Góp nhặt buồn vui thời điêu linh (3/7)
Đốt sách
“Nơi nào người ta đốt sách
thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau
khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự
do ngôn luận để thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức
dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.
Chủ trương Đốt sách, Chôn
nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước
Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách
Pháp gia, trường phái của Lý Tư) đều bị đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả
thi, thư, sách vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh
vực triết lý và thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt.
Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai
dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.
Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử
sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải
là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của
Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi,
Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà
không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt,
sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.
Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng
phát hiện ở Hàm Dương có một số nho sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh
bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt
người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống
ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là
tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn
ghi nhớ. Không riêng gì người Hán mà cả nhân loại lên án.
Trong thâm tâm, Tần Thủy
Hoàng cũng như Lý Tư đều biết rất rõ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những
tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong
tinh thần con người. Như vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ
không tạo được tác dụng triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị
như mong muốn.
***
Việt Nam vốn tự hào là quốc
gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại thì rất ít.
Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay
trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng
Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền
Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở
bị tiêu hủy cho phù hợp với những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.
Trên thực tế, tại miền Bắc,
ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem
phổ biến ra công chúng đã được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại
sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho
nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm
1954.
Hồi ký của Một người Hà Nội
ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền
Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam.
Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm
sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không
phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát
động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba
bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu
thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa
cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’,
và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực
kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.
***
Tại miền Nam, trong thời
điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch
Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã
nêu rõ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống
đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình
thức tư bản’.
Một trong những việc làm cấp
thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại
các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài
Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm
phong và cấm lưu hành.
Xuống đường Bài trừ Văn hóa
Đồi trụy & Phản động trong thời điêu linh
Đội ngũ những người cầm bút
miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương
Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần
Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần,
Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…
Phần biên khảo có Nguyễn Hiến
Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập,
Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê
Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn,
Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm...
Về thi ca có Nguyên Sa,
Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi
Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức
Sơn, Du Tử Lê.... Phê bình văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ
Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh...
Đông đảo nhất là văn chương
với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương
Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị
Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca,
Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn,
Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung
Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy
Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân
Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh...
Toàn bộ sách ấn hành tại miền
Nam của những tác giả nêu trên (còn một số người nữa mà người viết bài này
không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản
động và đồi trụy. Các cấp chính quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra
chỉ thị tập trung tất cả các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến
sách giáo khoa để hỏa thiêu.
Không có con số thống kê
chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa
nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại
Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng
đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị
thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân
có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt.
Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến
trong vụ đốt sách năm 1975:
“Một cửa hiệu chuyên cho
thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận
phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời
tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương
nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô
bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả
thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.
Nguyễn Thụy Long là cháu ruột
nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông
cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy
Long như Loan mắt nhung, Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của
tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.
Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng
Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền
Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng
Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ
mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và
trại tập trung.
Vượt biển sang Pháp, Duyên
Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à
Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh,
đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư
Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.
Đầu năm 1997, Duyên Anh từ
trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của
truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo
năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới
dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa
kiếp bằng ngọn lửa.
Trong cuốn Những tên biệt
kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau
năm 1975 có đoạn viết:
“… Một số người như Duyên
Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện.
Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có
nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách
mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường
lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.
Dù xét dưới tác động nào, hoạt
động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt
động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự
xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản...
Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa
một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi
bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người
tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn
sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không
sao nhá được’...”
Trong vụ án được mệnh danh
là Nhũng tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với
tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các
nhà văn miền Nam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn
dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ
chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường
(18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt
(10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc
Tự (8 năm).
Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn
có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau
đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết
đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ
tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong (Virginia) trên blog http://hoanghaithuy.wordpress.com/.
Những nhà văn như Hoàng Hải
Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh
việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của
báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi
thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc
di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn
có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày
càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra
hàng ngày.
Nhật báo Tiếng Chuông
Một đặc điểm của văn học miền
Nam là việc hình thành các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành
lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ
điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm
của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có
những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước
ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?
Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm
Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước
1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh
Hiệp. Di cư vào Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ
(do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân
của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội,
rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.
Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài
những tên tuổi kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng,
Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng
10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng
3/62).
Tạp chí Sáng Tạo (1958)
Nhóm Bách Khoa ra đời tháng
1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ
thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành
trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị
tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.
Bách Khoa quy tụ được nhiều
tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác
thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh,
Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc.... Theo Võ Phiến, trong
thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến
5000 bản.
