Đọc “Bên Thắng Cuộc” (4/7)
Thứ Sáu, 28 tháng 12, 2012
Chuyện bên lề
(Tiếp theo)
Đây là bài cuối cùng trong
loạt bài Đọc ‘Bên Thắng Cuộc’. Bài viết này chỉ xoay quanh những câu chuyện nhỏ
trong cuốn sách. Tuy là chuyện bên lề nhưng tôi cho rằng rất thú vị vì mang nhiều
ý nghĩa trong giai đoạn lich sử của đất nước, từ năm 1975 cho đến nay.
Ngay sau ngày 30/4/1975,
chính quyền mới muốn thay đổi đến tận gốc rễ cuộc sống của người dân miền Nam.
Họ đã liên tiếp tung ra nhiều chiến dịch thuộc quy mô lớn như cải tạo viên chức
– quân nhân chế độ cũ, cải tạo công thương nghiệp, chính sách kinh tế mới… cho
đến những chuyện nhỏ như đợt phát động thanh niên “hớt tóc ngắn, sửa quần áo
lai căng, không để râu tóc”.
Theo Bên Thắng Cuộc, tháng
10/1975, ở Quận 10, Đoàn Thanh niên Cộng sản liên tục mở nhiều cuộc thảo luận về
“tư cách, tác phong của người thanh niên” và Quận Đoàn đã đi đến quyết định:
“Hớt tóc ngắn,
sửa lại áo, eo quần loe, quần bó, không mang áo hở ngực, không ăn mặc lố lăng,
sặc sỡ… Quận đoàn đã liên hệ với một số tiệm hớt tóc và nhà may để giới thiệu
anh em đến hớt tóc và sửa lại áo quần với giá rẻ và mở ba địa điểm hớt tóc miễn
phí tại phường Nhật Tảo và tại trụ sở quận đoàn”.
Ngay tại Sài Gòn, những người
vừa được “giải phóng” đã biết dùng những biểu tượng của chế độ mới như Karl
Marx, Angel, Lenin và Mao Trạch Đông qua thơ để ta thán về sự “bất bình thường”
của những người được mệnh danh là “giải phóng”. Trích từ Bên Thắng Cuộc:
Các-mác mà đến
Việt Nam
Râu dài tóc rậm công an bắt
liền
Các-mác cầu cứu Ăng-ghen
Ăng-ghen cũng phải đóng tiền
tóc râu
Truyền cho bốn biển năm châu
(Đến Việt Nam thì nhớ)
Râu Mao Chủ tịch tóc đầu Lê-
nin!
Cái hay trong thơ dân gian
là dùng hình tượng Mao Trạch Đông vốn “mày râu nhẵn nhụi” để làm chuẩn cho những
ai thích để râu còn Lenin “đầu hói” được lấy làm mẫu mực cho việc hớt tóc! Xem
ra, khổ thì có khổ nhưng những nhà thơ đường phố vẫn còn chút khôi hài để cười
cho quên cái khổ.
Về quần ống loe, tôi xin
trích dẫn chú thích số [348] khá dài của Huy Đức: “Từ Đông Đức trở về, quần áo
mà ông Lê Xuân Nghĩa mang theo cũng là quần loe vì nó đang là “mốt của toàn thế
giới”. Một hôm, ông đang đạp xe giữa đường phố Hà Nội thì bị công an ách lại và
ngang nhiên rạch cả hai ống quần từ gấu đến ngang hông.
Tức tối, ông Nghĩa về cơ
quan là Ủy ban Vật Giá để nhờ giúp phản đối chuyện can thiệp thô bạo. Nhưng, cả
lãnh đạo cơ quan và Bí thư Đảng ủy đều cho rằng công an làm thế là đúng. Chủ
nhiệm Ủy Ban Vật giá, ông Tô Duy nhận xét: “Cái quần nó loe thì đầu óc nó cũng
loe.
“Tuy, ít nơi chính thức ban
hành những “mệnh lệnh cấm đoán”; nhưng, nếu như các mệnh lệnh thường có giới hạn
thì các “phong trào” lại không có điểm dừng, nhất là khi các đoàn viên “hồng vệ
binh” được huy động để chống những “kiểu ăn mặc càn quấy” ấy.
