Góp nhặt buồn vui thời điêu linh (7/7)
Tù cải tạo
Người miền Nam có câu nói ám
chỉ một sự việc xa vời, vô định, vô vọng và chìm sâu vào tuyệt vọng: “Mút chỉ
cà tha”.
Những tưởng học tập cải tạo
10 ngày để rồi trở về với cuộc sống bình thường hàng ngày, ai ngờ đã qua 10
ngày mà vẫn thấy chưa học tập được một chữ nào! Thế cho nên chúng tôi bảo nhau:
“Kiểu này học tập... mút chỉ cà tha!”
Sau này tình cờ đọc Cánh đồng
bất tận của Nguyễn Ngọc Tư (một nhà văn nữ ở miền cực Nam đất nước) tôi mới biết
Mút Cà Tha là một địa danh có thật, ở tận miệt Cà Mau, nơi có những tên đượm sắc
Nam bộ như Đầm Chim, Đầm Dơi, Chắc Băng, Cạnh Đền, Gành Hào, Năm Căn, U Minh,
Trèm Trẹm và… Mút Cà Tha! Có lẽ cù lao Mút Cà Tha hàm ý nơi tận cùng của miền cực
nam đất nước nên mới có thành ngữ “mút chỉ cà tha”, đi hoài không tới! Đối với
người cải tạo cũng vậy, học hoài không về!
Sau buổi sáng ngày
30/4/1975, cuộc đời tôi hoàn toàn thay đổi. Đang từ một anh Trung úy giảng viên
Anh ngữ, ngày ngày lái chiếc Honda SS50 đến trường Sinh ngữ Quân đội, tôi bỗng
trở thành một người thất nghiệp với một tương lai vô định trước mắt. Nhưng thất
nghiệp cũng không quan trọng bằng trạng thái tâm hồn bất ổn, lo sợ, không biết
mai sau mình sẽ ra sao trước một ngã rẽ lịch sử: sự sụp đổ hoàn toàn, từ những
mảnh đời riêng tư cho đến cả một vận nước.
Cảnh điêu tàn trong ngày cuối
cùng 30/4/1975
Đối với người bị tập trung học
tập cải tạo, có lẽ đây là thời kỳ u ám nhất trong cuộc đời. Không u ám sao được
khi trước 1975, chúng tôi là những thanh niên tràn đầy sức sống, theo đuổi những
mục đích và tham vọng riêng tư của tuổi trẻ nay bỗng trở thành những người sống
trong trại tập trung. Chúng tôi sống trong thân phận tù đầy nhưng chính quyền mới
đã luôn luôn khẳng định, đây không phải là nhà tù mà đây là nơi học tập cải tạo.
Ngày tàn cuộc chiến
(Ảnh do phóng viên Đại Hàn
chụp)
Những người tù bình thường –
dù có phạm tội cướp của, giết người – cũng có bản án để biết ngày được tự do.
Ngược lại, những người cải tạo không bao giờ có được bản án để trông mong ngày
về. Thay vào đó là châm ngôn được cán bộ quản giáo lập đi, lập lại: “Học tập tốt,
lao động tốt, các anh sẽ được về sum họp với gia đình”. Có điều, tiêu chuẩn để
đạt được những cái tốt đó chỉ lơ lửng ở phía trước, tựa như củ cà rốt treo trước
mắt con thỏ trong một cuộc chạy đua dường như không bao giờ đến đích.
Ngày đi học tập, sĩ quan cấp
úy và nhân viên ‘ngụy quyền’ đều tin tưởng chỉ kéo dài 10 ngày theo tinh thần
thông báo của Ủy ban Quân quản: “… Đem lương khô đủ dùng trong thời gian 10
ngày…”. Trước đó, hạ sĩ quan chỉ học tập đúng 3 ngày theo lệnh của Ủy ban Quân
quản và dĩ nhiên 10 ngày dành cho sĩ quan là cái giá hợp lý nhất phải trả trước
khi trở về với cuộc sống bình thường.
