Góp nhặt buồn vui thời điêu linh (4/7)
Bao cấp
Bắt ở trần phải
ở trần
Cho may-ô mới được phần
may-ô
Hai câu 'lẩy Kiều' vừa dẫn
là một trong những bức biếm họa xác thực nhất vẽ lại hình ảnh của thời bao cấp.
Đối với những người đã sống qua thời kỳ này, tưởng không cần phải giải thích loại
ca dao ‘tức cảnh sinh thời’ đại loại như trên. Tuy nhiên, đối với các thế hệ
sau, con cháu của chúng ta, không thể nào tưởng tượng được áo may-ô, một loại
áo lót dùng cho đàn ông, cũng thuộc một trong số hàng chục mặt hàng do nhà nước
sản xuất và cung cấp cho nhân dân. Vì thế mới gọi là… bao cấp.
Từ điển tiếng Việt xuất bản
trước thời bao cấp hoàn toàn không có mục từ Bao cấp. Phải đến Từ điển tiếng Việt
của tác giả Hoàng Phê (1), bao cấp mới được chính thức xuất hiện trên sách vở.
Từ điển giải thích: “Bao cấp là cấp phát phân phối, trả công bằng hiện vật và
tiền mà không tính toán hoặc không đòi hỏi hiệu quả kinh tế tương ứng”.
Đối với người dân bình thường,
đó là một định nghĩa rườm rà, khó hiểu với những từ ngữ ‘dao to búa lớn’. Người
dân chỉ cần hiểu một cách đơn giản: Bao cấp là tất cả đều do nhà nước đứng ra
bao hết, từ cây kim, sợi chỉ, que diêm cho đến lương thực hàng ngày…
Trên thực tế, thời bao cấp
kéo dài từ năm 1954 đến 1986 tại miền Bắc và từ năm 1975-1986 tại miền Nam.
Theo cách gọi của tôi, một người miền Nam, đó là thời kỳ điêu linh sau khi Sài
Gòn hoàn toàn sụp đổ.
Đường phố Hà Nội năm 1973
Tại miền Bắc, trước khi bước
vào thời kỳ bao cấp, Hà Nội đã sống trong ‘ảo giác no đủ’ của những ngày đầu tiếp
quản từ tay thực dân Pháp. Nhà văn Tô Hoài (2) kể lại trong hồi ký Cát bụi chân
ai:
“Chín năm ở rừng, không có
lương, quần áo phát theo mùa, xà phòng tắm và giặt cũng lấy ở kho từng miếng,
cơ quan sắm dao kéo húi đầu cho nhau. Trở lại thành phố, khó đâu chưa biết,
nhưng thức ăn hàng hóa ê hề. Chiều chiều, uống bia Đức chai lùn bên gốc liễu
nhà Thủy Tạ. Nhà hàng Phú Gia vang đỏ, vang hồng, vang trắng… vỏ còn dính rơm
như vừa lấy ở dưới hầm lên. Áo khoác da lông cừu Mông Cổ ấm rực, người ta mua về
phá ra làm đệm ghế. Hàng Trung quốc thôi thì thượng vàng hạ cám. Kim sào, kim
khâu, chỉ mầu, củ cải, ca la thầu, sắng xấu, mỳ chính, xe đạp cái xe trâu cao
ngồng. Ca xi-rô ngọt pha vào bia cho những người mới tập tọng uống bia. Bắt đầu
được lĩnh lương tháng. Không nhớ bao nhiêu, nhưng tối nào cũng la cà hàng quán
được. Có cảm tưởng cả loài người tiến bộ đổ của đến mừng Việt Nam Điện Biên Phủ”.
Cái cảm tưởng ‘cả loài người
tiến bộ ‘đổ của’ đến mừng Việt Nam Điện Biên Phủ’ chỉ là một giấc ngủ ngày, bất
ngờ thiếp đi trong khoảnh khắc để rồi bừng con mắt dậy với thực tế phũ phàng của
đêm đen. Hàng hóa nhiều như Tô Hoài liệt kê không phải do Hà Nội sản xuất mà vì
mới tiếp quản thành phố nên có sẵn trong kho của thực dân. Thế cho nên, nguồn
hàng không phải tự mình làm ra ấy cạn kiệt một cách nhanh chóng. Đó cũng là lý
do của sự khởi đầu một thời kỳ trì trệ kéo dài hơn 30 năm tại miền Bắc và hơn
10 năm tại miền Nam.
Cửa hàng mậu dịch thời bao cấp
Ngay từ năm 1955, công báo
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa tin: công nhân viên, trên nguyên tắc, mỗi năm
được cấp từ 5 đến 7 mét vải, khi sinh đẻ được cấp thêm 5 mét ‘diềm bâu’ khổ 7 tấc.