Nhiều nơi, những người mặc
quần loe, để tóc dài đã bị các đoàn viên, có nơi bị công an, giữ lại dùng dao,
kéo cắt quần, cắt tóc giữa đường (Theo Đặng Phong, Tư Duy Kinh Tế Việt Nam).
Ông Phan Minh Tánh, Bí thư Đoàn Thanh niên Cách mạng miền Nam kể, khi ra Hà Nội
ông thấy, ở cơ quan Trung ương Đoàn cũng có bảng “không tiếp thanh niên mặc quần
loe để tóc dài”.
Sưu tầm trên internet, chúng
tôi gặp bức ảnh một người thanh niên tên Nguyễn Minh Tâm bị đeo tấm bảng trước
ngực có dòng chữ “Mê Nhảy Đầm” giữa thành phố Sài Gòn vừa đối chủ. Ngày ghi
trên bảng không rõ nhưng phía sau lưng anh là 4 chú bộ đội, không biết là vô
tình xuất hiện hay chính họ là người đạo diễn cảnh bêu riếu này.
Câu chuyện bên lề dưới đây
được Bên Thắng Cuộc viết lại qua lời kể của cô giáo Nguyễn Thị Hoàng Bắc dạy tại
trường Hoàng Văn Thụ, Nha Trang. Trong năm học 1976-1977 một học sinh lớp 10, lớp
do cô phụ trách, đã viết 4 câu thơ lên bàn học của mình:
Không muốn ngồi yên để đợi trông
Thích làm Từ Hải giữa muôn lòng.
Cộng lại những gì trong quá khứ,
Sản khoái trong lòng thoả ước mong
Theo cô giáo, điều quan trọng
không phải là học sinh này đã viết sai lỗi chính tả trong câu cuối cùng, thay
vì “sảng khoái” em viết “sản khoái”. Đó là một lỗi “cố ý” vì đoạn thơ có 4 chữ
bắt đầu bằng “Không”, “Thích”, “Cộng” và “Sản”, ghép lại thành cụm từ “Không
Thích Cộng Sản”.
Bên Thắng Cuộc bình luận:
“Thái độ ấy có lẽ đã qua mấy năm tích tụ, nhưng hành động viết ra thì chỉ là một
phút bốc đồng. Có người đã báo cáo và học sinh đó đã bị bắt, bị điều tra và bị
đuổi học”.
Cô giáo Nguyễn Thị Hoàng Bắc
kể thêm: “Tôi và một cô giáo đồng nghiệp khác (về sau định cư ở Canada) đã cố hết
sức giúp em. Hai chúng tôi đứng trước cửa lớp giờ tan học che cho một cô giáo
khác lấy dao cố cạo cho hết những nét khắc sâu vào gỗ của bài thơ nhưng có người
đã nhanh tay sao chép, gửi đi cho công an. Nét khắc còn lờ mờ nhưng vẫn là bằng
cớ”.
Không chỉ có những đứa trẻ bồng
bột phản ứng bằng những câu thơ viết trên bàn học, sự trải nghiệm “Sài Gòn giải
phóng” đã giúp nhà thơ Đỗ Trung Quân [1] thai nghén những vần thơ cũng đau như
dao cắt, nhưng nó không được dại dột khắc xuống mặt bàn để bàn tay học trò phải
nhận cây còng số 8.
Năm 1982, Đỗ Trung Quân (tác
giả Quê hương là chùm khế ngọt…” viết bài Tạ Lỗi Trường Sơn nhưng mãi tới năm
2009 tác giả mới công bố bài thơ này trên blog cá nhân. Bên Thắng Cuộc đã trích
lại bài thơ để minh chứng một góc nhìn của người dân Sài Gòn với những người đã
“giải phóng” mình:
Một ngàn
chín trăm bảy mươi lăm
Các anh từ Bắc vào Nam
Cuộc trường chinh 30 năm dằng
dặc
Các anh đến
Và nhìn Sài Gòn như thủ đô của
rác
Của xì ke, gái điếm, cao bồi
Của tình dục, ăn chơi
“Hiện sinh-buồn nôn-phi
lý!!!”
