Báo chí Việt-Nam (5/7): Sài Gòn thời VNCH
Báo chí Sài Gòn thời
VNCH (1)
Kể từ khi tờ báo đầu tiên -
Gia Định báo - xuất hiện tại Sài Gòn từ năm 1865 dưới thời Pháp thuộc, nghề báo
đã phát triển không ngừng với một đội ngũ chủ báo và người viết báo ngày càng
nhiều và thị trường báo chí ngày càng đa dạng tại miền Nam trong suốt thời Đệ Nhất
và Đệ Nhị Cộng hòa (1954-1975).
Biến cố chính trị năm 1954 với
cuộc di cư vào Nam của hơn 1 triệu người miền Bắc đã mang lại một sắc thái mới
mẻ trong sinh hoạt văn nghệ của Sài Gòn nói chung và trong làng báo Sài thành
nói riêng. Ở miền Bắc, báo chí chỉ dành cho giới trí thức, ngược lại, báo chí
miền Nam đã ăn sâu vào tận sinh hoạt hàng ngày của người lao động. Người đạp
cyclo, tài xế taxi, giới tiểu thương cũng có tờ nhựt trình để đọc những khi vắng
khách.
Quầy bán báo
Thói quen đọc báo đã ăn sâu
vào nếp sống của người Sài Gòn và đến khi có cuộc di cư của người Bắc, sinh hoạt
báo chí lại nở rộ. Người ta thấy xuất hiện nhiều tờ báo mới như Tự Do, Ngôn Luận,
Chính Luận… Người đọc báo cũng dần dần làm quen với những tên tuổi mới như Thanh Nghị, Đặng Văn Sung, Từ Chung,
Thanh Nam, Thái Thủy, Hoàng Hải Thủy…
Tờ Tự Do quy tụ các tên tuổi
như Tam Lang (chủ nhiệm), Mặc Thu (quản lý), Như Phong (thư ký tòa soạn) và một
số nhà văn, nhà thơ “di cư” như Ðinh Hùng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Ðỗ, Tạ Quang
Khôi… Phần nội dung có các mục đặc biệt như “Chuyện Hàng Ngày” do Tam Lang phụ
trách, Ðinh Hùng viết thơ châm biếm “Ðàn Ngang Cung” với bút hiệu Thần Ðăng và
một truyện dài dã sử nhiều kỳ mang tên “Kỳ Nữ Gò Ôn Khâu” với bút hiệu Hoài Ðiệp
Thứ Lang. Tự Do còn có mục hí họa, tranh châm biếm mang tính cách “tố cộng”.
Theo Tạ Quang Khôi, sở dĩ tờ
Tự Do bị đình bản vì lý do chính trị. Phủ Tổng thống thấy báo Tự Do được dân Bắc
di cư ủng hộ thì không vui, vì nhóm chủ trương và nhân viên tòa soạn không ai
có đạo Thiên chúa, lại không có ai là người miền Trung. Thế rồi báo đình bản ít
lâu lại tái xuất hiện với chủ nhiệm và quản lý mới, đó là hai ông Phạm Việt Tuyền
và Kiều Văn Lân. Hai ông này không những theo đạo Thiên chúa mà còn là nhân
viên phủ Tổng thống.
“Ông Như Phong vẫn làm thư
ký tòa soạn, ông Nguyễn Hoạt vẫn là một nhân viên tòa soạn. Ông còn viết thêm mục
“Chuyện Hàng Ngày” với bút hiệu Hiếu Chân. Mục này được đổi tên là “Nói Hay Ðừng”.
Ngoài Hiếu Chân còn hai người nữa cũng viết trong mục này, là nhà văn đường rừng
Tchya Ðái Ðức Tuấn. Bút hiệu của ông trong “Nói Hay Ðừng” là Mai Nguyệt. Người
thứ ba là Phạm Xuân Ninh, tức Hà Thượng Nhân, với bút hiệu Tiểu Nhã. Ông nói
lái “Nói Hay Ðừng” thành “Nứng Hay Ðòi”. Mục này được độc giả rất hâm mộ vì lối
viết sắc bén và châm biếm của các tác giả”.
Khi báo Tự Do của nhóm “người
Bắc di cư” đình bản, một số cây bút chạy sang cộng tác với Ngôn Luận, một tờ
báo được chính phủ Ngô Đình Diệm “ưu ái” qua vai trò “Giám đốc Chính trị” của
Hà Ðức Minh. Về sau, Ngôn Luận có Từ Chung về làm thư ký tòa soạn.
