Bí ẩn trận Hoàng Sa
Posted on January 24, 2017 by dongsongcu
Phạm Thế Hồng
Thiếu tá Phạm Văn Hồng và bức tranh “Gấu Trúc” do nhà cầm quyền Trung cộng
tặng cho ông lúc trao trả tù binh. Ảnh: Thanh Phong/Viễn Đông
Nhận lệnh ra Hoàng Sa với nhiệm vụ thiết lập phi trường
Buổi sáng 15-1-1974 tôi nhận lệnh thượng cấp ra đảo Hoàng Sa để thiết lập một
phi trường quân sự, lúc đó tôi là sĩ quan lãnh thổ Phòng 3 thuộc Quân Đoàn I
nên việc thượng cấp giao cho là hợp lý. Chiều hôm đó thay vì di chuyển bằng xe
quân sự, thì nhân viên Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng là ông Kosh lại lấy chiếc
Falcon chở tôi cùng đi với ông qua bên Tiên Sa. Đến nơi vào khoảng 5, 6 giờ chiều,
trời đã gần tối, chúng tôi lên chiếc HQ16 do Hải quân Trung tá Lê Văn Thự là Hạm
trưởng; HQ16 đưa chúng tôi ra tới đảo Hoàng Sa vào khoảng 9 giờ sáng hôm sau.
Trời hừng sáng, tôi thức dậy và nhìn ra khơi, xa xa có mấy chiếc tàu nhỏ đang
di chuyển, dần dần những chiếc tàu đó nhắm hướng HQ16 chạy tới, nó cứ chờn vờn
trước mũi tàu mình và nói theo ngôn ngữ lúc bấy giờ gọi là “kỳ đà cản mũi”. Hải
quân Trung tá Lê Văn Thự lấy làm lạ và nói với tôi: “Hình như nó muốn khiêu
khích mình”. Nó giả dạng tàu đánh cá, cho một vài tên mặc quần đùi, ở trần ra
ngồi bên mạn thuyền thả câu, câu cá. Chúng tôi mặc kệ nó và ở đó vài tiếng sau
thì đổ bộ lên bờ. Ngoài tôi làm toán trưởng, còn có một Trung úy Liên Đoàn 8
Công Binh Kiến Tạo, một Trung úy Liên Đoàn 10 Công Binh Chiến Đấu, hai Hạ sĩ
quan đi theo hai Trung úy và ông Kosh, như vậy toán chúng tôi có tất cả 6 người
đặt chân xuống đảo.
Hai Trung úy lo đi thám sát địa hình, đo đạc để có dữ kiện thiết lập phi trường.
Ở trên đảo có sẵn một toán Khí Tượng nên cần biết gì về thời tiết, Nhóm Khí Tượng
sẵn sàng cung cấp đầy đủ. Ngoài Nhóm Khí Tượng còn có một đơn vị Địa Phương
Quân trú đóng.
Biển Đông dậy sóng
Sáng ngày 18-4-1974 từ trên đảo nhìn ra biển thấy tình hình khác hẳn mấy
ngày trước. Tàu của Trung Cộng nhỏ nhưng khá nhiều, còn bên Hải Quân Việt Nam Cộng
Hòa thấy có bốn chiếc HQ16, HQ4, HQ10 và HQ05. Hai chiếc HQ05 và HQ16 là (1)Dương
Vận Hạm; chiếc HQ04 là Khu Trục Hạm còn HQ10 là Hộ Tống Hạm. HQ04 nhỏ hơn nhưng
hỏa lực mạnh hơn. Chiều ngày 18 tôi nhận được lệnh của Hải Quân Trung tá Lê Văn
Thự nói sẽ cho dzu dzu (một loại xuồng cao su) đến đón chúng tôi lên HQ05. HQ05
bây giờ được gọi là Soái Hạm (tàu chỉ huy) vì có Hải Quân Đại tá Hà Văn Ngạc
đang ở trên đó để tổng chỉ huy. Tôi lên HQ05 và chờ đến khoảng 10 giờ thì loa
phóng thanh nói: “Mời Thiếu tá Phạm Văn Hồng lên đài chỉ huy để gặp Hải đội trưởng”.