Bình quân cứ 10 người người dân đọc một tờ báo Nhân dân và Cứu quốc. Các quan
chức từ cấp Thường vụ Ban thường trực Quốc Hội, Bộ trưởng, Thứ trưởng, các
chuyên gia nước ngoài, các đoàn ngoại giao được hưởng tiêu chuẩn mua quạt điện.
Tất cả mọi hình thức kinh
doanh đều được quản lý theo ‘mô hình xã hội chủ nghĩa’, hoàn toàn do nhà nước nắm
giữ. Nhân viên làm việc trong các cơ quan hay người lao động trong các doanh
nghiệp quốc doanh sẽ chỉ được nhận một phần lương rất nhỏ bằng tiền mặt, số tiền
còn lại sẽ được quy ra tem phiếu, riêng gạo được mua bằng sổ.
Sổ đăng ký mua lương thực
Theo Kinh tế Việt Nam
1955-2000, nhà xuất bản Thống kê, so với năm 1978, mức lương năm 1980 chỉ bằng
51,1% và năm 1984 chỉ còn 32,7%. Một sự
tụt hậu đáng kể về giá-lương-tiền của thời bao cấp.
Về kinh tế, sách đã dẫn mô tả:
“Thời bao cấp không có thị trường tự do về buôn bán cũng như về trao đổi các mặt
hàng, cụ thể như lạc [đậu phụng] chỉ để lại vừa đủ làm giống cho vụ sau. Người
sản xuất không tiêu dùng là tốt, người trồng lạc không ăn lạc, không dùng lạc để
làm kẹo hay luộc để bán … Đối với nông sản dùng để chế biến thực phẩm cho nhân
dân thì nhà nước phải quản lý chặt chẽ trên thị trường, không để ai buôn bán kiếm
lời”.
Cái gì cũng có thể và cần phải
quản lý chặt chẽ. Tư tưởng chính làm nền tảng cho sự quản lý này đã biến cả xã
hội lẫn con người thành một thứ đất sét, muốn nhào nặn thế nào cũng được. Nhà
nước phân phối vài chục mặt hàng thiết yếu cho cuộc sống như gạo, thực phẩm, chất
đốt, vải vóc cho đến các tiêu chuẩn phân phối được mua bổ sung như xà phòng giặt,
giấy dầu, xi măng, khung, săm, lốp xe đạp…
Giấy chứng nhận sở hữu xe đạp
Mỗi hộ gia đình công nhân
viên được cấp 1 sổ mua gạo có số lượng hàng tháng tương đương với tiêu chuẩn của
các cá nhân từ 16 đến 21 kg mỗi tháng đối với người lớn, tùy theo mức độ lao động,
lao động nặng thì được hưởng nhiều gạo hơn. Cán bộ có chức tước thì phiếu gạo
ít vì lao động nhẹ hơn nhưng lại được cấp phiếu mua các mặt hàng thiết yếu nhiều
hơn.
Trẻ em ngày ấy được gọi là
‘hộ ăn theo’, căn cứ theo tiêu chuẩn của bố mẹ, sẽ được hưởng khoảng từ 10-14
kg/tháng. Để mua được gạo cũng là cả một vấn đề. Mỗi khu vực dân cư sẽ được quy
định mua gạo tại 1 cửa hàng lương thực, cửa hàng lại phân lịch bán cho từng tổ
theo lịch bán luân phiên. Hình ảnh thường thấy là người lớn, trẻ em đi xếp hàng
mua gạo từ 3, 4 giờ sáng để giữ chỗ, phòng khi cửa hàng bán nửa chừng hết gạo.
Người ta dùng những cục gạch, chiếc dép, mảnh gỗ để ‘xí chỗ’ khi cửa hàng chưa
mở cửa và người thật sẽ đứng vào hàng khi mở cửa.
Dù xếp hàng đầu nhưng cũng
không bảo đảm là sẽ được mua trước nếu có những sổ thuộc dạng ‘ưu tiên’ hoặc
‘chen ngang’ do có móc ngoặc với nhân viên thương nghiệp. Thời bao cấp người ta
chỉ nghĩ đến miếng ăn nên việc quản lý của nhà nước theo hộ khẩu và sổ gạo là
chính sách rất hữu hiệu. Thuật ngữ ‘buồn như mất sổ gạo’ xuất hiện trong thời kỳ
này: mất sổ gạo còn quan trọng hơn cả việc mất tiền vì có tiền cũng không mua
được gạo, dù là gạo đỏ, đầy thóc và sạn!
Chưa hết, gạo đỏ lại được
thường xuyên được thay thế bằng những loại lương thực khác như bột mì tồn kho
(viện trợ từ Liên Xô), sắn khô sắt lát, ngô (bắp), bo bo (hạt lúa mì) hay gạo tấm.
Tấm là thứ gạo nhỏ xíu bung ra từ những đầu khuyết của hạt gạo, ăn rất hay bị đầy
bụng và "tốn" vì gạo tấm nấu không nở, khi thành cơm thì 1 lon tấm chỉ
bằng 1/3 lon gạo thường!