Các anh bảo con trai Sài Gòn
không lưu manh cũng lính ngụy
Con gái Sài Gòn không tiểu
thư khuê các, cũng đĩ điếm giang hồ
Các anh bảo Sài Gòn là trang
sách “hư vô”
Văn hóa lai căng không cội
nguồn dân tộc
Ngòi bút các anh thay súng
Bắn điên cuồng vào tủ lạnh,
ti vi
Vào những đồ tiêu dùng mang
nhãn Hoa Kỳ
Các anh hằn học với mọi tiện
nghi tư bản
Các anh bảo tuổi trẻ Sài Gòn
là “thú hoang”, nổi loạn
Là thiêu thân ủy mị, yếu hèn
Các anh hùa nhau lập tòa án
bằng văn chương
Mang tuổi trẻ Sài Gòn ra trước
vành móng ngựa!!!
Trong những năm đầu “giải
phóng”, những văn nghệ sỹ miền Bắc khi đến Sài Gòn vẫn thích đeo bên hông khẩu
K54. Những năm về sau, họ đã biết uống bia, biết áo phông (pullover), quần bò
(quần Jeans). Theo Đỗ Trung Quân, bài thơ Tạ Lỗi Trường Sơn, ngoài sự dồn nén
sau bảy năm “giải phóng”, còn lập tức “bật” ra thành chữ khi có một nhà văn miền
Bắc, đến trước mặt anh, chỉ đôi dép sa-bô, cái quần bò đang mặc và hỏi: “Ê
Quân, thấy bọn này Sài Gòn chưa?”.
Sài Gòn lại bắt đầu ghẻ lở
là chữ của Đỗ Trung Quân mà Huy Đức đặt tên một trong tiểu đề trong Bên Thắng
Cuộc. Khi ấy, năm 1982, Đỗ Trung Quân viết:
Bảy năm qua đi
với nhiều buồn vui đau xót
Một góc phù hoa ngày cũ qua
rồi
Những con điếm xưa có kẻ đã
trở lại làm người
giã từ ghế đá công viên để sống
đời lương thiện
Những gã du đãng giang hồ
cũng khoác áo thanh niên
xung phong lên rừng xuống biển
Tìm lại hồn nhiên cho cuộc sống
của mình
Cuộc đổi thay nào cũng nhiều
mất mát, hy sinh…
Và khi ấy
Thì chính “các anh”
Những người nhân danh Hà Nội
Các anh đang ngồi giữa Sài
Gòn bắt đầu chửi bới
Chửi đã đời
Chửi hả hê
Chửi vào tên những làng quê
ghi trong lý lịch của chính mình
Các anh những người nhân
danh Hà Nội
sợ đến tái xanh
Khi có ai nói bây giờ về lại
Bắc!!!
Tội nghiệp những bà mẹ già miền
Bắc
Những bà mẹ mấy mươi năm
còng lưng trên đê chống lụt
Những bà mẹ làm ra hạt lúa
Những năm thất mùa phải chống
gậy ăn xin
Những bà mẹ tự nhận phần
mình tối tăm
để những đứa con lớn lên có
cái nhìn và trái tim trong sạch
Bây giờ
Những đứa con đang tự nhận
mình “trong sạch”
Đang nói về quê mẹ của mình
như kẻ ngoại nhân
Các anh đang ngồi giữa Sài
Gòn nhịp chân
đã bờm xờm râu tóc, cũng quần
jean xắn gấu
Cũng phanh ngực áo, cũng xỏ
dép sa bô
Các anh cũng chạy bấn người
đi lùng kiếm tủ lạnh ti vi, casette, radio…
Rượu bia và gái
Các anh ngông nghênh tuyên
ngôn “khôn & dại”
Các anh bắt đầu triết lý “sống
ở đời”
Các anh cũng chạy đứt hơi
Rượt bắt và trùm kín đầu những
rác rưởi Sài Gòn thời quá khứ
Sài Gòn 1982 lẽ nào…
Lại bắt đầu ghẻ lở?
