một Con Gà Ba Chân. Phong Hóa cho rằng Lê Công Đắc là một
con quái vật như con gà ấy!
Dưới mắt Phong Hóa, luật sư
Lê Thăng là con đĩ đánh bồng, tiến sĩ khoa học Nguyễn Công Tiễn chuyên chữa bịnh
toi gà, ông Nguyễn Văn Vĩnh thì bụng bự, ông Nguyễn Văn Tố được gọi là ông Búi
Tó, Nguyễn Tiến Lãng lại là con ve sầu còn thi sĩ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu lúc
nào cũng say túy lúy…
Trên hí họa Ông Nguyễn Khắc
Hiếu dậy văn chương của Tuly (Tứ Ly, Hoàng Đạo) có caption: Tản Đà: Các ngài muốn
hỏi tôi cách làm thơ ru? Khó gì đâu: tửu nhập thi xuất!
Tản Đà lúc nào cũng… say túy
lúy
Cái khôn khéo của Nguyễn Tường
Tam là biết lợi dụng đúng lúc sự chán nản của tinh thần thanh niên và dân chúng
để phát hành tờ báo Phong Hóa, chuyên về hài hước, cốt làm cho độc giả cười
nhưng lại phải suy gẫm. Ông dùng giọng trào phúng để đả kích cái phong hóa cũ kỹ
của xã hội Việt Nam qua hai nhân vật lố bịch mà ông đặt tên là Lý Toét và Xã Xệ.
Họ tượng trưng cho tất cả những gì hủ lậu, quê mùa, ngớ ngẩn của người An Nam
trước cái văn minh tân tiến của Pháp.
Cái “tên” Lý Toét được ra đời
trước rồi mới đến “hình hài” của Lý Toét được vẽ ra sau. Khởi thủy, nhân vật Lý
Toét được Tú Mỡ khai sinh từ năm 1930 trên báo Tứ Dân và sang đến Phong Hóa, Lý
Toét mới xuất hiện lần đầu tiên trên báo với hình ảnh một ông già nhà quê, có
chức lý trưởng trong làng nên được goi là Lý. Cụ Lý vốn bị bệnh đau mắt hột từ
bé, thành ra kèm nhèm như viền vải tây, ngày xưa ta gọi là… mắt toét. Việc nhập
hai chữ Lý và Toét vào nhau thành tên chứ Lý Toét cũng là cả một nghệ thuật
khôi hài.
Nhân vật Lý Toét đã đi vào
cuộc sống của mọi người thời đó. Hồi còn ấu thơ, tôi nhớ mãi câu: “Ông Lý Toét
đi đôi giày chuột khoét…”. Người ta quen với hình ảnh Lý Toét đầu đội khăn
đóng, tay xách ô (nhưng ít khi giương ra), chân thỉnh thoảng mang giầy Gia Định
(vì ông sợ giầy mòn nên thường cặp vào nách hay treo vào cán ô!)…
TẬP KIỀU
Đội giời đạp đất ở đời
Nguyễn Văn Lý Toét vốn người
Việt Nam
Lý Toét biết đọc chữ quốc ngữ,
biết ít chữ nôm, chữ nho, nhưng lại hoàn toàn không hiểu tiếng Pháp, nên có nhiều
phen nhầm chữ nọ sang chữ kia. Vì nghèo nên Lý Toét tham ăn, lại nghiện rượu,
tính ích kỷ, chỉ muốn mình được phần to, thêm nữa, không hiểu gì về vệ sinh, ăn
ở dơ bẩn...
Lý Toét rất mê tín, thờ đủ mọi
loại thần thánh, từ con cóc sành trên bể nước ngoài vườn hoa, đến con hổ sống
trong chuồng Vườn Bách thú Hà Nội. Vì cả đời sống ở thôn quê nên mỗi khi ra tỉnh
Lý Toét thấy hoàn toàn khó hiểu khi nhìn những thứ văn minh ngoài phố, chẳng hạn
như thấy vòi nước công cộng ông nghĩ bụng: Quái! bia ai mà lạ vậy!