Phiếu mua đường, loại 500
gam/tháng, năm 1979
Những câu vè dưới đây nói
lên giá trị của những mặt hàng trong thời bao cấp:
Nhất gạo nhì
rau
Tam dầu tứ muối
Thịt thì đuôi đuối
Cá biển mất mùa
Đậu phụ chua chua
Nước chấm nhạt thếch
Mì chính có đếch
Vải sợi chưa về
Săm lớp thiếu ghê
Cái gì cũng thiếu
Phiếu cung cấp thịt ‘cơ động’
(?) dành cho bộ đội
Mậu dịch viên bán thịt
Chế độ bao cấp ngoài việc
khiến người dân lúc nào cũng đói còn hủy hoại những giá trị đạo đức căn bản của
con người. Trong Cát bụi chân ai, Tô Hoài kể lại: “Ở một cửa hàng ăn rất sang hồi
ấy, những chiếc đĩa đựng bánh ngọt phải bắt vít xuống mặt bàn. Một sự thực nhiều
người tuổi tôi còn nhớ: các quán mậu dịch giải khát (kể cả cà phê) loại tầm tầm
cũng “thống nhất” đục một lỗ thủng các thìa nhôm để đánh dấu. Vì sao ư, đơn giản
lắm, vì sợ ăn cắp…”
Quả thật, trong xã hội bao cấp,
càng ngày nạn ăn cắp càng phổ biến, dù chỉ là ăn cắp vặt. Ăn cắp bởi quá thiếu
thốn và cũng bởi ăn cắp quá nhiều nên không bị coi là hành động xấu nữa. ‘Cái
khó không bó cái khôn’, nhưng chỉ là ‘khôn vặt’ theo kiểu ‘đói ăn vụng, túng
làm liều’:
Chính sách em
học đã thông
Chỉ vì túng thiếu xin ông ít
nhiều
Thời bao cấp, xã hội bị phân
hóa. Đó là điều nghịch lý trong xã hội chủ nghĩa vốn hướng đến một Thế giới Đại
đồng. Số liệu ghi trong cuốn Kinh tế Việt nam 1945-2000:
“Trong khi người dân thường
mỗi tháng chỉ được 150 gram thịt, thì cán bộ cao cấp được 6kg, tức là bốn chục
lần nhiều hơn. Và tính ra chênh lệch là 100 đồng. Ngoài ra còn thuốc lá, chè,
đường, sữa, len dạ, cũng tạo ra khoản chênh lệch khoảng 100 đồng nữa”.
Nhiệt tình cách mạng của cán
bộ thời kháng chiến ngày nào giờ chỉ xoay quanh vấn đề… ăn. ‘Ăn’ được hiểu theo
cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen, người ta ‘ăn’ theo nhiều kiểu, tùy vào cấp bậc, địa
vị:
Cán bộ cao
ăn cung cấp
Cán bộ thấp ăn chợ đen
Cán bộ quen ăn cổng hậu
Thời bao cấp, xe hơi ở Hà Nội
rất hiếm, nên chỉ cần nhìn một chiếc ‘xe con’ đi qua người ta biết ngay cán bộ
cấp nào ngồi trong đó. Xe Pobeda, và sau này là Vonga màu đen, dành cho cấp bộ trưởng trở lên. Các thứ trưởng và cấp
tương đương đi những chiếc nhỏ hơn, loại Moskovits. Có người ‘sành điệu’ còn quả
quyết: chỉ cần nhìn cách trang trí xe cũng có thể thấy được vai vế của người chủ.
Cán bộ cấp càng cao càng có
dịp đi công tác ở các nước Đông Âu và con cái họ, những ‘cậu ấm, cô chiêu’, được
đi lao động hoặc đi học tập bên Tây (hiểu theo nghĩa các nước XHCN Đông Âu). Đến
khi về nước họ rước về những mặt hàng của các nước anh em như Liên Xô thì có tủ
lạnh Saratov, xe Minsk, đồng hồ Pôljot, nồi áp suất… Đông Đức thì có xe máy
SimSon, xe đạp Dianond, Mifa; Tiệp Khắc có xe gắn máy Bebetta, xe đạp Favorit…
Tầng lớp ‘tinh hoa’ của chế độ tạo thành một nhóm đặc quyền, đặc lợi trong thời
kỳ bao cấp.
Một gia đình cán bộ thời bao
cấp
Bàn về con người và tư tưởng
thời bao cấp, Vương Trí Nhàn (3) phân tích: “Cái hèn mà ta vốn khinh ghét, cái
hèn đó ngấm ngầm ăn vào máu ta. Hèn theo nhiều nghĩa. Lúc nào cũng lo lắng, sợ
sệt. Và chỉ có những niềm vui tầm thường. Mua được cân gạo không bị mốc: vui.