Tạp chí Bách Khoa (1962)
Đắt khách nhất là tạp chí
Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần
Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng
quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương
Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc...
Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần
Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở
Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.
Tạp chí Văn
Tạp chí Văn hoá Ngày nay của
Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp
tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá
Ngày nay.
Tạp chí Đại học, tờ báo của
Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời
năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu
tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên
và trí thức.
Về các nhóm, Viên Linh trong
cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên
nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng
nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo
nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.
Đa số các nhà văn miền Nam
qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông,
Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm
Thệ Hà, Trang Thế Hy...). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ
Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi
Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng,
Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt,
Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền)
hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện
Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ
các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh
Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường...
Nhật báo Tiền Tuyến
Khuynh hướng Phật giáo có
các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu;
khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn
Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt
ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương,
Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong
tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.
Những tờ như Văn, Phổ Thông,
Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy
làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn
nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ,
Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long,
An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang...
Về giới cầm bút sau 1963,
Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên
dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu
hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày
càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng,
Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh,
Minh Đức...”
Những nhà văn trẻ đã trưởng
thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính
trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài.
Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch...
Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối
nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường
theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt
về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam
tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.
Nhờ hệ thống báo chí phát
triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng
như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh
Nam... đều sống bằng ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên
nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.
Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm
biên khảo và dịch thuật đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời
gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước
1975, trong những công trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học
miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo...
cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng
tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.
Về đối tượng độc giả, có thể
nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ
thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời
sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc
Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo.
Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc
một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long... Học
sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh
trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.
Nhà văn Chu Tử qua Vũ Uyên
Giang
Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi
Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn
gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn
Văn Trung là ‘nhà văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn
Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần
cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài' văn học’
(!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…
Những nhà văn nữ như Nguyễn
Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhãn ‘nhà văn nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ
văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu
Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề’…
Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ
dưới mắt họa sĩ Chóe
Nhà văn Túy Hồng dưới mắt họa
sĩ Chóe
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng dưới
mắt họa sĩ Chóe
Một điều không ai có thể phủ
nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về
sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc
chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ
sáng suốt để lọc ra những gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần.
Khi người Bắc di cư vào Nam
năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những người đạp xe xích lô đến buổi trưa,
tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam
có truyền thống đọc sách báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và
đầu thế kỷ 20 miền Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi
ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học.
Miền Nam vào những thập niên
60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập
ồ ạt của các loại sách Livre de poche của Pháp và các loại sách soft cover của
Mỹ. Giá sách nói chung tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa,
thương mại chỉ là phụ.
Người đọc có thể tìm loại
sách IC (Information & Culture) dưới hình thức sách bỏ túi (Livre de Poche)
của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có
chút vốn liếng về tiếng Pháp, người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của
Platon, Homère hoặc các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre,
Saint Exupéry, Francoise Sagan…
Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào
miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc
Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm
trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá
Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm.
Ở lối sống, ở những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ,
nhưng ở thượng tầng thì chưa”.
Hoa Kỳ thành lập cơ quan
thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States Public Affairs Office) và tạp chí
Thế giới Tự do được phát hành miễn phí cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh,
được in ấn bằng phương tiện tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.
Cũng có một nguồn cung cấp
sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách
riêng của mình. Đó là sách của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á
Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức
với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.
Tôi là ‘khách hàng’ thường
xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc
đủ mọi lĩnh vực, trên sách có đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin
đừng bán”. Nếu gặp may, bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.
Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn
World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của
thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de
Cervantes, Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise
Pascal, Faust của Von Goethe, The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus
(Thésée) của Andre Gide, Remembrance of
Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…
Sách do Asia Foundation tặng
Một số sách xuất bản ở miền
Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu
và phục hồi lại nền văn học đã mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của
những nhà văn nổi tiếng ở miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau
1975, Từ điển văn học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc,
Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng...
Chỉ tiếc một điều là một số
sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại
các thư viện tại hải ngoại dưới hình thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi
‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc
bằng sách báo với quá khứ.
Kết thúc bài viết này, tác
giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh
tàn lụi của nền nho học:
Năm nay đào lại
nở
Không thấy sách báo xưa
Ngọn lửa nào năm cũ
Lạc về đâu bây giờ?
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người,
Chương 6 – Thời điêu linh)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9
Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà
Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu
(Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên
(Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài
Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng
Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh
(Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những
chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước
vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút
ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp
một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống
lỗ)!