"Thẻ trình diện" cấp
cho hạ sĩ quan & binh sĩ sau khi học tập 3 ngày
Bác sĩ Nguyễn Phước Đại,
Giám đốc Bệnh viện Sài Gòn trước năm 1975, có liên quan đến một giai thoại khá
dí dỏm mà tôi nghe được qua bà xã, vốn là nhân viên của bệnh viện. Ông Đại là một
bác sĩ giỏi, người gốc miền Nam, nhưng lại là dân ở Pháp về nên khi nghe thông
báo đem ‘lương khô’ đủ dùng trong 10 ngày, ông hỏi lại nhân viên: “Tôi không ăn
được ‘lươn khô’, đem những thứ khô khác như cá khô không biết có được không nhỉ?”.
Tuy đầu óc đang căng thẳng vì lo cho chồng con nhưng đám nhân viên không khỏi
phì cười vì sự nhầm lẫn giữa ‘lương khô’ và ‘lươn khô’ của ông bác sĩ từ bên
Tây về.
Trình diện ngày 30/4/1975
Ngày bước lên xe Molotova để
đến Trảng Lớn (Tây Ninh), tôi thoáng nghe hai anh cán binh ‘áp tải’ nói chuyện
với nhau:
- Mấy anh ngụy này rắc rối
quá, đã đi cải tạo mà còn mang vợ theo nữa!
Số là có mấy sĩ quan nữ quân
nhân cũng trình diện nên bị hai anh cán binh trẻ tuổi hiểu lầm là vợ của người
đi học tập. Lòng lúc đó đang chùng xuống nhưng khi nghe câu chuyện của kẻ cầm
AK đi áp tải lại thấy buồn cười vì những sự ngộ nhận ngây thơ của những kẻ chiến
thắng.
Tiếng là học tập nhưng chỉ
có vài bài, học hoài mà vẫn chưa về! Các bài giảng của cán bộ quản giáo được
truyền tải trên hội trường, có sức chứa hàng trăm… học trò. Đại khái như trong
bài “Đế quốc Mỹ là kẻ thù của dân tộc”, quản giáo lên lớp: “Mỹ là nước tư bản
bóc lột… ngay đến tổng thống của Mỹ là Pho [Gerald Ford] cũng là trùm tư bản có
công ty ô tô nổi tiếng là… hãng xe Pho
(!)”.
Cán bộ quản giáo lên lớp
Nhìn chung, người cải tạo là
những kẻ… lạc quan tếu. Khi ăn hết 10 ngày lương khô mà vẫn chưa thấy được về,
người ta lại trông mong đến ngày Quốc khánh 2/9 chắc sẽ về. Lại mong đến Tết sẽ
về nhưng có lẽ là… Tết Congo chứ không phải là Tết của ta. Đến khi đó, mọi lạc
quan đều tắt ngấm để thay vào đó là ảo vọng “Học tập tốt, lao động tốt sẽ được
về…”.
Chúng tôi đón cái Tết đầu
tiên trong tù mà nhiều người vẫn còn lạc quan khi nghĩ rằng đó là cái Tết duy
nhất phải xa gia đình! Trước Tết có một biến cố lớn trong trại mà nhiều người lạc
quan, vẫn còn lạc quan, nghĩ rằng có một số người may mắn được về sum họp với
gia đình nhân ngày Tết.
Những người cải tạo được lệnh
tập họp với tất cả đồ dùng cá nhân. Một thoáng ‘hồ hởi’ khi nghĩ rằng đã đến
lúc… xả trại. Chúng tôi được chia thành hai nhóm theo danh sách đã có từ trước.
Người nhóm nào cũng tự hỏi không biết nhóm của mình có phải là nhóm được về ăn
Tết hay không.
Tôi thuộc nhóm ở lại Trảng Lớn.