Tôi lên phòng chỉ huy, Đại tá Hà Văn Ngạc vỗ vai tôi và nói: “Toa à, cái thằng
Kosh này là bạn moa, nó nhát gan, nó sợ và muốn lên đảo, nó bảo ở trên tàu nguy
hiểm quá, vậy toa đi với nó lên đảo trở lại”. Rồi ông ra lệnh lấy dzu dzu đưa
chúng tôi vào đảo. Cặp vào đảo thì đã khuya, anh em Địa Phương Quân họ cũng đã
ngủ hết .
Suốt một đêm vật vã với sóng gió, tôi cũng mệt nhoài nên sáng hôm sau khi
nghe có tiếng heo kêu tôi mới thức dậy thì trời đã sáng rõ. Sở dĩ có tiếng heo
kêu là vì mấy anh em Địa Phương Quân khi nhận lệnh ra giữ đảo, biết nhiệm kỳ của
mình sẽ ăn Tết trên đảo nên họ mang một con heo ra nuôi để Tết mổ thịt.
Khi vừa rửa mặt xong thì nghe mấy anh em Điạ Phương Quân nhao nhao nói: “Có
lẽ không xong rồi Thiếu tá ơi!” Và tôi bắt đầu nghe tiếng súng nổ; lúc đó vào
khoảng hơn 10 giờ sáng ngày 19-1-1974. Tôi leo lên sân thượng của Đài Khí Tượng
nhìn ra biển thấy hai chiếc tàu Trung Cộng chưa chìm nhưng đang trong tư thế sắp
chìm và tôi nghĩ chắc chắn sẽ chìm, còn bên phía Hải Quân mình tôi thấy các lằn
đạn của tàu Hải quân Trung cộng cũng đang ghim vào chiến hạm của mình. Hai bên
đang thi nhau nã đạn. Tiếng súng lớn, súng nhỏ thi nhau nổ dòn dã. Tôi xuống
phòng truyền tin, ở đây chỉ có mỗi chiếc máy C.25 để anh em liên lạc với tàu
khi lên xuống thôi. Tôi nghe âm thoại viên của Hải Quân nói: “Thiếu tá Hồng,
tôi đã mất liên lạc, nhờ Thiếu tá gọi ngay về Đà Nẵng giúp, nói là tàu tôi đã bị
nghiêng 30 độ, mắt thần chúng tôi đã bị hư”. Đó là tất cả những gì tôi nghe được
qua máy truyền tin C.25. Tôi nhờ bên Đài Khí Tượng cho sử dụng máy Motorola,
anh em bên Khí Tượng cho biết, họ chỉ lên máy mỗi đầu giờ, bây giờ đang là giữa
giờ, lên máy không có tín hiệu nhận. Nhưng anh em bên Đài Khi tượng vẫn mở máy.
May quá, có Phú Quốc lên máy. Tôi nhờ Phú Quốc gọi về Sài Gòn, yêu cầu Sài Gòn
gọi ra Đà Nẵng nói Đà Nẵng “lên máy”. Nói thì nghe ngắn gọn như vậy nhưng lúc
đó mất rất nhiều thời gian, không như bây giờ có cell phone, liên lạc với nửa
vòng trái đất cũng chỉ trong tíc tắc!