Ngôn Luận có mảng thu hút
thiến niên, nhi đồng qua mục “Bé Ngôn, Bé Luận” với các hí họa do họa sĩ Văn Ðạt
vẽ. Bản thân tôi ngày đó cũng thích mục này và đã có lần được đăng một truyện
ngắn trên phụ trang của Ngôn Luận. Về sau trên báo Chính Luận cũng có trang
“Mai Bê Bi” dành riêng cho độc giả nhỏ tuổi.
Ngôn Luận còn có mục “Giải
đáp tâm tình” của Kiều Diễm Hồng, cái tên do Tạ Quang Khôi đặt ra dù sau này
ông không còn phụ trách. “Thương hiệu” Kiều Diễm Hồng cũng “chạy” sang Chính Luận
trong mục “Mai Bê Bi”.
Tổng thống Ngô Đình Diệm bị
lật đổ qua cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 và nền Đệ nhất Cộng hòa cũng cáo
chung. Sang đến thời kỳ Đệ nhị Cộng hòa, tờ Chính Luận của nghị sĩ Ðặng Văn
Sung trở nên ăn khách khi Ngôn Luận đóng cửa và thu hút hầu hết các cây bút một
thời viết cho Ngôn Luận. Thư ký tòa soạn Chính Luận là Từ Chung, người sau này
bị cộng sản ám sát ngay gần nhà ở trường đua Phú Thọ. Chính Luận có bài xã luận
dưới đây về thời Đệ nhất Cộng hòa:
“Dưới thời Nhu, Diệm, không
biết có anh nào cắc cớ đã đẻ ra một đoàn thể có danh hiệu rất kêu: Công chức
Cách mạng Quốc gia.
…
Có một số thư ký phục vụ tại
những tỉnh nhỏ đã lâu năm, vì hoàn cảnh gia đình, xin thuyên chuyển đến tiếp tục
công vụ tại những nơi thuận tiện cho họ hơn, nhưng đơn xin của họ chẳng bao giờ
được xét tới, mặc dầu dưới thời “Cách mạng Nhân vị” người ta thường lập đi lập
lại câu châm ngôn “Cách mạng Quốc gia nhằm thực hiện công bằng xã hội”.
Tức cười hơn hết là cựu Bộ
Trưởng Nguyễn Đình Thuần hồi đó đã trả lời trước Quốc hội bù nhìn, câu hỏi của
một vài dân biểu về việc thuyên chuyển công chức: “Những nhân viên được chỉ định
đến làm việc tại các tỉnh là những người phạm kỷ luật hoặc là những người phục
vụ đắc lực tại địa phương”. Câu trả lời đầy mâu thuẫn đó đã làm cho một số người
thắc mắc. Người ta tự hỏi: “Ngoài hai hạng công chức này, còn có thể có hạng
công chức thứ ba phải ở lại các tỉnh nhỏ . . . muôn năm nữa không? Hạng công chức
ấy phải chăng là những kẻ không có khả năng . . . “chè lá” cho những ông công
chức khác có trách nhiệm về việc quản trị nhân viên công chức?”.
Chính Luận cũng đưa tin những
trận hải chiến giữa VNCH và Trung Cộng từ ngày 17 đến 19/1/1974 [1]. Tờ báo
"giật" nhiều tít nóng bỏng như: “VC [Việt Cộng] bác bỏ đề nghị VNCH
lên án vụ TC [Trung Cộng] chiếm H. Sa”; “Giờ phút chót của Ty Khí Tượng Hoàng
Sa chứng nhân 24 năm qua tại vùng tranh chấp”; “Nga lên án TC đánh chiếm Hoàng
Sa, thúc LHQ buộc TC phải thương thuyết”…
Trên Chính Luận còn in hình di ảnh của HQ Thiếu tá Nguyễn Thành Trí, thuộc
Hộ tống hạm Nhựt Tảo (HQ 10), tử trận tại Hoàng Sa.
Chính Luận đưa tin về cuộc hải
chiến giữa VNCH và Trung Cộng trên đảo Hoàng Sa
Dân gian có câu “nhà báo nói
láo ăn tiền”. Câu nói mang tính cách miệt thị nghề báo nhưng nhiều nhà báo vẫn
say mê với cái nghề… nói láo ra tiền. Cũng vì người đọc nhận xét về tài “nói
láo” của nhà báo nên ký giả Vũ Bằng [1] đã viết hẳn một cuốn hồi ký mang tên “Bốn
mươi năm nói láo” để kể lại chuyện 40 năm lăn lộn trong nghề báo. Ông viết
trong tập hồi ký:
“Người mẹ nào sinh con lại
chẳng muốn cho con sau này ăn nên làm ra, có vai có vế nhưng Mẹ ơi, con đành chịu
tội bất hiếu với mẹ: nếu trở lại làm người con cứ lại xin làm báo!”