Nhóm rời trại, mãi sau này mới biết, họ lên xe trực chỉ Sài Gòn nhưng đó không
phải là điểm đến cuối cùng. Họ được đưa đến bến tàu để tiếp tục cuộc hành trình
ra đảo Phú Quốc! Hóa ra họ là những thành phần được xếp vào loại ‘ác ôn, có nợ
máu với nhân dân’. Họ là những ‘thiên thần mũ đỏ’ (Nhảy dù), ‘lính thủy đánh bộ’
(Thủy quân lục chiến), ‘cọp 3 đầu rằn’ (Biệt động quân), ‘giặc lái’ (Phi công),
‘giặc nói’ (Chiến tranh chính trị)…
Khi người Sài Gòn được bắt đầu
thăm nuôi thân nhân tại trại cải tạo Trảng Lớn thì mọi hy vọng được về đều tan
biến. Tôi đã có lần hỏi chuyện một ông cụ già đi thăm con về tình hình… ngoài đời.
Qua lớp hàng rào kẽm gai ngăn cách giữ khu dành cho người cải tạo và con đường
dẫn vào khu thăm nuôi, tôi hỏi vói:
- Bác ơi, Sài
Gòn bây giờ ra sao hả bác?
- Sài Gòn bây giờ mấy tiệm
bán mắt kính dẹp hết rồi… người nào người nấy sáng mắt lắm, đâu cần mang kính nữa
cháu à…
Thật ý nhị. Câu chuyện thuộc
loại ‘khôi hài đen’ ngắn gọn của ông cụ đã nói lên tất cả.
Sau bao thời điểm hy vọng
ngày về, chúng tôi tập làm quen với ý tưởng “an tâm cải tạo”. Trước mắt, trại
ra lệnh ‘cuốc đất trồng rau’ (nói theo cán bộ quản giáo là tăng gia sản xuất)
trên những khu đất hoang xung quanh trại. Phải đến giai đoạn này mới thấy được
‘óc sáng tạo’ của các bạn đồng cảnh. Không có cuốc xẻng nhưng mọi người nghĩ
ngay đến việc chế tác các dụng cụ nông nghiệp từ những đồ phế thải trong nhà
kho của căn cứ Trảng Lớn.
Rau muống gieo bằng hột, trồng
trên đất khô và được chăm sóc rất kỹ nên mọc cao như cây thân thảo, cao đến cả
thước chứ không như rau muống mọc ngoài ruộng. Rau muống tốt một phần nhờ nước
tiểu và phân xanh do chính chúng tôi sản xuất. Như vậy là đã hoàn thành một chu
trình khép kín: ăn vào, thải ra, bón cây rồi lại tiếp tục ăn vào…
Trảng Lớn ngày xưa có một sân
bay dã chiến L19 được lót bằng những tấm vỉ sắt. Chúng tôi gỡ những tấm PSB, mỗi
tấm rất nặng, phải cần đến ít nhất 6 người khiêng mới có thể đem về trại dùng
trong rất nhiều việc: lót quanh giếng để tắm rửa, làm phản để ngủ, thậm chí còn
dùng để lót cầu tiêu tập thể trong đội.
May mắn cho những người cải
tạo tại Trảng Lớn là chúng tôi được thừa hưởng và tận dụng những ‘tiện nghi tàn
dư’ của quân đội VNCH còn rất nhiều trong căn cứ sư đoàn 25. Từ những mảnh tôn
người ta có thể gò thành gàu múc nước, nồi nấu ăn… Từ những sợi bao cát người
ta có thể xe thành sợi dây thừng để làm giây kéo gầu múc nước từ giếng lên. Nếu
khéo tay hơn, những bao cát có thể được biến thành những chiếc áo khoác rất… thời
trang!
Mỗi lần được ra phi trường
L19 ‘lao động’ chúng tôi cũng không quên săn nhặt những mảnh nhôm còn sót lại
trên xác trực thăng để tha về đội. Vào những ngày cuối tuần, nghỉ lao động, là
những giờ phút lao động ‘tự biên, tự diễn’. Chỗ này làm lược, chỗ kia làm vòng.
Những vật dụng đó không xuất phát từ nhu cầu hàng ngày trong trại cải tạo mà lại
là những kỷ vật dành cho người thân để kỷ niệm một thời cải tạo.