LÝ TOÉT RA TỈNH
Lý Toét nghĩ: Quái! bia ai
mà lạ vậy!!
Báo Xuân Phong Hóa, số 85,
cho biết vợ con Lý Toét ở quê rất lếch thếch nhưng lại có một cô con gái lớn
tên là Ba Vành, cô này xưa bỏ nhà ra đi, rồi lấy Tây. Thỉnh thoảng cụ Lý có xuống
vùng mỏ thăm con gái. Họa sĩ Kỳ Nam vẽ bức tranh Lý Toét bị phạt 3 tháng tù vì
tội gửi thư bằng con tem đã đóng dấu, Lý Toét ngây thơ, tự biện hộ trước tòa:
“Bẩm ngài xét xử cho chứ lần nào con nhận được thư của cái Ba Vành gửi về là cũng
thấy tem có đóng dấu!”.
Năm 1930, trên báo Tứ Dân, lần
đầu tiên xuất hiện một nhân vật có tên Lý Toét do Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu) giới
thiệu nhưng phải đợi đến Phong Hóa hình tượng của nhân vật này mới có mặt trên
báo qua nét vẽ của họa sĩ Đông Sơn (Nguyễn Tường Tam). Ngay từ số báo Phong Hóa
số 14, Lý Toét đã xuất hiện trong bức tranh chuyến xe ra tỉnh, Nhất Linh để ông
ngồi trên mui xe giữa một rừng người và súc vật.
Lý Toét xuất hiện lần đàu
tiên trên báo Phong Hóa, Số 14
Cho tới nay, có người bảo họa
sĩ Nguyễn Gia Trí đã sinh ra Lý Toét vì căn cứ vào bút hiệu viết tắt Gtri trên
một số tranh vẽ. Rồi sau đó, ai vẽ cũng được, dù là họa sĩ hay người yêu hội họa,
miễn là bức tranh có ý nghĩa Phong Hóa và Ngày Nay đều đăng. Người đó có thể là
Đông Sơn (tức nhà văn Nhất Linh), hay Tô Tử hoặc Ái Mỹ (họa sĩ Tô Ngọc Vân), hoặc
Lemur (họa sĩ Nguyễn Cát Tường, người vẽ kiểu áo dài tân thời Lemur).
Cha đẻ của Xã Xệ lại là họa
sĩ Bút Sơn, từ Saigon gửi tranh vẽ ra Hà Nội. Bút Sơn tạo ra Xã Xệ để làm “đối
trọng” với Lý Toét, cũng tương tự như việc ký tên Bút Sơn để nhái tên của Đông
Sơn (Nguyễn Tường Tam).
Cho đến lúc lìa đời, Nhất
Linh vẫn chưa biết tên thật của Bút Sơn. Trên tờ di cảo Đời làm báo ghi tất cả
tên và bút hiệu các cộng sự viên, trong cũng như ngoài Tự Lực Văn đoàn, Nhất
Linh viết: “Bút Sơn ở Saigon (Người đẻ ra Xã Xệ), tên thật chưa biết. Xin ông
Bút Sơn (nếu ông còn sống) hoặc các bạn, cho biết tên thật”.
Xã Xệ & Lý Toét
Nhà báo kiêm nhà thơ trào
phúng Tú Kềnh, viết trên báo Bình Minh (Xuân Mậu Thân 1968 xuất bản ở Saigon)
như sau: “…Vào năm 1936 báo Phong Hóa, nhóm Tự Lực Văn Ðoàn, ở Hà Nội, có tổ chức
cuộc thi vẽ tranh hài hước, họa sĩ chuyên vẽ tranh hài hước Bút Sơn Lê Minh Ðức
ở Saigòn vẽ một bức tranh gửi ra Bắc dự thi”.