Biến cố đặc biệt nhất trong
làng báo Sài Gòn là chuyện “ký giả xuống đường đi ăn mày” vào ngày 10/10/1974 để
phản đối Sắc luật 007 của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Sắc luật này quy định muốn
ra nhật báo phải đóng ký quỹ 20 triệu đồng (ngày đó số tiền này tương đương với
khoảng 47.000 USD), báo định kỳ đóng 10 triệu. Số tiền này rất lớn khiến nhiều
báo không có tiền ký quỹ đành phải đóng cửa. Cũng theo điều luật này, tờ báo
nào bị tịch thu lần thứ hai do có bài vi phạm an ninh quốc gia và trật tự công
cộng thì sẽ bị đóng cửa vĩnh viễn.
Đã có nhiều tờ báo bị đóng cửa,
chủ báo bị phạt, bị tịch thu tiền ký quỹ, một số người còn bị tù. Theo thống kê
không chính thức, khi đó có khoảng 70% người làm báo bị thất nghiệp. Trước tình
hình bi đát này, các nghiệp đoàn ký giả Sài Gòn đã tập hợp lại để tìm ra một biện
pháp nhằm cứu nguy cho báo chí.
Ký giả đi ăn mày
Hồi ký không tên của dân biểu
kiêm nhà báo Lý Quí Chung cho biết: “…Có vài con số thống kê đáng chú ý như
sau: từ vụ xử đầu tiên theo sắc luật 007/72 (tờ báo bị đưa ra Tòa án Quân sự Mặt
trận Biệt khu thủ đô đầu tiên là Điện Tín ngày 18/8/1972) cho đến hết năm 1973
có tất cả 228 vụ tịch thu và truy tố báo chí. Trước đó khi chưa có sắc luật
007/72, từ tháng 12/1969 đến tháng 8/1972 có đến 5.000 vụ “vi phạm luật báo
chí” cũ (luật 019/69)”.
Theo Lý Quý Chung, có 4 tổ
chức báo chí khởi xướng nhưng chỉ cần nhìn vào những nhân vật dẫn đầu cuộc biểu
tình thì biết ai đứng sau lưng sự kiện lịch sử của báo chí Sài Gòn.
Ngoài chủ tịch Nghiệp đoàn
Nam Việt Nguyễn Kiên Giang, các nhà báo lão thành như Nam Đình (chủ báo Thần
Chung và sau là Đuốc Nhà Nam), Trần Tấn Quốc (chủ nhiệm tờ Tiếng Dội Miền Nam)
còn có các nhà văn – nhà báo Tô Nguyệt Đình tức Nguyễn Bảo Hóa, nhà báo Văn Mại
(cựu Tổng thư ký tòa soạn báo Buổi Sáng), nhà thơ Quốc Phượng, nhà báo Kiên
Giang Hà Huy Hà… đều là nhà báo cộng sản chính cống hoặc ít ra cũng… “thiên cộng”.
Chính quyền biết trước cuộc
xuống đường vì trong làng báo cũng có nhiều ký giả “giả”, ký giả chỉ điểm, ký
giả “ăng ten”, ký giả làm việc cho trung ương tình báo… Tuy nhiên, họ vẫn không
thể ngăn chặn cuộc xuống đường lấy hình ảnh “ký giả ăn mày”. Mỗi ký giả tham dự
đều được phát một nón lá, một bị cói và một cây gậy giống hệt người ăn mày. Lực
lượng chính hỗ trợ cho nhà báo là các dân biểu, nghị sĩ đối lập, trong đó có
nhiều người đồng thời là nhà báo như Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung và Lý Quý
Chung.
Lý Quý Chung kể lại trong cuốn
hồi ký đã dẫn: “Cuộc xuống đường xuất phát từ trụ sở của Nghiệp đoàn ký giả Nam
Việt, nằm trên đường Lê Lợi, giáp đường Tự Do (nay là Đồng Khởi). Lộ trình dự định
của đoàn biểu tình là tuần hành trên đại lộ Lê Lợi, nhắm thẳng vào chợ Bến
Thành nơi có đông đảo quần chúng chờ đợi…
…
Thật sự trước các nhà báo,
các dân biểu, nghị sĩ, nghệ sĩ, trí thức rất hiền lành, lực lượng cảnh sát cũng
không hăng hái lắm để ra tay đàn áp nếu họ không bị khiêu khích hoặc kích động
làm mất đi sự bình tĩnh. Do đó khi đám đông “ký giả đi ăn mày” rướn tới một
cách quyết liệt là hàng rào cảnh sát tự vỡ ra và dòng người biểu tình cuồn cuộn
đổ.