Chiếc vòng được chế biến từ
vỏ đạn
Chỉ cần trong đội có một người
giỏi nghề sẽ hướng dẫn cho những người còn lại cách ‘xủi’ những hoa văn trên
chiếc lược hoặc chiếc vòng nhôm là có một vật kỷ niệm từ trại cải tạo… Bạn cũng
có thể học nghề ‘gò’ những tấm tôn cũ thành nồi nấu ăn, thùng đựng nước hoặc
gàu múc nước. Rất nhiều thứ có thể học trong trại cải tạo, trừ một thứ là các
bài học chính trị…
Cho tới giờ này tôi còn giữ
được hai kỷ vật từ trại cải tạo: chiếc vòng đeo tay và chiếc lược bằng nhôm.
Trên chiếc vòng tôi ‘xủi’ tên hai vợ chồng và 4 đứa con, trên chiếc lược là
hình hoa văn với hai chữ CG. Vòng và lược hiện nay 2 đứa cháu ngoại ‘xí’ phần,
chúng gọi đó là những kỷ vật ‘may mắn’ được ông ngoại đem về từ trại cải tạo. Vật
may mắn đó nay đã truyền sang thế hệ thứ ba để nhắc lại thời kỳ đau khổ trong một
giai đoạn lịch sử của đất nước.
Chiếc lược nhôm với những
nét ‘xủi’ học được trong trại cải tạo
Tôi đã học viết chữ Hán từ một
anh bạn người Việt gốc Hoa. Giấy viết là bất kỳ một mảnh nào có thể dùng như giấy
hoặc dùng que tập viết lên mền đất, thứ bảng viết vô tận mà thiên nhiên đã ưu
ái dành cho những kẻ hiếu học từ ngàn xưa. Nếu viết trên giấy bằng que thì mực
là thuốc đỏ pha loãng, trông không kém gì mực Tàu.
Tôi cũng dành thì giờ để dậy
Anh văn cho những người muốn học. Không có giáo trình nên cứ dậy tùy theo hứng
của thầy nhưng vẫn đủ các môn như từ vựng, ngữ pháp và cả đàm thoại. Hai năm rưỡi
trong trại cải tạo và 9 tháng trong ‘lò bát quái’ Chí Hòa tôi có rất nhiều học
trò, giờ thì một số đã định cư tại nước ngoài, trình độ tiếng Anh của họ chắc
đã qua mặt thầy…
***
Thời gian cải tạo là một cực
hình đối với những kẻ ghiền thuốc. Đã có những cảnh ‘bắt dế’ khi mới bước vào
những ngày đầu cải tạo. Khi thuốc mang theo đủ hút cho 10 ngày cạn dần mà vẫn
chưa thấy ngày về, kẻ hết thuốc bắt đầu khi tìm ‘dế’ là những mẩu thuốc cuối
người ta thường vất đi.
‘Bắt dế’ tức là đi gom mẩu
thuốc bỏ đi, gỡ phần sợi thuốc còn sót lại để quấn thành một điếu mới. Phần còn
sót lại luôn luôn chứa nhiều nicotine nhất và cũng là phần nguy hiểm cho sức khỏe
nhất nhưng lúc ghiền thì đâu xá gì ung thư phổi.
Khi không còn dế để bắt, người
ta lấy lá khoai mì xắt mỏng như sợi thuốc, xin một tý nước đen ngòm trong ống
điếu thuốc lào trộn vào với lá khoai mì sẽ có một thứ sản phẩm trông giống y
như sợi thuốc lá. Hút lá khoai mì sẽ bị ho nhưng lúc đã quen rồi thì những cơn
ho sù sụ cũng biến mất…
Tôi cũng là người nghiện thuốc
nhưng chưa bao giờ hút thuốc lào, có thể vì thành kiến với loại thuốc này nên
có lúc dù thèm thuốc lá nhưng chưa bao giờ thử ‘phê’ thuốc lào. Theo Đào Duy
Anh, cây thuốc lào có lẽ từ Lào (Ai Lao) du nhập vào Việt Nam nên mới có tên gọi
như thế. Sách Vân Đài loại ngữ của Lê Quý Đôn và Đồng Khánh dư địa chí gọi cây
thuốc lào là tương tư thảo, cỏ tương tư.