Lần đầu tiên Xã Xệ xuất hiện
trong tranh ký tên Bút Sơn là ngày 16/3/1934, trên Phong Hóa số 89. Xã Xệ đã được
đón tiếp thật nồng hậu, Xã cùng Lý lên ngay trang bìa của báo qua bức hí họa về
Lý Toét và Xã Xệ. Số là ngày xưa mỗi lần cân phải mất 1 xu, hai cụ chỉ có 1 xu
mà muốn được cân cả hai nên Lý Toét nảy sinh ra “sáng kiến”: cùng leo lên một lần
rồi chia đôi trọng lượng!
Xã Xệ: Bác Toét, chúng mình
có 1 xu làm sao cân được hai đứa?
Lý Toét: Thế này thì nhất cử
lưỡng tiện, cân luôn một lần hai đứa rồi chia hai ra thì cũng được chứ lị.
Tháng 6/1935, báo Phong hóa
bị nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa ba tháng vì loạt bài Đi xem mũ cánh chuồn
châm biếm Tổng đốc Hà Đông Hoàng Trọng Phu thuộc triều đình Huế. Sau đó ra tiếp
được hơn một năm, thì bị đóng cửa vĩnh viễn (số cuối 190 ra ngày 5/6/1936) cũng
vì tội… “chế nhạo” ngay cả chính phủ bảo hộ. Hí họa Mẫu quốc (Nước mẹ) là một
thí dụ điển hình về tính châm biếm của Phong Hóa đã đụng chạm đến chính quyền bảo
hộ. Bức tranh có đối thoại như sau:
LÝ TOÉT - Này bác, Ủy ban điều
tra sắp làm xong công việc rồi đấy. Chắc sẽ có kết quả tốt.
BA ẾCH - Ồ, trông mong… nước
mẹ gì!
Sau khi Phong Hóa bị đóng cửa,
tuần báo Ngày nay trước ra kèm với tờ Phong hóa được tục bản để tiếp tục công
cuộc đang dở dang (số cuối 224 ra ngày 7 tháng 9 năm 1940). Tờ Ngày nay do Nguyễn
Tường Cẩm (anh của Nhất Linh) điều khiển lại nhanh chóng ra đời.
Phong Hóa cũng như Ngày Nay,
tờ nào cũng đông độc giả khiến cho thực dân Pháp lo sợ trước tầm ảnh hưởng ngày
càng lan rộng của Tự Lực Văn đoàn. Đến năm 1939, người Pháp ra lệnh cho đóng cửa
nốt tờ báo Ngày nay, chấm dứt một thời kỳ báo chí châm biếm kéo dài 7 năm tại
miền Bắc, từ 1932 đến 1939.
Bìa báo Ngày Nay
Để việc làm báo Phong Hóa được
thuận lợi hơn, Nguyễn Tường Tam cùng với các cộng sự quyết định thành lập một
bút nhóm lấy tên là Tự Lực Văn đoàn. Một thành viên ban đầu của bút nhóm là nhà
thơ Tú Mỡ kể lại:
“...Tất cả những gì dự định
cho báo ‘Tiếng cười’, anh Tam dồn cả cho báo Phong Hóa mới... Báo làm ăn phát đạt,
và mặc dù anh em làm việc quên mình, không vụ lợi, nhưng anh Tam vẫn phải chạy
tiền khá chật vật để mỗi tuần kịp trả đủ cho nhà in và tiền mua giấy...
Cuối năm đó (1932), tính sổ
mới ngã ngữa ra: lời lãi chia theo số vốn, phần lớn chui vào két của nhà tư sản...
Anh Tam bèn họp bàn với anh em, và đồng ý với nhau rằng: Không thể chơi với nhà
tư sản được. Quyết định thành lập ‘Tự lực văn đoàn’ trên nguyên tắc làm ăn dựa vào sức mình, theo
tinh thần anh em một nhà; tổ chức không quá 10 người nên không phải xin phép
Nhà nước; không cần có văn bản điều lệ: lấy lòng tin nhau làm cốt, chỉ nêu ra
trong nội bộ mục đích tôn chỉ, anh em tự giác tuân theo...”.