Khi tôi liên lạc được với Đà Nẵng, tôi yêu cầu Đà Nẵng gọi “Uy Dũng” là tên
Tổng đài Quân Đoàn I của chúng tôi, tôi cho số máy của Trung tâm hành quân và số
máy của Quân Đoàn I, yêu cầu liên lạc ngay với tôi qua tổng đài của Ban Khí Tượng
ngoài đảo Hoàng Sa. Lúc đó tiếng súng giữa các chiến hạm của ta và của Trung Cộng
đã tạm lắng dịu nhưng súng bắt đầu nổ trên đảo. Tôi lên Đài Khí Tượng quan sát
thì thấy các chiến hạm của ta ở vòng ngoài, còn tàu Trung Cộng thì lại ở vòng
trong, có nghĩa là chúng tôi đã bị tàu Trung Cộng bao vây. Những chiếc tàu của
Trung Cộng theo anh em Hải quân ta cho biết là những chiếc Kronstad, tất cả đều
quay mũi tàu của họ vào đảo, còn các chiến hạm của ta thì quay mũi ra phía
ngoài biển. Các chiếc Kronstad tiến sát vào bờ và đổ quân, chúng dàn hàng ngang
tiến lên đảo. Lúc này trên đảo bên ta chỉ có một Trung đội Địa Phương Quân hơn
20 quân nhân, bốn năm anh em chuyên viên Khí Tượng và thêm toán chúng tôi 6 người
nữa mà phải đương đầu với khoảng một tiểu đoàn Trung Cộng. Cũng cần biết thêm
là theo anh em đi thám sát đo đạc để lập phi trường có cho biết, chu vi đảo chỉ
chừng 1 cây số 6. Nếu thiết lập phi trường thì chỉ có thể làm phi đạo dài 500
thước, ngang 300 thước mà thôi, và phi đạo như thế chỉ sử dụng cho các loại phi
cơ 123 Caribou chứ loại C.130 không thể hạ cánh được. Cho nên với chu vi gần 2
cây số mà chỉ có khoảng 20 người, làm sao kiểm soát hết được, trong khi đó sở
trường của Trung Cộng luôn luôn là “lấy thịt đè người”. Với quân số ít oi và vũ
khí cũng không có gì mạnh mẽ lắm, mỗi người chỉ có vài gắp đạn nên bắn mấy lần
là hết đạn. Tuy nhiên anh em vẫn chiến đấu với biển người Trung Cộng.
Mưu mô của Trung Cộng
Để nắm vững tình hình trên đảo về quân số cũng như cách bố phòng của ta,
vào khoảng đầu tháng 10 năm 1973, thời điểm tháng 10 thường hay có mưa bão xảy
ra ở vùng biển Đà Nẵng, nên Trung cộng cho một chiếc tàu giả dạng tàu đánh cá
vào đảo xin tránh bão. Việt Nam Cộng Hòa mình vốn có tính nhân đạo và thật thà,
thấy họ xin núp bão thì đồng ý ngay, lại còn tiếp tế cho họ nước uống nữa,
chúng làm bộ thân thiện với ta, tặng cho anh em quân nhân những bộ bài có hình
khỏa thân, và rủ lính của ta chơi trò “trốn tìm”, mục đích là dò xem mình có hầm
hố gì không, nhưng các anh em Điạ Phương Quân của ta đâu có ngờ, đó là mưu mô
“thám sát” của lính Tàu. Vì thế khi chúng tấn công lên đảo, chúng đã nắm rõ
quân số của ta có bao nhiêu người, vũ khí ra sao, có hầm hố chiến đấu hay
không, còn ta, ta không biết gì về địch. Lực lượng hai bên quá chênh lệch như
thế nên chúng ta bị thất bại là lẽ đương nhiên.
Tin vào lời hứa, tìm cách ẩn trốn và bị bắt
Khi tôi liên lạc bằng máy Motorola của Đài Khí Tượng trên đảo về Đà Nẵng,
tôi được bên Hải Quân cho biết, Thiếu tá Hồng cứ yên trí, sẽ có máy bay ra yểm
trợ. Vì tin lời hứa đó, tôi nghĩ trong lòng rằng không bao giờ tôi đầu hàng, giả
sử nếu cùng lắm bên Không quân ta phải thả bom trên đầu, tôi cũng chịu vì đó là
chuyện bình thường của quân đội; vì tôi và anh em trên đảo sẽ được cứu nên tôi
tìm cách ẩn trốn vào một bụi cây rậm rạp trên đảo, do đó khi chúng đã bắt hết
các anh em, chúng kiểm soát danh sách và biết rằng còn thiếu một viên Thiếu tá
là tôi, cả một Tiểu đoàn lính Trung Cộng dàn hàng ngang lùng sục làm sao mà tôi
thoát được, và tôi bị chúng bắt sống lúc xế trưa.