…
Tội nghiệp em
Tội nghiệp anh
Tội nghiệp chúng ta những
người thành phố
Những ai ngổn ngang quá khứ
của mình
Những ai đang cố tẩy rửa “lý
lịch đen”
Để tìm chỗ định cư tâm hồn bằng
mồ hôi chân thật
Xin ngả nón chào các ngài
“Quan toà trong sạch”
Xin các ngài cứ bình thản ăn
chơi
Hãy để yên cho hàng me Sài
Gòn
Hồn nhiên xanh muôn thuở
để yên cho xương rồng, gai
góc
Chân thật nở hoa
Này đây!
Xin đổi chỗ không kỳ kèo cho
các ngài cái quá khứ ngày xưa
Nơi một góc (chỉ một góc
thôi) Sài Gòn bầy hầy, ghẻ lở
Bây giờ…
Tin chắc rằng trong các ngài
đã vô số kẻ tin vào “thượng đế”
Khi sống hả hê giữa một
thiên đường
Ai bây giờ
Sẽ
Tạ lỗi
Với Trường Sơn?
Đỗ Trung Quân, “thanh niên
chậm tiến”, và một bài thơ mới
Xin trích lại nguyên văn đoạn
dưới đây trong Bên Thắng Cuộc, chuyện bên lề về ông Lê Duẩn. Phần bình luận
dành cho người đọc, dĩ nhiên tùy thuộc vào chính kiến và quan điểm của mỗi người:
“Tháng Giêng năm 1976, theo
đề nghị của ông Lê Duẩn, ông Đậu Ngọc Xuân và ông Trần Phương, theo đường bộ,
đi xe vào thẳng Sài Gòn. Ông Xuân kể, trước khi đi, Lê Đức Thọ dặn: “Vào Nam muốn
làm việc được, người ta kêu uống rượu, phải uống”. Tới Sài Gòn đã là cuối tháng
Chạp, ông Lê Duẩn bảo: “Năm nay ta ăn Tết ở đây, chú nào muốn về thì về trước”.
Ông Đậu Ngọc Xuân đã ở lại.
Sáng mùng Một Tết Bính Thìn,
bà Nguyễn Thị Thập bên Hội Phụ nữ mời tiệc, ông Lê Duẩn tới, mâm cỗ đã “bày la
liệt” nhưng ông không ngồi vào bàn. Khi các nữ lãnh đạo hội mời, ông nói: “Ăn Tết
làm gì, con cái miền Bắc chết ở Trường Sơn chưa ai nói tới đã nói là dân miền Bắc
vào đây vơ vét hàng hóa”.
Theo ông Đậu Ngọc Xuân thì
trước đó khi nghe bên công an báo cáo “miền Bắc vào đây vơ vét từ cái quạt máy,
xe đạp”, ông Lê Duẩn tức lắm nhưng ngay khi đó ông không nói gì. Bà Bảy Huệ,
phu nhân của ông Nguyễn Văn Linh, đỡ lời: “Thưa anh Ba, đấy chỉ là số ít. Chúng
em không bao giờ nói thế”.
Ông Lê Duẩn tiếp: “Các chị
không nói nhưng nghe ai nói phải vả vào mặt họ chứ. Có những việc ở trong này
tôi đã phải giấu đồng bào miền Bắc, ví dụ như chuyện các chị để cho bộ đội chết
đói ở Trường Sơn. Xương máu con người ta, người ta không tiếc, giờ mua cái quạt
thì các chị kêu ca”. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, nghe ông Lê Duẩn nói đến đó, “các
chị Nam Bộ khóc như mưa”.
Về quê
Bạn có biết “deux cents
bougies” là gì? và ai được gắn “danh hiệu” đó? Hãy đọc đoạn văn dưới đây trong
Bên Thắng Cuộc:
“Theo ông Võ Văn Kiệt, ngay
cả những bậc trí thức kháng chiến như Phạm Văn Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Nguyễn
Thành Vĩnh, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát đều quý mến ông Duẩn và gọi ông là
“ông deux cents bougies”, để diễn tả sức làm việc của ông như một “ngọn đèn 200
nến”. (?)