Cưới cho con trai cô vợ làm ở cửa hàng lương thực nên cả họ mua bán dễ dàng:
quá vui. Đi bộ mấy cây để đến nghe nhờ đài [radio] ở một nhà bạn, cũng đã… vui
lắm. Vui đấy rồi thấy sự khốn khổ của mình ngay đấy, và ngày mai, lại vẫn tiếp
tục cái tầm thường dễ thương đó”.
Tôi trích đoạn văn trên qua
một bài viết nhan đề Nhân cuộc trưng bày về cuộc sống Hà Nội 1975-1986. Cuộc
trưng bày này được tổ chức tại Bảo tàng Dân tộc học, tập trung vào các tư liệu,
hiện vật của Hà Nội trong khoảng thời gian từ 1975-1986. Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam đứng ra tổ chức nhưng điều khá thú vị là được sự tài trợ của Chương
trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), Quỹ SIDA (Thụy Điển), Quỹ Ford (Hoa Kỳ).
Cuộc trưng bày sử dựng đồng
thời các hiện vật gốc do người dân hiến tặng, được kết hợp với việc tái tạo và
phục dựng một số bối cảnh của cuộc sống thời bao cấp. Trọng tâm của cuộc trưng
bày nói lên tiếng nói của cộng đồng thông qua những câu chuyện, những ký ức những
suy nghĩ, đánh giá của người dân về cuộc sống của mình trong thời kỳ ‘đêm trước’
Đổi mới.
Theo tôi, thiếu thốn về cái
ăn, cái mặc chỉ là phần nổi của tảng băng chìm, điều quan trọng hơn cả là không
gian sống của các gia đình. Ký ức của một
người ở Nam Định về thời bao cấp:
“Mẹ tôi phải tính đến chuyện
làm thêm, tăng gia sản xuất, cắt gốc rau muống, rau khoai trước ruộng muống
nuôi lợn, bóc lạc thuê cho Ngoại thương. Bốn mẹ con chỉ có một cái giường để ngủ.
Lạc chất trong nhà hàng bao cao đến nóc, lợn hai con ăn ở với người ngay dưới gầm
giường. Mỗi một trận mưa to, một trận bão, giấy dầu lợp mái, ngói vỡ bay tứ
tung ... bốn mẹ con và lợn ngồi ôm nhau, vài cái xô đặt để hứng nước, nước dưới
chân giường chảy qua như suối, cá rô đi hàng đàn, ba ba bò lổm ngổm. Mỗi một lần
như vậy chỉ thấy mẹ khóc và rồi cả ba anh em khóc theo. Lo lắng, sợ nước ngấm
vào lạc làm lạc mốc thành thành phẩm loại B loại C và phải đền. Sợ hai con lợn
lăn ra ốm thì không biết cuối năm bấu víu vào đâu mà trả nợ...”.
Gian bếp kiêm chuồng lợn
Tại miền Nam, đồng bằng sông
Cửu Long vốn là vựa thóc nhưng trong thời bao cấp chính sách ‘ngăn sông cấm chợ’
không cho phép nông sản được xuất tự do ra khỏi địa phương. Tất cả đều được nhà
nước ‘thu mua’ với hàm ý ‘vừa tịch thu, vừa mua lại’.
Dưới mắt người nông dân đó
là hình thức ‘mua như cướp’ theo ‘giá nghĩa vụ’ hoặc ‘giá khuyến khích’… Ngược
lại, đến khi nhà nước bán cho người tiêu dùng, họ ‘bán như cho’, người mua có cảm
tưởng được cửa hàng… bố thí chứ không thực sự là đi mua với đồng tiền của mình!
Thu mua lúa hay thu mua các
mặt hàng khác đều giống nhau. Năm 1978, giá thành 1m2 vải ‘calicot’ sản xuất tại
Công ty Dệt Thành Công là 1,5 đồng nhưng phải bán cho nhà nước với giá 1,2đ/m2.
Giá thành 1m2 vải dệt theo kiểu oxford tính ra hết 10đ nhưng công ty phải bán
cho Nhà nước giá 9đ. Nhìn cảnh đóng hàng xuất cho nội thương với giá thấp hơn
thực tế, người công nhân phải rơi nước mắt.
Giá của hai thứ vải trên nếu
bán ở thị trường tự do thì cao gấp 10-12 lần. Cũng vì thế, người dân và cả cơ
quan nhà nước cũng chạy theo thị trường tự do để hình thành một nền kinh tế ‘ngầm’
song hành cùng nền kinh tế do nhà nước quản lý. Người dân buôn gạo từ địa phương
này sang địa phương khác, chỉ vài ký mỗi chuyến nhưng cũng hưởng chênh lệch để
‘cải thiện’ cuộc sống gia đình.