Cuộc đời tù binh
Sau khi Trung Cộng bắt được tôi, chúng không đánh đập nhưng có dọa nạt và
áp đảo tinh thần. Khoảng 2, 3 giờ chiều chúng cho chúng tôi ăn cơm, ăn với thịt
heo của anh em Địa Phương Quân nuôi, như tôi đã trình bày ở phần trước, nói là
thịt heo nhưng thật sự chỉ có mỡ thôi, còn nạc bọn lính Trung Cộng ăn hết rồi.
Ăn xong nó nhốt chúng tôi trong căn nhà có lẽ trước đây dùng chứa phân chim hay
làm cái gì đó tôi không biết rõ. Đến khuya chúng nó bắt tất cả anh em ra xếp một
hàng dọc ngoài sân. Tôi nghĩ trong đầu chắc chúng đem đi xử bắn. Một vài anh em
trong bọn tôi có vẻ lo lắng, thấy thế tôi mới trấn an: “Các anh cứ bình tĩnh,
dù chúng ta có chết cũng chết cho tổ quốc, đừng sợ, cứ bình tĩnh và giữ khí
phách của một người lính VNCH”. Nhưng cuối cùng chúng không bắn ai hết!
Di chuyển qua Trung Quốc
Gần rạng sáng chúng cho chúng tôi lên tàu, tôi nghe ngoài biển có nhiều tiếng
lào xào, nhìn ra thì thấy nhiều chiếc dzu dzu đang chèo vô bờ. Nó chuyển chúng
tôi cứ 4, 5 người xuống một xuồng cao su (dzu dzu) và đưa ra tàu Kronstad. Nhóm
sĩ quan nó đưa riêng lên một tàu, mấy chục anh em Hạ sĩ quan, binh sĩ lên các
tàu khác và tàu bắt đầu di chuyển. Khoảng trưa hôm sau, tức là trưa 20-1-1974,
chúng tôi tới đảo Hải Nam. Nó cho tôi lên bờ trước, sau đó mới đưa các anh em
còn lại lên, rồi nó đưa đám sĩ quan vào phòng ăn riêng gồm tôi và 1 Trung úy Hải
Quân, 1 sĩ quan Địa Phương Quân, 2 sĩ quan Công Binh và anh Kosh, cả thảy là 6
người. Sau khi ăn cơm xong, chúng đưa chúng tôi ra phi trường để bay về Quảng
Châu. Khi lên máy bay chúng đưa tên Kosh lên ngồi trên cabin, còn anh em chúng
tôi ngồi ở khoang dưới. Đến Quảng Châu trời đã tối. Riêng nhóm Hạ sĩ quan, binh
sĩ và nhân viên đài Khí tượng chúng nhập chung thành một toán cho xuống tàu lớn
chở về sông Châu Giang cũng thuộc thành phố Quảng Châu.
Hôm sau tất cả đám tù binh gồm 49 người, tính luôn cả anh Kosh người Mỹ;
trong đó có 23 chiến sĩ Địa Phương Quân, 6 người toán chúng tôi, 5 nhân viên
Khí tượng và 14 quân nhân Hải quân, có thêm một sĩ quan nữa là HQ. Trung úy
Nguyễn Văn Dũng.
Tôi bị gọi lên lấy khẩu cung nhiều lần, chúng cố tình khai thác tôi về tổ
chức quân đội VNCH, nhưng tôi viện lý do “bí mật quân sự”, phòng nào biết phòng
đó, tôi chỉ nói một cách tổng quát và cứ lập đi lập lại rằng, bên quân đội
chúng tôi bảo mật rất kỹ, tôi chỉ biết danh số có những phòng gì, còn mỗi phòng
có những ai, làm việc gì, điều đó tôi không biết. Tôi thấy nó chú tâm vào anh Hải
quân Trung úy nhiều hơn tôi, có lẽ muốn điều tra, khai thác kỹ về Hải quân của
ta để dự phòng những trận hải chiến sau này có thể xảy ra.