Chân dung ông Lê Duẩn trong
những ngày lãnh đạo kháng chiến ở miền Nam được bà Nguyễn Thụy Nga [2] còn có
tên Nguyễn Thị Vân, bí danh Bảy Vân, người vợ thứ hai của ông, mô tả như sau:
“Anh mặc quần rách đít, áo
rách cùi chõ, người anh lúc đó nặng bốn mươi bảy ký nhưng vì cao nên trông anh
khô quắt, khô queo, áo quần thì nhuốn màu phèn Đồng Tháp Mười. Sinh hoạt của
anh làm tôi xúc động.
Những người như ông Phạm Văn
Bạch, Phạm Ngọc Thuần, Lê Thành Vĩnh trong Uỷ Ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ,
người nào cũng có nhà cửa, có người bảo vệ, người nấu bếp, tuy ở nhà lá nhưng cũng
rất đàng hoàng. Còn anh, chỉ có một chiếc thuyền tam bản, đến cơ quan nào, đến
nhà bà mẹ nào, anh em thư ký, bảo vệ leo lên nhà ngủ, còn anh ngủ dưới ghe. Anh
nhường nhịn điều kiện tốt cho mọi người”
Nguyễn Thụy Nga (Bảy Vân)
Loạt bài viết về Bên Thắng
Cuộc xin “tạm ngưng” ở đây với những chuyện vui buồn bên lề góp nhặt từ Cuốn I
“Giải Phóng”. Sở dĩ tôi viết “tạm ngưng” vì chắc chắn còn có nhiều điều để bàn
khi Cuốn 2 “Quyền Bính” ra mắt bạn đọc.
Chúng ta lại còn tiếp tục
nói đến “Hậu-Bên-Thắng-Cuộc” vào năm 2013 khi Huy Đức hoàn tất học bổng Nieman
Fellowship tại Havard (Boston). Liệu Huy Đức có trở về Việt Nam?
***
Chú thích:
[1] Đỗ Trung Quân sinh
năm1955 tại Sài Gòn, là một nhà thơ với một số bài được phổ nhạc và được nhiều
người yêu thích như Quê hương, Phượng hồng tại Việt Nam... Anh còn được biết đến
với nhiều nghề "tay trái" khác như MC cho những chương trình ca nhạc
của bạn bè hay làm diễn viên cho một số phim truyền hình.
Theo bài phỏng vấn trên báo
Vietnam News giữa năm 2005 thì trong khai sinh của anh không có tên cha. Đỗ
Trung Quân được mẹ là bà Đỗ Thị Hảo nuôi lớn đến năm 15 tuổi thì mẹ mất. Anh tiếp
tục mưu sinh và sau khi tốt nghiệp Tú tài, vào học tại Đại học Vạn Hạnh.
Năm 1979, Đỗ Trung Quân tham
gia phong trào Thanh niên Xung phong và bắt đầu sáng tác. Một số bài thơ phổ nhạc
được nhiều người biết đến như:
Hương tràm (1978), Vũ Hoàng
phổ nhạc
Bài học đầu cho con (1986),
Giáp Văn Thạch phổ nhạc thành bài Quê hương
Chút tình đầu (1984), Vũ
Hoàng phổ nhạc thành bài Phượng hồng (1988)
Khúc mưa, Phú Quang phổ nhạc
Trang blog “Chung Do Kwan”,
nhại theo tên Hàn Quốc của Trung Đỗ Quân, khá nổi tiếng trong giới blogger tại
Việt Nam (http://dotrungquan.com/).
Anh giải thích về cái tên “củ sâm” của mình:
“Cái tên ấy thật sự chỉ là
cách đọc trại tên thật của tôi: Đỗ Trung Quân mà thôi. Nó mang ý nghĩa vừa hài hước vừa tự châm biếm mình trong giai
đoạn mà ảnh hưởng văn hóa của xứ “Củ sâm” hầu như chiếm lĩnh xã hội ta từ giải
trí, tiêu dùng đến cả hôn nhân gia đình.
Sự chiếm lĩnh có lẽ chỉ đứng sau ảnh hưởng của phim ảnh văn hóa Trung Quốc. Tất
nhiên, chủ nhân blog cũng không phủ nhận những ảnh hưởng cần thiết, tốt đẹp
giao thoa của mọi nền văn hóa có tính toàn cầu”.