Tại Sài Gòn, một số cơ quan,
xí nghiệp ‘lách’ luật, bung ra trong việc ‘đi đêm’ với xí nghiệp bạn hoặc với
tư thương, Công ty Kinh doanh Lương thực của bà Ba Thi (Nguyễn Thị Ráo) là một
trường hợp điển hình của một ‘huyền thoại’. Năm 1980, với trình độ lớp 4 trường
làng, bà Ba Thi được bổ nhiệm làm giám đốc công ty để lo cung cấp lương thực
cho gần 4 triệu dân với ‘giá kinh doanh’ không ‘bù lỗ’ nhưng cũng không nhằm
thu lãi cao.
Có thể đó là cách giải quyết
của những lãnh đạo có ‘tâm’ trước sự thiếu thốn trong đời sống của nhân dân
nhưng cũng không loại trừ những ‘phi vụ’ chạy vào túi riêng của những người
trong cùng băng nhóm. Xã hội bắt đầu hình thành những ‘Mafia kinh tế’ để sau
này tạo ra một giai cấp mới là ‘tư sản đỏ’.
Chợ Bến Thành thời bao cấp
Năm 2006, báo Tiền Phong
dùng cụm từ Màu thời gian xám ngắt (nhại chữ của Đoàn Phú Tứ Màu thời gian tím
ngát trong bài thơ Hương thời gian) để nhắc lại cái bóng kinh hoàng của thời
bao cấp.
Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh
thanh
Đối với người miền Nam vốn
đã quen sống trong nền kinh tế tư bản, thời bao cấp chắc không ‘xám ngắt’ mà phải
là ‘xám xịt”. Cũng may, người ta ngộ ra đó là một sai lầm chết người nên mới
có… thời kỳ ‘đổi mới tư duy kinh tế’.
===
Chú thích:
(1) Giáo sư Hoàng Phê sinh tại
làng Bảo An, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam nay là xã Điện Quang, Điện Bàn, Quảng
Nam. Cháu đời thứ 11 của Tổng đốc Hoàng Diệu. Thuở thiếu thời, ông học tại quê
nhà rồi theo học ở Hội An, Huế, Sài Gòn. Sau cách mạng tháng 8/1945, ông tham
gia kháng chiến chống Pháp ở Hà Nội, Việt Bắc. Năm 1954, ông làm cán bộ nghiên
cứu ở Viện Ngôn ngữ học, và tạp chí Ngôn ngữ học, giảng dạy tại Đại học Tổng hợp
Hà Nội. Hoàng Phê (1919 - 2005) là một nhà từ điển học, chuyên gia về chính tả
tiếng Việt. Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học xã
hội xuất bản năm 1998.
(2) Tô Hoài tên thật là Nguyễn
Sen, sinh năm 1920 tại quê nội ở Thanh Oai, Hà Đông trong một gia đình thợ thủ
công. Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức. Đến
với văn chương ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là với truyện Dế Mèn
phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa Cứu quốc. Trong kháng chiến
chống Pháp, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số
thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao
động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau:
truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm
sáng tác.
(3): Vương Trí Nhàn là một
nhà nghiên cứu văn hóa, văn học đồng thời là nhà phê bình văn học. Các bài viết
của ông xuất hiện trên báo Văn Nghệ từ tháng 3/1965, sau đó ông viết đều đều
trên các báo Văn Nghệ, Văn Nghệ quân đội. Lúc đầu VTN chỉ tập trung về mảng văn
học đương đại cho đến đầu thập niên 1980, ông có ý thức dần dần trở lại với văn
học sử, nhất là giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20 và đã viết một số bài nghiên cứu về
các nhà văn tiền chiến như Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng...
***
12 Comments on Multiply
yeuhanoi wrote on Jun 25,
'11, edited on Jun 25, '11
Chào bạn. Đã xem hết entry
này. Chỉ xin ghi vào đây vài câu đồng cảm:
Tất cả các phiếu "bao cấp"
có trong bài mình đã dùng qua. Thực tế còn có những loại tem, bìa khác nữa như:
phiếu mua vải (quy định số mét được mua trong 1 năm có những ô ghi rõ loại vải
như ka ki, phin, dự phòng..), bìa "nghiện thuốc lá", tem lương thực
(từ loại 200gram, phiếu mua đặu (khi không có thịt), giấy giới thiệu của cơ
quan khi được bình trong những đợt phân phối hàng, ví dụ cơ quan nọ được phân 5
chiếc xe đạp Thống nhất (hay Phương Hoàng, Vĩnh Cửu) hoặc 3 chiếc đồng hồ đeo
tay Pôn-Jốt thì cán bộ công nhân viên cơ quan đó phải họp để bình xét ai sẽ được
mua ). v.v... Trong thời "bao cấp" thì cuốn sổ gạo của gia đình là
quan trọng bặc nhất. Nó là công cụ quản lý con người bằng cách quản cái dạ dày
(đói, no, sống chết). Với uy lực của nó VNDCCH có thể huy động con người ở mức
tối đa kể cả đem thanh niên ra chiến trường... Xin kể mẩu chuyện nhỏ:
Thằng em trai mình (1979)
chiến đấu chống giặc TQ ở Lạng Sơn bị thương. Khi tỉnh lại ở bệnh viện trung
đoàn thì câu đầu tiên của nó: "Ôi, mình mất hết số tem gạo rồi." Sau
khi hồi phục sức khỏe, nó đã trở lại trận địa cũ tìm lục trong đường hào.... cốt
để tìm lại số tem gạo mà nó nghi rằng vẫn còn ở chỗ nó đã tác chiến (nhưng
không tìm thấy)
cuuphansinh wrote on Jun 25,
'11
Nhìn lại mà phát sốt! Khủng
khiếp thật! Cám ơn NGOC CHINH đã tổng hợp!