Sau khi bị giam một tuần lễ, chúng lựa ra mỗi toán một người để thả. Người
đầu tiên là anh Kosh, chúng cho biết anh này bị một bệnh mà họ gọi nguyên văn
là “mãn tính kinh niên” nên cho về sớm, bên Khí Tượng thả một người, bên Địa
Phương Quân thả một người, bên Hải quân thả một anh bị thương nhẹ.
Vai trò của ông Kosh trong âm mưu của Mỹ
Lần xuống đảo trước, tôi và anh Kosh này ngồi bên nhau, anh ta kể, anh là
Trung úy Lực Lượng Đặc Biệt Mũ Xanh, anh làm cho Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ. Lần này
anh đi với tôi trong vai trò giám định để xem thực hiện phi trường tốn phí ra
sao và đề nghị Tòa Tổng Sự chi trả.
Trên nguyên tắc thì như vậy, nhưng thực tế đây chỉ là phi trường ảo mà
thôi, không có thật, anh ta đi với chúng tôi trong một sứ mạng đặc biệt đã được
Hoa Kỳ và Trung cộng bí mật dàn dựng từ trước. Sứ mạng đó là dùng chúng tôi làm
con cờ thí, làm vật tế thần cho Trung cộng có cớ xâm lăng Hoàng Sa. Đây là điều
bí mật từ trước tới nay chưa có báo chí nào loan tải. Chúng ta hãy xem thái độ
và cách hành xử của anh Kosh này cũng như sự đối xử của nhà cầm quyền Trung cộng
thì sẽ rõ.
Trên giấy tờ, anh này đi công tác với chúng tôi chỉ có vài ngày, nhưng khi
anh mở cái sắc của anh ra, trong đó có đến hai cây thuốc lá. Nếu tính thời gian
công tác, anh hút nhiều lắm cũng chỉ 5, 6 gói thuốc, vậy anh mang tới 20 gói
thuốc để làm gì? Ngoài thuốc lá, trong sắc tay của anh có đầy đủ dụng cụ mưu
sinh thoát hiểm như lưỡi câu, thuốc chống cá mập. Sau khi bị bắt, trong buổi
chiều ngồi cạnh tôi trên đảo, anh mở một hộp cá ra ăn, anh mời tôi một lát cá.
Tôi để ý thấy hộp cá nhỏ và mỏng hơn hộp cá mòi Sumaco của Marốc, anh đưa cho
tôi một lát mỏng như miếng khô mực đã bị ép rất sát, anh nói với tôi: “Anh ăn
đi, no đấy!” Tôi nghĩ anh chàng này đùa dai, miếng cá mỏng dính và nhỏ xíu thế
này làm sao no. Vậy mà khi ăn xong, tuy không no thiệt nhưng mà ngang dạ liền.
Tiếp theo là sự kiện anh đang ở trên HQ16 lại đòi lên bờ và bảo ở dưới tàu nguy
hiểm quá, mà lúc đó trận hải chiến chưa xảy ra. Phải chăng anh đã biết trước sẽ
có hải chiến và ở trên tàu khi đánh nhau thì nguy hiểm thật, nên lên đảo để
quân Trung Cộng làm bộ bắt cho chắc ăn hơn, và chúng ta thấy, người đầu tiên
Trung Cộng thả là anh chàng Kosh này. Nói đến đây, tôi cũng xin mở dấu ngoặc là
bây giờ biết anh chàng này đóng vai trò gì trong kế hoạch của Mỹ, nhưng tôi cũng
phải cám ơn anh ta, nếu anh không đòi xuống đảo, thì tôi ở trên chiến hạm HQ16
cũng không còn sống trên cõi đời để thuật lại chuyện bí mật này, vì khi ở trên
tàu, tôi cứ thích đứng ở trên cái pháo tháp, mà khi hải chiến xảy ra, pháo tháp
của HQ16 đã bị trúng đạn Trung Cộng.