Hút thuốc lào phải dùng điếu
cầy là một ống tre, sang trọng hơn thì dùng điếu bát với một ống nhỏ bằng trúc
để hút khói được gọi là xe điếu. Trong cải tạo thì chỉ có loại điếu cầy làm từ ống
tre nhưng nhiều khi ‘vã’ quá, người ta có thể dùng lá chuối hoặc giấy cuộn lại,
miệng ngậm một ngụm nước là có thể ‘phê’ ngay. Phê đến độ có ‘anh nuôi’ ngồi
trước chảo nấu cơm, hút một ‘bi’ thuốc xong rồi cứ thế đâm đầu vào bếp lửa
trong cơn say thuốc.
Thầy đồ hút thuốc lào ngày
xưa
Trong cải tạo có anh đề cao
thuốc lào là “Thơm mồm, bổ phổi, diệt trùng lao!” hoặc nâng lên hàng ‘quan điểm’
“Hút thuốc lào nâng cao sĩ diện”. Người ta, dĩ nhiên là người miền Bắc, ca tụng
thuốc lào một cách cuồng nhiệt:
Thuốc lào chồng
hút vợ say
Thằng cu châm điếu lăn quay
ra nhà
Có cô hàng xóm đi qua
Hít phải hơi thuốc say ba bốn
ngày
Một thằng hút bốn thằng say
Hai thằng châm điếu ngã lăn
quay
Bà già vác củi loay hoay
Rít phải hơi thuốc lăn quay
xuống đồi
Ngọc hoàng thấy vậy hay hay
Vén mây nhìn xuống cũng say
thuốc lào.
Bà Hồ Xuân Hương có một bài
thơ ‘tả chân’ rất ‘sex’ như sau:
Mông tròn vành
vạnh, đít bảnh bao,
Mân mân, mó mó đút ngay vào
Thủy hỏa tương giao sôi sùng
sục
Âm dương nhị khí sướng làm
sao!
Mới đọc cứ tưởng như cảnh
làm tình của đôi trai gái nhưng thật ra bà tả cảnh… hút thuốc lào đấy! Trong trại
tù thì chiếc điếu cầy là hình ảnh quen thuộc lúc nào cũng đi sát với người cải
tạo như vũ khí bên mình, chẳng thế mà có nhiều anh ví von là đeo Bazôka!
Đến giai đoạn trại viên cải
tạo được đăng ký mua hàng ngoài chợ Long Hoa thì ‘thuốc rê’ là món ăn khách
không thua gì đường tán. Thuốc rê còn có tên gọi là ‘bốc lăn xe’, nghe có vẻ
Tây lắm nhưng kỳ thực ghép bởi các động tác bốc một dúm thuốc, lăn tròn trên giấy
và xe thành điếu thuốc! Nhà văn Hoàng Hải Thủy gọi thuốc rê thời này với một
cái tên thật buồn cười: “Bốc En Xe Ông Già Le Lưỡi Liếm”.
Hút thuốc rê có lợi là có thể
tiết kiệm thuốc nếu quấn theo kiểu ‘loa kèn’ tựa như các mệ ngoài Huế hút thuốc
cẩm lệ. Giấy cuốn thuốc rê có thể là báo cũ, mực in khi bị đốt cháy chắc sinh
nhiều phản ứng hóa học khiến người hút cứ bị ho triền miên.
Sướng nhất có lẽ là những
anh… không hút thuốc. Vào những ngày ‘nễ nớn’ ngoài việc được ‘ngã qua hàng thịt’,
cách mạng còn phát thuốc gói, ba bốn anh chia nhau một gói thuốc. Tôi nhớ hình
như thuốc Hoa Mai hay Đà Lạt gì đó. Vào thời đó, thuốc Tam Đảo, sản xuất tại miền
Bắc, được coi là… số một.