Đỗ Trung Quân trong thời
gian gần đây thường xuất hiện tại các cuộc biểu tình của người Sài Gòn chống
Trung Quốc xâm lược.
Tranh của Đỗ Trung Quân
[2] Nguyễn Thụy Nga: Huy Đức
viết về cuộc tình của bà Nga và ông Lê Duẩn, vốn được các đồng chí của ông gán
cho danh hiệu “ông 200 bougies” nhưng cũng có thể là “ông 400 bougies” khi có một
người như bà Nga “kề cận chăm sóc”:
“Bà Nguyễn Thị Nga sinh năm
1925, con của một tri huyện cáo quan về viết báo và mở lò gạch tại Biên Hòa.
Theo bà Nga thì cha bà đã từng là chủ bút tờ báo tiếng Pháp ‘La Tribune
Indigène’. Năm mười hai tuổi, cô tiểu thư Nguyễn Thụy Nga đã từng phải khai tăng
tuổi để thi. Năm mười bốn tuổi, Thụy Nga theo “mấy chú” đi hoạt động và cũng từ
đây, cô “trót yêu một đồng chí đã có gia đình”.
Người tình “đồng chí” của bà
Nga chính là “hung thần chợ Đệm” Nguyễn Văn Trấn, một trong những người cộng sản
lãnh đạo “cướp chính quyền” ở Sài Gòn năm 1945. Đây là cuộc tình mà “cả hai người
vừa duy trì, vừa kìm nén trong suốt mười một năm”. Năm 1948, mối quan hệ của
hai người bị lộ và bị Tỉnh ủy Cần Thơ họp kiểm điểm. Bà Nga bị buộc phải chuyển
về Sài Gòn công tác.
Đúng lúc ấy, ông Lê Duẩn từ
Đồng Tháp Mười xuống Cần Thơ, dự cuộc họp Tỉnh ủy, ông cũng được nghe câu chuyện
tình của bà Nga, bấy giờ đang là nữ đoàn trưởng Phụ nữ Cứu quốc. Bà Nguyễn Thị
Nga được Tỉnh ủy giao nhiệm vụ kiểm tra bữa ăn sáng mà Tỉnh tổ chức cho Bí thư
Xứ ủy.
Khi được ông Lê Duẩn hỏi
thăm về việc bị buộc chuyển công tác, bà Nga nói: “Lên Sài Gòn, đối với tôi là
một công tác mới và khó, nguy hiểm nữa, nhưng tôi vui vẻ chấp nhận, không băn
khoăn gì. Nhưng bảo tôi thôi yêu người tôi đã yêu thì khó làm được. Xa nhau cũng
được nhưng yêu là do trái tim tôi, đừng bắt buộc.
Theo bà Nga thì khi ấy ông
Duẩn không phát biểu gì nhưng khi trở về Xứ ủy, gặp Lê Đức Thọ, ông nói: “Nếu
có cưới vợ thì tôi thích người có tình, chung thủy như chị Nga”.
Ít lâu sau, Lê Đức Thọ xuống
Cần Thơ công tác, gặp bà Nga: “Anh Ba muốn hỏi chị làm vợ, chị nên ưng anh ấy
đi. Anh xa nhà hai mươi năm không có tin tức gì, gia đình anh còn ở vùng địch.
Nếu chị làm vợ anh ấy, chị chăm sóc anh để anh có sức khoẻ làm việc, đó cũng là
một nhiệm vụ. Hiện nay trong lãnh đạo, anh ấy rất thông minh và sáng suốt, anh
em thường gọi là ông 200 bougies, khi có người kề cận chăm sóc thì anh ấy sẽ trở
thành 400 bougies. Sự sáng suốt của anh ấy rất có lợi cho cách mạng”
Bà Nguyễn Thụy Nga cùng con
gái Vũ Anh, con trai Lê Kiên Thành, Lê Kiên Trung
chụp trước khi chia tay các
con vào Nam năm 1964.