Xin kể một chuyện thật có
liên quan, không biết nên khóc hay nên cười: Sau 75, mỗi năm người dân "chỉ
được" mua 2m vải. Tối đó họp dân. Trước khi họp có chào cờ "Đoàn quân
VN đi..." Ai cũng đứng nghiêm , một cụ già ngồi! Chào cờ xong, cán đến hỏi:
- "Sao chào cờ mà ngồi?"
- "Tôi không có quần
!"
- " Sao đi họp không mặc
quần ?"
- "Nhà nước bán 2 thước
vải may áo hết rồi !"
uyenvan wrote on Jun 25, '11
Đó là cái thời sản sinh ra
nhiều cách nói mà chỉ có người-đương-thời mới hiểu: nhăn nhó=> mất sổ gạo;
thông báo: hôm nay có thịt giáo viên, mai có thịt bộ đội...
walkinclouds wrote on Jun
25, '11
nhớ lại mà còn kinh hoàng. dịp
tết có mấy kí lòng heo mà cũng phải bắt thăm, ai trúng được mua ăn tết, có năm
gặp phải lòng đã bị thiu, bó tay.... haizzzz, lạy trời, đất nước này đừng quay
lại cái thời đó.
bayhoang79 wrote on Jun 26,
'11
Cám ơn anh Chính đã nhắc lại
một cách suất sắc thời kỳ Bao Cấp mà chúng tôi đã coi như một giấc mơ hãi hùng
trong cuộc đời!
thahuong82 wrote on Jun 26,
'11
Nghe kể lại cũng rợn người,
cũng 'may" khoảng thơỉ gian đó tôi được ‘sự khoan hồng nhân đạo’ của đảng
và nhà nước cho đi học tập chỉ phải tự túc 10 ngày thôi, còn năm mười năm sau
thậm chí mấy chục năm đều do nhà nước lo từ A-Z chẳng bận tâm cái ăn cái mặc chỉ
có lao động là vinh quang thôi. Làm ngày kô đủ tranh thủ làm đêm, làm thêm giờ
nghỉ, làm kô nổi thì… hui nhị tì!
penseedl wrote on Jun 27,
'11
Tưởng đã quên hết những cảnh
nhục và hèn của thời bao cấp, không ngờ tác giả còn nhớ tỉ mỉ quá, bái phục!.
huynhhai wrote on Jun 30,
'11, edited on Jul 10, '11
Bài nầy được viết công phu
do tác giả chịu khó sưu tầm, tra cứu. Thật ra còn rất nhiều điều để nói về thời
bao cấp, thời mà lần đầu tiên (và cầu mong là lần cuối cùng) người nông dân miền
Nam mất ruộng (vì bị buộc phải vào tập đoàn hoặc hợp tác xã) và đói ngay trên đồng
ruộng mênh mông. Giới trẻ bây giờ có thể chỉ hình dung thời đó qua lời kể của
cha mẹ họ, nhưng di chứng của thời bao cấp vẫn hiện diện trong họ đấy thôi. Những
ai có độ tuổi dậy thì hoặc sinh ra và lớn lên trong giai đoạn 1976-1991 thường
nhỏ con, thiếu thước tấc vì thiếu ăn lúc đang sức lớn. Thời bao cấp cũng là thời
của những bế tắc trong cuộc sống, vì thế cuộc đấu tranh sinh tồn giữa người và
người trở nên quyết liệt. Một số chuẩn mực đạo đức cũ bị mất đi. Nhiều người vượt
biên để mưu tìm cuộc sống mới. Nhiều gia đình lâm vào cảnh khốn khó, cùng quẫn.
Nhiều người nếu không bị bệnh lao thì cũng bị tâm thần nặng hoặc nhẹ (nhớ thời
đó các phòng khám tâm thần trong các bệnh viện thường rất đông) v.v... Thời bao
cấp và những di chứng của nó đến cuộc sống tinh thần và vật chất của toàn dân
Việt rất cần được nghiên cứu tường tận, khách quan, khoa học để nhận rõ hệ quả
của một chính sách kinh tế ngu xuẩn và rút kinh nghiệm cho mai sau.