Tất cả nhóm tù binh do Trung Cộng trao trả, đã về tâp trung tại trại dưỡng
quân Lê Văn Duyệt, Sài Gòn – ảnh do Thiếu tá Phạm Văn Hồng cung cấp
Sự đổi chác giữa Mỹ và Trung Cộng
Khoảng 10 giờ sáng, sau khi chúng tôi bị đưa vào trại giam có tên là “Trại
Thu Dung Tù Binh” thuộc Huyện Hoàng Hóa, thành phố Quảng Châu, tỉnh Quảng Đông
thì có một toán cán bộ Trung Cộng đến. Đám này nói tiếng Việt rất rành và hầu hết
đều nói giọng Bắc, dấu hỏi, dấu ngã phân minh, chính xác. Một tên trưởng toán
nói với chúng tôi: “Hiện bây giờ Tiến sĩ Kissinger của Mỹ đang ngồi ở Bắc Kinh,
chiều hôm nay mọi người sẽ biết tin này, chúng tôi sẽ mang đến đây một chiếc
radio mở cho các anh nghe”.
Buổi chiều họ mang radio đến và mở cho chúng tôi nghe, đồng thời mở luôn cả
đài phát thanh Úc Đại Lợi cho nghe luôn. Trong bản tin của đài phát thanh Trung
Cộng có loan thế này: “Trong cuộc chiến đấu, chí nguyện quân Trung Quốc đã bắt
được một đám tù binh miền Nam Việt Nam, trong đó có tên Thiếu tá Phạm Văn Hồng”.
Hồi đó nếu ai có theo dõi tin tức trên các đài phát thanh cũng đã nghe thấy như
vậy. Điều đó cho thấy rõ ràng có âm mưu dàn xếp giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng. Mỹ
muốn dùng Hoàng Sa của VNCH làm món quà để bình thường hóa quan hệ với Trung Cộng.
Muốn trao Hoàng Sa cho Trung Cộng, chính quyền Hoa Kỳ thời bấy giờ phải tạo ra
một cuộc chiến, để Trung Cộng có cớ xâm chiếm Hoàng Sa, và VNCH chúng ta tuy mắc
bẫy, nhưng chúng ta đã cho Hoa Kỳ, Trung Cộng và cả thế giới thấy tinh thần yêu
nước của chúng ta như thế nào. Hải quân chúng ta dám đương đầu chống Hải quân
xâm lược hùng mạnh hơn mình gấp bội. Chúng ta đã anh dũng và hy sinh nhiều sĩ
quan, binh sĩ Hải quân cũng như thiệt hại một số chiến hạm, nhưng chúng ta cũng
đã đánh chìm một số tàu Trung Cộng tương đương và chắc chắn nhiều tên gọi là
chí nguyện quân của chúng đã bị tử thương.
Thêm bằng chứng về âm mưu giữa Mỹ và Trung Cộng trao đổi Hoàng Sa
Trước khi kể cho anh nghe chuyện trao trả tù binh, tôi cần nói thêm chuyện
này: Sau khi về đến Việt Nam, tôi gặp Trung tá Lâm (khóa 10 Võ Bị Đàlạt), Trung
tá Lâm nói với tôi: “Không quân của mình đã chuẩn bị sẵn sàng từ phi trường
Biên Hòa bay ra Đà Nẵng, rồi từ Đà Nẵng bay ra Hoàng Sa oanh kích, và các phi
công cũng chấp nhận sẽ chơi theo kiểu Nhật, khi phi cơ bay ra Hoàng Sa thì đủ
nhiên liệu nhưng lúc về thì không, do đó các anh phi công sẽ bỏ phi cơ và nhảy
dù xuống biển, tàu của Hải quân ta ứng trực sẵn sàng để tiếp cứu. Mọi việc đã
chuẩn bị đâu vào đấy, nhưng phút chót lệnh này bị hủy bỏ!”