Tự Lực Văn đoàn chính thức
tuyên bố thành lập vào ngày 2/3/1934. Đây là một tổ chức văn học đầu tiên của
Việt Nam mang đầy đủ tính chất một hội đoàn sáng tác theo nghĩa hiện đại. Có thể
nói, Tự Lực Văn đoàn là một tổ chức văn học đầu tiên trong lịch sử văn chương của
dân tộc Việt do tư nhân chủ xướng, không dính líu đến vua quan, thân hào như
các thi xã kiểu cũ như Tao đàn Nhị thập bát Tú, Tao đàn Chiêu Anh Các, Mặc Vân
thi xã và cũng không phát ngôn cho tiếng nói của quyền lực như các nhóm Đông Dương
Tạp chí, Nam Phong Tạp chí. Dưới đây là tuyên ngôn của văn đoàn:
Tự lực văn đoàn họp những
người đồng chí trong văn giới; người trong đoàn đối với nhau cốt có liên lạc về
tinh thần, cùng nhau theo đuổi một tôn chỉ, hết sứ giúp nhau để đạt được mục
đích chung, hết sức che chở nhau trong những công cuộc có tính cách văn chương.
Người trong Văn đoàn có quyền
để dưới tên mình chữ Tự Lực Văn đoàn và bao nhiêu tác phẩm của mình đều được
Văn đoàn nhận và đặt dấu hiệu.
Những sách của người ngoài,
hoặc đã xuất bản, hoặc còn bản thảo, gửi đến Văn đoàn xét, nếu hai phần ba người
trong Văn đoàn có mặt ở Hội đồng xét là có giá trị và hợp với tôn chỉ thì sẽ nhận
đặt dấu hiệu của Đoàn và sẽ tùy sứ cổ động giúp. Tự Lực Văn đoàn không phải là
một hội buôn xuất bản sách.
Sau này nếu có thể được, Văn
đoàn sẽ đặt giải thưởng gọi là giải thưởng Tự Lực Văn đoàn để thưởng những tác
phẩm có giá trị và hợp với tôn chỉ của Đoàn.
***
Chú thích:
[*] Nguyễn Tường Tam (1906 -
1963) là một nhà văn, nhà báo với bút danh Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng
Du, Tân Việt, Đông Sơn... Ông là người thành lập Tự Lực Văn đoàn và là cây bút
chính của nhóm, và từng là Chủ bút tờ tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Về sau, ông
còn là người sáng lập Đại Việt Dân chính Đảng, từng làm bí thư trưởng của Việt
Nam Quốc dân Đảng và giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp
Kháng chiến.
Năm 1924, ông theo học ngành
Y và Mỹ Thuật, nhưng chỉ một năm rồi bỏ học. Năm 1926, Nguyễn Tường Tam vào
Nam, gặp Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di định cùng làm báo. Nhưng vì tham dự đám
tang Phan Chu Trinh nên hai người này bị bắt, Nguyễn Tường Tam phải trốn sang
Cao Miên, sống bằng nghề vẽ và tìm đường đi du học.
Năm 1927, Nguyễn Tường Tam
sang Pháp du học. Năm 1930, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hóa)
và trở về nước trong năm đó. Năm 1932, ông mua lại tờ tuần báo Phong Hóa của Phạm
Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai, và trở thành Giám đốc kể từ số 14 với chủ trương
dùng tiếng cười trào phúng để đả kích các hủ tục phong kiến, hô hào Âu hóa, đề
cao chủ nghĩa cá nhân.