(Ảnh tư liệu gia đình)
Bà Nguyễn Thụy Nga nhớ lại:
“Nghe anh Sáu Thọ nói, tôi chưng hửng, vì trong lòng tôi lúc nào anh cũng là một
lãnh tụ mà mọi người kính yêu. Tôi lúc nào cũng ghi chép, đồng chí Lê Duẩn nói
thế này, đồng chí Lê Duẩn nói thế kia. Tôi suy nghĩ mãi. Một lần tôi lấy hết
can đảm hỏi anh: ‘Nếu bây giờ anh lấy vợ, sau này về gặp gia đình, phải giải
quyết sao đây?’.
Anh nói: ‘Anh cưới vợ trước
kia là do cha mẹ cưới cho. Anh đi cách mạng, vợ ở nhà, sau có đưa ra Hà Nội ở một
thời gian nhưng anh thấy hai người không hợp nhau. Có hai lần anh về nhà, anh
nói với chị ấy nên tìm người chồng khác, anh đi cách mạng không giúp được gì
cho gia đình và không biết sống chết ra sao. Nhưng người phụ nữ miền Trung còn
phong kiến hơn phụ nữ trong Nam, đã có chồng rồi thì ở nhà lo cho cha mẹ chồng,
nuôi con. Chồng đi xa có lấy thêm vợ thì người phụ nữ miền Trung cũng dễ chấp
nhận. Nếu sau này giải phóng chị cũng sẽ ở trong quê với cha và mấy đứa con,
lâu lâu anh về thăm. Còn chúng mình đi hoạt động cách mạng, có điều kiện gần gũi
nhau, chắc không có gì khó khăn”
8 nhận xét:
Nam Ròm16:09 28 tháng 12,
2012
Em đã đem về hết 4 bài viết
của anh rồi ,cám ơn anh .
Em dự định đem hết 4 bài này
gom vào thành một PDF file (nếu được) ,anh thấy sao ? cho ra riêng hay gọp
chung cái nào hay hơn ?
Trả lời
Trả lời
Ngoc Chinh Nguyen16:37 28
tháng 12, 2012
Anh thấy gom chung vào một
PDF file thì hay hơn. Cám ơn trước nhé.
Nam Ròm16:56 28 tháng 12,
2012
Ok ,khi rảnh em sẽ gom lại
thành 1 PDF file .
Trả lời
Nặc danh10:28 16 tháng 2,
2013
According to "Ve
R" by Kim Nhat, an ex-Vietcong, Mr. Le Duan's underlings repeatedly
pressured Mrs. Thuy Nga to marry him, but she refused. One night, she was
ordered to report to Mr. Le Duan for a new mission (mot cong tac moi). In an
isolated thatched roof cottage, she was raped by Mr. Le Duan, and got pregnant.
She therefore had to marry him.
Trả lời
Trả lời
Nặc danh02:20 26 tháng 3,
2013
You are absolutely right
Trả lời
Nặc danh13:20 17 tháng 9,
2014
Tác giả viết thì khá
trơn tru và khôn ngoan lắm.
Tuy nhiên, khi theo dõi để
đọc thì lại không biết
đường nào mà rờ. Tác
giả vô tình hay cố ý vậy?
Cám ơn.
Trả lời
Trả lời
Ngoc Chinh Nguyen18:46 17
tháng 9, 2014
Viết loạt bài "Đọc Bên
Thắng Cuộc" tôi không có tham vọng tóm tắt được hết nội dung của cuốn
sách, trái lại, tôi chỉ khai thác những chủ đề mà mình quan tâm, thế cho nên
người đọc có thể "không biết đường nào mà rờ"! Rất nhiều người đã viết
về Huy Đức và tác phẩm của anh nên những bài viết của tôi chỉ là một "cái
nhìn" trong vô vàn "cách nhìn" khác. Dù sao đi nữa cũng xin cảm
ơn bạn về những nhận xét đã nêu.
Trả lời
Nặc danh21:56 19 tháng 9,
2014
9/19/2014 10:39 AM
Cám ơn Tác Giả đã trả
lời.
Người Đọc không ngụ ý
về Huy Đức dâu.
Nếu TGiả không
"mind" thì "confirm" lại những Tựa đề
của từng chương, để biết
là mình đọc đúng theo
thứ tự của người viết.
Cám ơn "again".
Trả lời
***
No comments:
Post a Comment