Thêm nữa, có Đại tá Lê Khắc Lý (ông này đang ở Nam California), lúc đó Đại
tá Lê Khắc Lý là Tham Mưu Trưởng tiền phương Quân Đoàn I, Trung tướng Lâm Quang
Thi là Tư Lệnh tiền phương, Trung tướng Ngô Quang Trưởng là Tư Lệnh Quân Đoàn I
ở Đà Nẵng; các vị này gọi tôi ra thuyết trình hai lần, buổi sáng cho các cơ
quan hành chánh Thừa Thiên – Huế, buổi chiều cho các quân nhân đồn trú nghe về
trân chiến Hoàng Sa tại Phú Văn Lâu.
Sau buổi thuyết trình, Đại tá Lê Khắc Lý vỗ vai tôi và nói: “Toa à, cố vấn
mới nói chuyện với moa, moa bảo nó: ‘Tôi không hiểu tại sao Trung Cộng nó lại
đánh chiếm Hoàng Sa?’ Cố vấn Mỹ đã ‘hố’ khi trả lời tôi: ‘Trung cộng lấy Hoàng
Sa, anh ngạc nhiên lắm à?’, moa mới nói trớ đi: ‘Không, ý tôi nói là tại sao nó
lại chiếm vào lúc này?’” Rồi Đại tá Lý nói tiếp: “Toa thấy không, tụi nó có kế
hoạch cả rồi, nó đã sắp xếp hết rồi!”
Thời đó Ngoại Trưởng Henry Kissinger chuyên môn đi đêm, và Tổng Thống Mỹ
Richard Nixon muốn bắt tay với Trung Cộng thì phải có một cái gì đó. Tôi nghĩ
món quà chính người Mỹ muốn tặng Trung Cộng là Hoàng Sa của ta, bởi Trung Cộng
muốn làm chủ Biển Đông mà Mỹ giao Hoàng Sa cho Trung Cộng, họ đâu có mất gì, chỉ
tội nghiệp cho đất nước Việt Nam chúng ta là thân phận một nước nhược tiểu!
Cách đối xử của Trung Cộng với tù binh
Phải công bằng mà nói, viết lịch sử thì phải viết trung thực, không nên viết
theo kiểu tuyên truyền, cho nên tôi nói rất thật là Trung Cộng hơn hẳn Việt Cộng
trong cung cách đối xử với tù binh. Họ cho chúng tôi ăn uống theo quy chế tù
binh chiến tranh đã được quốc tế qui định, như tôi mang cấp bậc Thiếu tá thì để
tôi ở một phòng riêng, bốn Trung úy thì cứ hai ông một phòng, như vậy chúng tôi
có ba phòng ở liền nhau, còn ông Kosh người Mỹ một phòng riêng. Mỗi ngày họ đem
đồ ăn lên tận phòng cho chúng tôi, còn anh em Hạ sĩ quan và binh sĩ thì ăn ở
nhà ăn tập thể của quân đội Trung Cộng. Sau thời gian 2, 3 tuần phải học tập mỗi
ngày vào buổi tối để nghe cán bộ Trung Cộng tuyên truyền thế này thế nọ. Tuần lễ
thứ tư họ dẫn chúng tôi đi thăm vài nơi (mấy anh chàng Trung Cộng nói tiếng Bắc,
bảo là dẫn chúng tôi đi tham quan). Đầu tiên thăm một Bệnh viện rồi thăm mấy hợp
tác xã. Tôi để ý, hầu như tất cả các nơi gọi là Trụ Sở Hợp Tác Xã đều là những
ngôi chùa xưa kia, bởi vì kiểu dáng là chùa, chữ đắp trên tường tuy bị đục bỏ hết
nhưng vẫn còn dấu tích rõ ràng, điều đó cho thấy tín ngưỡng đã bị đè bẹp tại nước
Cộng Sản đông dân nhất thế giới này!
Sau khi thăm các hợp tác xã, họ dẫn đi thăm nhà máy cơ khí. Tại đây họ giới
thiệu là nơi đúc các khẩu Thượng liên và súng AK, sau đó lại dẫn đi xem nhà máy
làm xe đạp, gọi là xe đạp Hồng Kỳ thì phải, rồi thăm một vài cư xá của công
nhân. Tôi có hỏi một công nhân, lương hàng tháng được bao nhiêu, thì người công
nhân nói được trên 100 Nhân dân tệ, trong lúc đó chiếc xe đạp Hồng Kỳ trị giá
130 Nhân dân tệ, cho ta thấy mức sống của một công nhân trong chế độ Cộng Sản
Trung Quốc như thế nào.