Năm 1936, trên báo Ngày Nay,
Nguyễn Tường Tam cùng nhóm Tự Lực Văn đoàn phát động phong trào Ánh Sáng, một tổ
chức từ thiện với mục đích cải tạo nếp sống ở thôn quê, trong đó có việc làm
nhà hợp vệ sinh cho dân nghèo. Năm 1938, ông thành lập đảng Hưng Việt, rồi đổi
tên là đảng Đại Việt Dân.
Năm 1940, Hoàng Đạo, Khái
Hưng, Nguyễn Gia Trí bị người Pháp bắt và đày lên Sơn La, đến năm 1943 mới được
thả. Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ
Ngày Nay.
Năm 1942, Nhất Linh chạy
sang Quảng Châu, Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh lao và Đại Việt Dân chính Đảng
thì đã gần như tan rã. Nguyễn Tường Tam hoạt động trong Việt Nam Cách mạng Đồng
minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng. Tháng
3/1944, tại Liễu Châu, Nguyễn Tường Tam được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp
hành Trung ương Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, tức Việt Cách.
Khi quân Tưởng Giới Thạch
vào Việt Nam đầu năm 1946 Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, tổ chức hoạt động đối
lập với chính quyền Việt Minh, xuất bản báo Việt Nam. Tháng 3/1946, sau khi đàm
phán với chính phủ, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp
Kháng chiến.
Năm 1953, Nguyễn Tường Tam
lên sống tại Đà Lạt. Năm 1958 về Sài Gòn, ông xuất bản giai phẩm Văn Hóa Ngày
Nay, phát hành được 11 số thì bị đình bản. Năm 1960 ông về Sài Gòn thành lập Mặt
trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và
Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm
giam lỏng tại nhà riêng.
Cuối cùng, ông bị chính phủ
Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8/7/1963. Đêm 7/7, tại nhà riêng, nghe tin sẽ
bị đưa ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc quyên sinh để phản đối
chính quyền độc tài của Ngô Đình Diệm, để lại phát biểu nổi tiếng:
“Đời tôi để lịch sử xử. Tôi
không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập
là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Vì thế tôi tự hủy mình cũng
như Hòa thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu là để cảnh cáo những ai chà đạp mọi
thứ tự do.”
Đám tang Nguyễn Tường Tam
Tác phẩm của Nhất Linh Nguyễn
Tường Tam:
Tiểu thuyết
Gánh hàng hoa (cùng Khái
Hưng, 1934)
Đời mưa gió (cùng Khái Hưng,
1934)
Nắng thu (1934)
Đoạn tuyệt (1934-1935)
Lạnh lùng (1935-1936)
Đôi bạn (1936-1937)
Bướm trắng (1938-1939)
Xóm cầu mới (1949-1957, viết
dở dang)
Giòng sông Thanh Thủy
(1960-1961). Tác phẩm cuối cùng, gồm ba tập:
Ba người bộ hành
Chi bộ hai người
Vọng quốc
Tập truyện
Nho phong (1924)
Người quay tơ (1926)
Anh phải sống (cùng Khái
Hưng, 1932 - 1933)
Đi Tây (1935)
Hai buổi chiều vàng
(1934-1937)
Thế rồi một buổi chiều
(1934-1937)
Thương chồng (1961)
Tiểu luận
Viết và đọc tiểu thuyết
(1952-1961)
Dịch phẩm
Đỉnh gió hú của Emily Bronte
(đăng báo 1960, xuất bản 1974)
Mặc dầu thời gian theo học
Trường Mỹ thuật không lâu, Nhất Linh cũng đã để lại một số tranh vẽ trong đó có
bức Scène de Marché de rue Indochinois (Cảnh Phố Chợ Đông Dương) vẽ trên lụa thực
hiện khoảng 1926-1929. Bức tranh này năm 2010 được hãng Sotheby's bán đấu giá ở
Hương Cảng với giá 596.000 đô-la Hồng Kông, tương đương với 75.000 Mỹ kim.
No comments:
Post a Comment