(Có một chi tiết nhỏ ở 2 câu
đầu mà tôi nghĩ không phải là ca dao, chỉ là nhái của 2 câu dưới trong 4 câu gần
cuối trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
"Ngẫm hay muôn sự tại
trời,
Trời kia đã bắt làm người có
thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần
thanh cao."
Mặc dù có những câu lúc đầu
là thơ, sau biến thành ca dao do người ta truyền miệng cho nhau mà quên mất tên
tác giả (như vài câu thơ của Bàng Bá Lân chẳng hạn), nhưng 2 câu ở đầu bài nầy
chưa đến mức để gọi là ca dao.
Thời bao cấp cũng là thời của
nhiều câu ca dao, như:
"Mất mùa là bởi thiên
tai.
Được mùa là bởi thiên tài Đảng
ta".
Hoặc:
"Nam Kỳ Khởi Nghĩa phi
Công Lý.
Đồng Khởi đây rồi mất Tự
Do".
(nói về đổi tên đường ở Sài
Gòn sau 30/4/1975) v.v.... và v.v...
Thời bao cấp có lẽ cũng là
thời mà lần đầu tiên trong lịch sử nước ta nhà cầm quyền đề ra phong trào sáng
tác ca dao "ca ngợi lãnh tụ, ca ngợi cuộc sống XHCN tươi đẹp". Giờ có
vị nào còn nhớ những câu gọi là "ca dao" bị sáng tác ấy không???).
nguyenngocchinh wrote on Jun
30, '11, edited on Jun 30, '11
huynhhai said “(Có một chi
tiết nhỏ ở 2 câu đầu mà tôi nghĩ không phải là ca dao, chỉ là nhái của 2 câu dưới
trong 4 câu gần cuối trong Truyện Kiều của Nguyễn Du:
"Ngẫm hay muôn sự tại
trời,
Trời kia đã bắt làm người có
thân.
Bắt phong trần phải phong trần,
Cho thanh cao mới được phần
thanh cao."
Xin cám ơn bạn huynhhai về
phần comment khá dài nhưng rất xúc tích. Riêng về 2 câu 'ca dao' dẫn ở đầu bài
viết tôi đã chỉnh lại là ca dao thuộc loại 'lẩy Kiều' cho chính xác hơn. Đa tạ.
yeuhanoi wrote on Jul 8,
'11, edited on Jul 8, '11
@huynhhai:
Mình nghe đọc là:
"Nam Kỳ Khởi Nghĩa đâu
Công Lý.
Đồng Khởi Vùng Lên mất Tự
Do".
"đâu" - hỏi?
"mất" - đáp.
"Khởi nghĩa" =
"Vùng lên" (đối lại)
Rõ ràng đây là hai vế đối rất
chỉnh theo luật thơ Đường.
huynhhai wrote on Jul 8,
'11, edited on Jul 8, '11
@yeuhanoi
Hai câu:
"Nam Kỳ Khởi Nghĩa phi
Công Lý.
Đồng Khởi đây rồi mất Tự
Do".
tôi đã nghe chỉ ít tháng sau
khi đường phố Sài Gòn đổi tên. Nghe nhiều lần, chợt nhớ nhiều lần mỗi khi đi
trên 2 con đường ấy và rồi nhớ đến nay. Tôi biết 2 câu đó có nhiều dị bản và
không rõ bản nào xuất hiện trước. Mỗi bản có nét riêng nhưng vẫn giữ được ý nghĩa
(đen và bóng) ban đầu (hai câu bạn đưa ra cũng vậy). Tuy nhiên, tôi vẫn thích 2
câu đã nêu ở trên vì:
Thứ nhất: Chữ
"phi" ở câu đầu thật dứt khoát, phủ định mạnh mẽ.
Thứ hai: Hai câu nói lên tâm
trạng của một người khá lâu không vào khu trung tâm Sài Gòn nay ngỡ ngàng khi
thấy tên đường đã đổi thay (chữ "đây rồi" nói lên sự ngỡ ngàng ấy).
Thứ ba: Kết nối tài tình giữa
đổi tên đường với phủ định công lý, tự do.
Và thứ tư: Nó gắn với những
kỷ niệm trong "thời ốm đói" của tôi.
Hai câu:
"Nam Kỳ Khởi Nghĩa đâu
Công Lý.
Đồng Khởi Vùng Lên mất Tự
Do".
cũng hay về ý nghĩa. Nếu xét
riêng về đối theo luật thơ Đường, tôi thấy:
- "Nam kỳ" và
"Đồng khởi" đối không chỉnh vì một bên là địa danh, một bên chỉ một
phong trào.
- "Khởi nghĩa" và
"vùng lên" cũng như "Công lý" và "Tự do": đối tốt.
- "đâu" và "mất":
Khác từ loại nên đối không chỉnh.