Đây là ‘thời cơ’ để những
anh không hút thuốc đổi thuốc lấy đường tán, thậm chí còn có anh đầu cơ thuốc
lá để một khi anh ghiền hết thuốc mới ra giá… cắt cổ! Đường tán là loại đường
màu vàng, có hình oval hoặc hình vuông được chế biến từ mía bằng phương pháp thủ
công. Công dụng của đường, dù là loại đường sơ chế, có tác dụng giúp cơ thể phục
hồi sau những giờ lao động cật lực. Có đi cải tạo mới thấy giá trị của cục đường
mà hồi xưa, lúc quá đầy đủ, người ta chưa bao giờ nghĩ tới.
Nói thêm về chuyện ‘ăn uống’
trong cải tạo. Những người có ‘tinh thần ăn uống’ thường gặp nhau trong những bữa
tiệc ‘hàm thụ’! Bạn tha hồ kể lại những món ngon, vật lạ mà trước đây đã từng
thưởng thức… Nào là món vịt quay Bắc Kinh béo ngậy với lớp da giòn tan… tô bún
bò với miếng giò heo ninh nhừ cay sặc mùi ớt… miếng phá lấu thơm lừng mùi húng
lìu… đĩa gỏi đu đủ, gan cháy chỉ mới nghĩ đến thôi mà sao nước miếng cứ tiết ra
ào ào…
Thời thế tạo anh hùng. Có
anh với bộ nhớ tốt, cứ tối đến là mọi người tụ tập để nghe anh kể chuyện. Toàn
truyện Kim Dung, từ Cô gái đồ long, Anh hùng xạ điêu cho đến Thiên long bát bộ,
Lộc đỉnh ký … Người nghe im phăng phắc để đầu óc có dịp phiêu lưu về một thế giới
hư ảo. Trả công cho người kể chuyện là cục đường tán, ly nước chùm bao… Hôm nào
người kể chuyện ‘khó ở’ hay chưa nhớ đủ tình tiết của truyện thì được thông
báo: Truyện từ Hồng Kông chưa qua kịp vì lỡ chuyến bay!
Có những đêm văn nghệ ‘bỏ
túi’. Những ‘giọng hát vàng’ (dĩ nhiên là hát nhạc vàng), được phụ họa bằng cây
guitar ‘cải tạo’ nhưng cũng đủ 6 giây lại còn có tay gõ muỗng giữ nhịp. Có những
anh trước đây là nhạc sĩ, nhạc công đã tận tình phục vụ anh em để quên đi những
thực tế phũ phàng trong chuỗi ngày cải tạo. Xin cám ơn các anh.
***
Từ Trảng Lớn, chúng tôi được
lệnh chuyển trại lên Đồng Ban. Lên Đồng Ban mới là lao động thật sự nhưng nói
chung mọi người đều ‘hồ hởi’ vì có lao động mới hy vọng ngày về. Trước tiên là
vào rừng đốn cây, chặt lá về làm lán trại rồi phá đất hoang trồng khoai mì. Tại
Đồng Ban vẫn còn dấu tích những căn nhà lá bỏ hoang của những người đi kinh tế
mới sống không nổi nên bỏ lại để về thành phố.
Cuộc đời chúng tôi hình như
gắn liền với trảng: hết Trảng Lớn rồi đến Trảng Táo. Ở Trảng Táo có đường xe lửa
chạy đến ga Gia Huynh. Những lúc đi lao động dọc theo đường rầy xe lửa, hành
khách trên tàu chợ, thường là các bà đi buôn, nên đôi khi họ ném xuống đường đồ
ăn, khi thì vài cục đường tán khi thì gói thuốc rê cho những người cải tạo. Thật
cảm động. Xe lửa chạy nhanh nên người cho và người nhận chẳng thấy mặt nhau, chỉ
đơn thuần là tình người giúp nhau trong hoàn cảnh… lá nát đùm lá rách.