***
16 Comments on Multiply
nguoigiaonline wrote on Jun
17, '11
Hic, NG tui hổng có ở nhà,
toàn bộ nhạc tiền chiến sưu tập dạng bìa cứng xếp đôi hơn ba trăm bài, mớ đĩa
33/45 vòng cùng một tủ sách quốc văn, giáo khoa thư và truyện... bị họ vào bắt
gia đình mang ra đốt ráo :-((
nguyenngocchinh wrote on Jun
18, '11
nguoigiaonline said “Hic, NG
tui hổng có ở nhà, toàn bộ nhạc tiền chiến sưu tập dạng bìa cứng xếp đôi hơn ba
trăm bài, mớ đĩa 33/45 vòng cùng một tủ sách quốc văn, giáo khoa thư và truyện...
bị họ vào bắt gia đình mang ra đốt ráo :-((
Anh nhắc tôi mới nhớ chuyện
âm nhạc. Hồi xưa tôi cũng có một collection những bản nhạc do Tinh Hoa, Mạnh
Phát... ấn hành. Còn đĩa 45 và 33 vòng cũng khá nhiều vì vào thời sinh viên-học
sinh nhiều lúc phải nhịn ăn để mua!
tangtinhtinh2 wrote on Jun
17, '11
Đau lòng quá bác!
thahuong82 wrote on Jun 18,
'11
Ngẩm lại từ ngàn xưa cho đến
ngàn sau không có cái NGU nào bằng cái Ngu ĐỐT SÁCH.
songhong wrote on Jun 18,
'11
Thật đầy đủ, thật giá trị.
Cám ơn anh Chính.
Anh có còn giữ được tờ Hành
Trình nào không? Nhất là những ấn bản đầu tiên? Nếu có anh vui lòng chia cho
tôi với. Cám ơn anh nhiều.
nguyenngocchinh wrote on Jun
18, '11
songhong said “Anh có còn giữ
được tờ Hành Trình nào không? Nhất là những ấn bản đầu tiên? Nếu có anh vui
lòng chia cho tôi với. Cám ơn anh nhiều.”
Thật đáng tiếc, tạp chí cũ
tôi không còn ấn phẩm nào nên không chia sẻ với anh được. Riêng về sách thì tôi
còn giữ lại một số vả lại trên internet cũng còn khá nhiều các trang ebook và
thư quán.
andropause wrote on Jun 18,
'11
Sau khi đốt bỏ, một thời
gian sau em lại ra chợ sách cũ Đặng thị Nhu lùng kiếm lại được vài cuốn hay
hay! Dạo ấy em thích Duyên Anh, Nhật Tiến và Hoàng Hải Thủy (truyên phóng tác của
ông là khỏi chê). Cám ơn anh Chinh về bài viết rất công phu.
Em có hân hạnh học văn với
thấy Thế Uyên, còn Nguyễn Khắc Ngữ là cậu em (đã mất vì cancer khi qua Canada).
nguyenngocchinh wrote on Jun
18, '11
andropause said “Em có hân hạnh
học văn với thấy Thế Uyên”
Tôi cũng được học thầy Dũng
(Thế Uyên) năm Đệ Nhị trên Ban Mê Thuột!
darbluemx wrote on Jun 18,
'11
Doc bai nay lai nho den Ho
Huu Tuong, doi 13, trai Xuyen Moc. Hinh nhu ong ta da bo xac trong trai tu va
Duyen Anh cung di ra tu trai nay voi long bat man cua anh em dong canh ngo.
huynhhai wrote on Jun 19,
'11
Chỉ vài tháng sau 30/4/1975
đã thấy xuất hiện trên tạp chí Cộng Sản bài của 2 "đặc công" đốt sách
là Thạch Phương và Trần Hữu Tá. Bài đó được viết với một giọng văn của những kẻ
vừa thắng trận, cho rằng phần lớn các ấn phẩm phát hành tại miền Nam là phản động,
đồi trụy cả. Đến năm 1985 có thêm ông Trần Trọng Đăng Đàn. Ông nầy viết cả một
cuốn sách dày, giọng văn như thời đấu tố. Về sự kiện đốt sách tại VN sau khi Đảng
CS lên nắm quyền rất nên và cần có một nghiên cứu bài bản. Bài của ông Nguyễn
Ngọc Chính viết công phu, tóm lược về một giai đoạn đầy lo âu của trí thức, văn
nghệ sĩ miền Nam (có một chi tiết cần kiểm tra lại: Ông Nguyễn Bá Học là nhà
giáo, sau đó viết sách. Ông không là nhà cách mạng theo đúng nghĩa của từ nầy.