Trao trả tù binh
Tôi còn nhớ hôm đó là thứ Bảy, có lẽ ngày 16, 17 tháng 2 năm 1974, sau khi
cho chúng tôi ăn uống xong, họ tập trung lại và tuyên bố sẽ trả chúng tôi về Việt
Nam. Họ phát cho mỗi người một bộ quần áo màu xanh và cái mũ mà anh em chúng
tôi gọi đùa là cái bánh tiêu. Một tên cán bộ hỏi tôi muốn về miền nào, Bắc hay
Nam Việt Nam. Tôi trả lời: “Chúng tôi là người Việt Nam, Bắc hay Nam đều là tổ
quốc tôi, nhưng hiện tại hai miền có hai thể chế khác nhau, tôi không chấp nhận
chế độ của miền Bắc, tôi yêu cầu trả chúng tôi về miền Nam”.
Họ đưa chúng tôi từ huyện Hoàng Hóa về thành phố Quảng Châu, đường dài hơn
40 cây số, rồi lại từ Quảng Châu đưa ra Tô Giới tức là Thẩm Quyến để trao trả
chúng tôi tại Hồng Kông.
Giây phút cảm động gặp lại vợ con
Ngay khi chúng tôi bước qua lằn ranh từ Thẩm Quyến sang Hồng Kông, người đầu
tiên chúng tôi gặp là ông Tổng Lãnh Sự VNCH tại Hồng Kông. Ông niềm nở đón tiếp
chúng tôi và cho người mang đến cho tất cả anh em chúng tôi mỗi người một bộ quần
áo dân sự mới toanh. Khi lên xe buýt ra phi trường Khải Đức, chúng tôi vứt bỏ lại
trên xe bộ quần áo xanh do Trung Cộng cấp phát và thay đồ dân sự.
Choàng vòng hoa sau ngày trở về
Ra đến phi trường, chúng tôi hết sức xúc động thấy Phó Đề Đốc Lâm Ngươn
Tánh, Tư Lệnh Phó Hải Quân và một sĩ quan cao cấp bên Tổng Cục Chiến Tranh
Chính Trị (tôi không nhớ tên) đến đón. Vị này mang cho chúng tôi quân phục đầy
đủ, ai binh chủng gì thì mặc quân phục binh chủng đó, ông còn mang cho tôi cặp
lon Thiếu tá nữa. Chúng tôi lại thay đồ dân sự và mặc quân phục về nước. Chính
phủ VNCH thuê nguyên một chuyến Boeing 727 của Hàng Không Việt Nam qua Hồng
Kông đón chúng tôi trở về sau một tháng bị Trung Cộng bắt làm tù binh.
Phó Đề Đốc Lâm Ngươn Tánh gặp lại Thiếu tá Phạm Văn Hồng
Về đến phi trường Tân Sơn Nhất, ngoài thân nhân, chúng tôi còn được đại diện
các cơ quan chính phủ và quân đội đón tiếp, choàng vòng hoa và đưa về trại an dưỡng
Lê Văn Duyệt để nghỉ ngơi. Câu chuyện bí ẩn trận Hoàng Sa và cuộc đời tù binh của
tôi kết thúc.
Theo Viễn Đông
Ngày đó ở miền Nam, và cả thế giới không ai biết
tới cái gọi là công hàm PVĐ ký theo lệnh của HCM = Hồ quang. Có lẽ Mỹ đã được Tàu cộng cho xem căn bản nảy.
Và đây là xác nhận của tên Phạm Thế Duyệt,
chủ tịch mặt trận tổ quốc, về tương lai đảng CSVN sẽ sát nhập vào đảng CSTQ. Bố
của chúng.
Nên Lê Duẫn mới thừa nhận: "Ta đánh
Tây, đánh Mỹ là đánh cho LX, TQ"
No comments:
Post a Comment