Dù sao đi nữa, chúng tôi thấy
mình vẫn còn may mắn được sống trong sự đùm bọc ở miền Nam nếu so với những bạn
bè học tập tại miền Bắc. Họ chịu đựng nhiều gian khổ gấp trăm ngàn lần so với
chúng tôi và nhất là chịu sự lạnh nhạt của những người xung quanh. Vào thời điểm
đó, ảnh hưởng của tuyên truyền về Mỹ-Ngụy vẫn còn sâu đậm trong suy nghĩ của
người miền Bắc. Sự thật là như vậy và không có điều gì để chê trách họ.
"Bằng tốt nghiệp"
cải tạo
Tôi nghĩ, cuộc đời thăng trầm
tựa như chuyện Tái Ông Thất Mã. Rủi may, may rủi – họa phúc khôn lường. Hóa ra
đời chỉ là một chuỗi diễn biến đan xen lẫn nhau giữa buồn-vui, vinh-nhục, thắng-bại
tựa như những đợt sóng xô đuổi nhau vỗ vào bờ…
Chuyện xưa kể rằng có ông
lão họ Tái bị mất ngựa, hàng xóm thấy vậy đến chia buồn, ông lão đáp: “Mất ngựa
chưa chắc đã là chuyện buồn!’. Quả nhiên, ít lâu sau con ngựa bị mất trở về, lại
dẫn thêm ngựa con. Hàng xóm thấy vậy đến chia vui, ông lão lại đáp: “Được ngựa
chưa chắc là chuyện vui!”. Người con ham cưỡi ngựa mới nên bị té gãy chân, hàng
xóm lại đến chia buồn. Ông lão nói: “Chưa chắc té gãy chân là chuyện xui xẻo!”.
Quả nhiên, lúc đó làng bắt lính nhưng vì gãy chân nên đứa con ông lão họ Tái khỏi
phải đi lính…
Cuộc đời cũng giống như chuyện
ông già mất ngựa. Những người vượt biên trước khi được sung sướng đến bến bờ tự
do cũng đã phải trải qua quá nhiều gian nan, khổ ải… Những người ở lại có cuộc
sống cùng cực nhưng rồi tình hình thay đổi, họ cũng cố tìm trước mắt một tương
lai để hy vọng. Buồn-vui, may-rủi cứ thay nhau đến rồi đi.
Hàn Tín xưa kia là anh đánh
cá nghèo hèn đến độ phải lòn trôn gã bán thịt giữa chợ. Thế mà sau này lại là một
danh tướng trong thời Hán Sở tranh hùng, có công rất lớn trong việc giúp Lưu
Bang đánh bại Hạng Vũ lập nên nhà Hán kéo dài suốt 400 năm. Xét cho cùng, cuộc
đời ‘lên voi xuống chó’ của Hàn Tín bao gồm những nỗi nhục-vinh, họa-phúc khôn
lường của một anh đánh cá hạ cấp đến vai trò của một danh tướng với những chiến
thuật, chiến lược dương đông kích tây, minh tu sạn đạo…
Cuộc đời vinh quang tột đỉnh
của một Hàn Tín, vị danh tướng bách chiến bách thắng, lại kết thúc bằng một cái
chết oan ức bởi chính tay Lưu Bang càng làm rõ thêm những tinh túy của truyện
Tái Ông Thất Mã.
Không có gì là tuyệt đối
trong cuộc đời này.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người,
Chương 5 – Thời cải tạo)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9
Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà
Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu
(Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên
(Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài
Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng
Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh
(Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những
chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước
vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút
ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp
một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống
lỗ)!
***
10 Comments on Multiply
uyenvan wrote on May 21, '11
Một giai đoạn buồn thảm nhất
cuộc đời! Với UV cũng vậy (dù k đi cải tạo nhưng là con một người lính!)
cuuphansinh wrote on May 21,
'11
"Trong ÂM có DƯƠNG
"! Những kinh nghiệm bi thảm nhất của kiếp người... mang lại cho ta những
bài học lớn lao!
nguoigiaonline wrote on May
21, '11
cuuphansinh said "Trong
ÂM có DƯƠNG "! Những kinh nghiệm bi thảm nhất của kiếp người...mang lại
cho ta những bài học lớn lao!”