Có thể tác giả lầm với Nguyễn Thái Học chăng?).
nguyenngocchinh wrote on Jun
19, '11
huynhhai said “Bài của ông
Nguyễn Ngọc Chính viết công phu, tóm lược về một giai đoạn đầy lo âu của trí thức,
văn nghệ sĩ miền Nam (có một chi tiết cần kiểm tra lại: Ông Nguyễn Bá Học là
nhà giáo, sau đó viết sách. Ông không là nhà cách mạng theo đúng nghĩa của từ nầy.
Có thể tác giả lầm với Nguyễn Thái Học chăng?)”
Xin cám ơn huynhhai, tôi đã
edit lại phần viết về Nguyễn Thụy Long & Nguyễn Bá Học và đã bỏ cụm từ 'nhà
cách mạng'. Đa tạ.
lstochung wrote on Jun 25,
'11
Đọc bài của anh làm SK nhớ lại,
sau 30/4/1975 nghe các ông phường dọa, sợ quá đốt cả trăm cuốn sách. Sau này tiếc
hùi hụi và tự trách mình sao mà nhát quá.
thahuong82 wrote on Jun 25, '11
Tui nhà ở Huế cũng rất nhiều
sách, báo, lại có hàng ngàn tờ chương trình ciné (program) đủ các rạp ở Huế và
SG. sưu tầm, đổi chác từ lúc còn bé, nhưng có muốn giữ cũng không được vì Mạ
tui và thằng em trai nghe nói VC là chạy trối chết về phương Nam cho gần phe ta
vì nhớ lại Mậu Thân 68 bô đội cụ Hồ vào "giải phóng" đất Thần kinh 21
ngày đã chôn sống cả hơn 5 ngàn sinh linh kể cả dân thường và trẻ em, bản thân
tui và môt số bạn bè cùng trang lứa dù chỉ là SVSQ của các quân trường ĐL/TĐ/NT
cũng đã bị trói tay dẩn đi nhưng tui may mắn thoát được, mấy thằng bạn sau nầy
tìm thấy xác ở Chín Hầm, bà con tui cũng bị vài mạng. Còn tui thì ở BMT nơi bị
Cọng quân tấn công đầu tiên 13-03-75 nhưng cũng thoát hiểm tuy vậy tui cũng còn
giử được cuốn Kỷ Yếu của khóa4/70 SQ/TD với đầy đủ hình ảnh và bài viết của anh
em chiến hữu cùng khóa. Ai có ở cùng khóa liên lạc với tôi sẽ scan và gởi cho.
thinhngo wrote on Jun 26,
'11
Lại có dịp đọc thêm bài viết
giá trị của bạn Nguyễn Ngọc Chính. Phải kể "Đốt Sách" vào cái
"Thời điêu linh" ấy là tài liệu mà mỗi lần được nhắc lại không khỏi
nghẹn ngào và phẫn hận cho thân phận Dân Tộc ta. Dĩ nhiên đây chỉ là tóm lược
nhưng tác dụng rất sâu xa. Xin bổ khuyết nhà văn Nguyễn Vỹ một thời với sự cộng
tác của Minh Đức Hoài Trinh. Đặc biệt qua tác phẩm "Tuấn Chàng Trai Đất Việt"
và tập san Thế Giới Ngày Nay của nhà văn này.
nguyenngocchinh wrote on Jun
28, '11, edited on Jun 28, '11
thinhngo said “Xin bổ khuyết
nhà văn Nguyễn Vỹ một thời với sự cộng tác của Minh Đức Hoài Trinh. Đặc biệt qua
tác phẩm "Tuấn Chàng Trai Đất Việt" và tập san Thế Giới Ngày Nay của
nhà văn này”
Ngày xưa tôi rất thích tạp
chí Phổ Thông của Nguyễn Vỹ (loại tạp chí có khổ như Reader's Digest). Thích nhất
là mục "Mình ơi!" dưới hình thức hỏi-đáp về những kiến thức phổ thông
của hai vợ chồng, qua đó người đọc mở rộng sự hiểu biết về nhiều vấn đề thời sự.
Hình như anh Thịnh lộn
"Thế giới ngày nay" với tạp chí "Kiến thức Ngày nay" xuất bản
sau 1975 chăng?
penseedl wrote on Jun 27,
'11
Trong chuyện đốt sách của chế
độ mới có nhiều người không nghe theo và vẫn còn giữ lại nhiều sách, tài liệu
có giá trị mà sau này nhiều cán ngố đi tìm đọc lại để thấy sự đời nhiều khi tưởng
vậy mà không phải vậy...
No comments:
Post a Comment