Nhưng vấn đề không phải ở những
hình thức như vừa nói. Càng có nhiều dị bản chứng tỏ nó càng được nhiều người
thích hoặc quan tâm. Cốt lõi của vấn đề chính là tính phản kháng mạnh mẽ của 2
câu mà nay đã thành ca dao do sức lan tỏa sâu rộng cả trong và ngoài VN của nó.
(Xin nói thêm: Thời bao cấp
xuất hiện khá nhiều câu nói về chế độ mới XHCN mà người ta thì thầm truyền miệng
cho nhau, không ai dám viết ra giấy vì nếu bị phát giác sẽ bị gán cho nhiều tội
như bôi bác chế độ, xuyên tạc, thậm chí phản động. Những tội danh ấy ai đã từng
ở VN sau 30/4/1975 đều nghe nói đến, nhất là vào thời bao cấp, thời hoàng kim của
CNXH ở VN và cũng là thời đen tối của đại đa số dân Việt).
nguyenngocchinh wrote on Sep
14, '11
Entry này đã đăng trên Văn
Thơ Lạc Việt:
----------------------------------
* Bài viết cùng chủ đề:
“Đảo Ánh Sáng” và thuyền
nhân người Việt
Vui buồn thời điêu linh: Học
tập cải tạo
Bất đáo Chí Hòa phi hảo hán
Câu chuyện “văn chương” với
ông bạn già
Chuyện những người bạn trong
thời điêu linh
Hồi ức về những mùa xuân
Góp nhặt buồn vui thời điêu
linh: Cải tạo Công thương nghiệp
Góp nhặt buồn vui thời điêu
linh: Kinh tế mới
Góp nhặt buồn vui thời điêu
linh: Đốt sách
Góp nhặt buồn vui thời điêu
linh: Chợ trời
Góp nhặt buồn vui thời điêu
linh: Đổi tiền
Nhân văn - Giai phẩm: Nhà
văn Thụy An
Không chốn dung thân (2)
Không chốn dung thân (1)
Được đăng bởi Ngoc Chinh
Nguyen vào lúc 16:44
Gửi email bài đăng này
BlogThis!
Chia sẻ lên Twitter
Chia sẻ lên Facebook
Chia sẻ lên Pinterest
Nhãn: Thời điêu linh
3 nhận xét:
Ngoc Chinh Nguyen09:51 16
tháng 1, 2013
Một người bạn của tôi, anh
Nguyễn Phan Thanh, vừa làm một PPS so sánh thời bao cấp ở Liên Xô (vài tháng
trước ngày sụp đổ vào cuối năm 1991)với thời bac cấp ở VN.
Trong PPS này thường xuất hiện
câu: "Vietnam, it's time to take your head out of the sand". Mời các
bạn xem tại:
Trả lời
cadao01:40 10 tháng 3, 2013
Đọc xong, muốn khóc, cảm ơn
tác giả nhiều.
Đúng là điêu linh khốn khổ,
vậy mà cứ ra rả chủ nghĩa cộng sản ưu việt, thật mắc cở hết sức.
góp ý với hai tên đường bị đổi
là đường Tự Do đổi thành Dồng khởi, Công Lý đổi thành Nam-Kỳ khởi nghĩa, thiên
hạ miền Nam khổ đau mới đọc trại ra: Nam-kỳ khởi nghĩa tiêu Công lý - Đồng khởi
vùng lên mất Tự do. !! hu hu có chi thất xuất xin bỏ qua, lần nữa xin cảm ơn
ông Nguyễn ngọc Chính tài hoa.
Trả lời
Hồng Ngọc10:53 1 tháng 5,
2013
1.HN chưa có giờ đọc tỉ mỉ,
chi tiết nhưng mới lướt qua có thể nói rằng đây là một tài liệu đáng quý cho những
ai muốn tìm hiểu thời kỳ này!
2. Anh có tin rằng Tết Đoan
ngọ năm 1984 tôi từ ga Tuy Hòa về Sài Gòn bằng tàu chợ chỉ ĐỨNG ĐƯỢC MỘT CHÂN
vì dưới sàn tàu là la liệt người Nghệ Tĩnh xuôi Nam để tự giải phóng mình. Bức
quá, vào toa hàng ăn chỉ ngồi đúng 5 phút thì nhân viên mời ra, bảo muốn ngồi
tiếp thì phải mua phiếu ăn, phiếu uống khác. Về đến SG có cảm tưởng như mình đã
Vượt Trường sơn sau 9 tháng như tên một đầu sách của Phan Nghị!
3. Anh có tin rằng mấy tháng
không mua được thịt, có lần, một mình tôi phải "xử lý" cái đầu heo
12kg tiêu chuẩn thịt của cả nhà khi vợ (con) tôi về quê nghỉ dài hạn!!
Vài dòng buồn vui, tôi sẽ đọc
lại bài này và giữ link này giới thiệu cho các cháu làm mémoire cao học hay
thèse doctorat về thời kỳ này tham khảo. Cám ơn anh.
No comments:
Post a Comment