Comment hay cho một entry
hay!
lstochung wrote on May 22,
'11
Nguyen Ngoc Chinh said
"Buồn-vui, may-rủi cứ thay nhau đến rồi đi."
Đúng như vậy đó anh. Cuộc đời
là vô thường mà.
songhong wrote on May 22,
'11
Con Tạo xoay vần là thế.
Loài người là cọng cỏ mới trường tồn theo tháng năm.
penseedl wrote on May 23,
'11
nguyenngocchinh said “Mút chỉ
cà tha”.
Hay còn nói "Mút mùa lệ
thủy" nữa!.
giahien wrote on May 25, '11
Anh viết hay quá. Bài viết
có thể giúp thế hệ trẻ về sau này hiểu hơn về một khoảng thời gian, một chính
sách trị dân của chủ nghĩa CS và cũng để có dịp nghiền ngẫm thêm một chút về
thăng trầm của đời người.
thahuong82 wrote on Sep 21,
'11
Đọc lại thấy buồn vui lẩn lộn,
thế là anh và tôi cũng là đồng môn học chung một "Đại Học Máu" mà mãi
36 năm mới biết. Tôi cũng từ trường dự bị Văn Khoa đường Trần Hòang Quân bây giờ
là Ng. Chí Thanh được đóng gói trong xe bịt bùng Molotova chở vào Trảng Lớn sau
đó cũng "hồ hởi phấn khởi" đi Đồng Bang, KàTum. Có một điều là bạn bè
tưởng tôi đã chết ở Trảng Lớn, số là vào đó vài tháng có một Trung Úy Pháo Binh
tên Ngô N. trốn trại bị bắt và đưa ra "tòa án cải tạo" (sic) cuối
cùng bị xử bắn, tôi vì trùng tên lại trùng binh chủng ..... Cuộc đời không sao
biết trước được.
nguyenngocchinh wrote on Sep
22, '11, edited on Sep 22, '11
thahuong82 said “Đọc lại thấy
buồn vui lẩn lộn thế là anh và tôi cũng là đồng môn học chung một "Đại Học
Máu" mà mãi 36 năm mới biết. Tôi cũng từ trường dự bị Văn Khoa đường Trần
Hòang Quân bây giờ là Ng. Chí Thanh được đóng gói trong xe bịt bùng Molotova chở
vào Trảng Lớn sau đó cũng "hồ hởi phấn khởi" đi Đồng Bang, KàTum. Có
một điều là bạn bè tưởng tôi đã chết ở Trảng Lớn, số là vào đó vài tháng có một
Trung
Úy Pháo Binh tên Ngô N. trốn
trại bị bắt và đưa ra "tòa án cải tạo" (sic) cuối cùng bị xữ bắn tôi
vì trùng tên lại trùng binh chủng”
Về Ngô Nghĩa, tôi có một
truyện ngắn "Năm tháng khó quên"
Các nhân vật trong truyện đều
đã đổi tên nhưng thực tế là nhóm bạn thân trong cải tạo, cái chết của Ngô Nghĩa
cũng được hư cấu nhưng dựa trên biến cố có thật tại Trảng Lớn.
thahuong82 wrote on Sep 22,
'11
Cám ơn, tôi sẽ xem "Năm
tháng khó quên". Hồi đó tôi ở TĐ 5, đội tôi lại gặp một tên quản giáo ác
ôn cứ xua mổi ngày 1 tổ đi nhổ cọc sắt để làm dụng cụ lao động trong bải mìn của
công binh gài phòng thủ, trớ trêu một anh tr.úy công binh tổ tôi bị đạp trúng
chỉ là mìn cóc nên chỉ bị mất 1/2 bàn chân, nhưng sau đó cứ cưa dần, cưa dần bằng
cái cưa thợ mộc vì không có thuốc men bị nhiểm trùng, lần cưa thứ 3 thì lên qúa
đầu gối, thật đau lòng khi phải nhìn cảnh "giải phẩu" của thời tiền sử...
nghĩ laị bây giờ tôi cũng còn rùng mình.....
No comments:
Post a Comment