Ra đại lộ Lê Lợi như dòng
sông đổ ra biển. Người dân hai bên đường hoan hô người biểu tình, nhiều người
hào hứng nhập vào đoàn, nhất là thanh niên học sinh. Đến chợ Bến Thành, những
người buôn bán trong chợ ào ra “bố thí”. Các ký giả ăn mày, nhét vào bị của
chúng tôi đủ thứ bánh trái và quà tặng khiến cho hình ảnh ký giả đi ăn mày càng
đậm nét..."
Ký giả ăn mày đụng độ với cảnh
sát
Một trong những nhân vật nổi
tiếng trong làng báo vào thập niên 1960 là nhà văn Chu Tử. Ông ra tờ Sống và
báo thu hút một số lượng lớn người đọc với các tiết mục được ưa thích như “Ao
Thả Vịt” (trên trang nhất), “Thơ Đen” và trang nhạc trẻ. Báo Sống thường chạy
tít rất “giật gân” như: “66 triệu của Tống nha Ngân khố bay đằng nào…” hoặc “5
phút ‘hàn huyên’ với tử tội ‘chịu chơi’ Đặng Cao Sách”…
Nhật báo Sống
Những cây viết cộng tác với
Sống có các nhà văn, nhà báo Tú Kếu, Nguyễn Mạnh Côn, Bùi Giáng, Trùng Dương...
Nhật báo Sống đăng tiểu thuyết nhiều kỳ (feuilleton) Loan Mắt Nhung của Nguyễn
Thụy Long, từ đó nhà văn này trở thành nổi tiếng với công chúng.
Trong Hồi Ký Viết Trên “Gác
Bút” (nxb Văn Nghệ, California, 1999) Nguyễn Thụy Long tiết lộ: “Tác phẩm đầu
tay của tôi là Loan Mắt Nhung ra đời và làm nên văn nghiệp của tôi được xuất hiện
trên tờ báo Sống, do sự khuyến khích của ông Chu Tử… Tôi chính thức là ký giả của
báo Sống, nhưng cũng đánh lẻ cho nhiều báo như một số anh em ký giả khác…”
Sau cuộc đảo chính lật đổ
chính phủ Ngô Đình Diệm ngày 1/11/1963, Nguyễn Thụy Long bước vào nghề qua nhật
báo Sống từ lúc tờ báo ra mắt cho đến ngày báo đình bản. Chu Tử có rất nhiều
“con nuôi” và ông gả một trong số các con nuôi cho Nguyễn Thụy Long.
Vì bất đồng chính kiến, tòa
báo Sống bị Lực lượng Tranh thủ Cách mạng của phe Phật giáo cực đoan tấn công
năm 1966. Cũng vào thời điểm này, sáng ngày 16/4/1966, Chu Tử bị mưu sát khi vừa
ra khỏi nhà, ông bị trúng đạn nhưng thoát chết. Nhiều người cho rằng cuộc khủng
bố này do Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam chủ trương.
Tòa soan nhật báo Sống bị tấn
công
Cuối thập niên 1960 báo Sống
bị thu hồi giấy phép vì chỉ trích việc chính phủ cho Quân đội Hoa Kỳ toàn quyền
sử dụng căn cứ Cam Ranh. Chu Tử ra tiếp tờ Sóng Thần vào tháng 10/1971 và bị
rút giấy phép vào tháng 2/1975. Nữ ký giả Trùng Dương là người có liên quan trực
tiếp đến Sóng Thần cho biết:
“Khởi thủy Sóng Thần là cơ
quan ngôn luận của nhóm chống tham nhũng Hà Thúc Nhơn (tên một đại úy y sĩ đã bị
sát hại vào năm 1970 trong khi đơn thương độc mã chống tham nhũng trong chính
quyền Nha Trang). Nhóm này gồm Bác sĩ Phạm Văn Lương, Giáo sư Nguyễn Liệu, Hà
Thế Ruyệt, Phan Nhự Thức, Uyên Thao, Lý Đại Nguyên và một số người khác tôi
không nhớ hết tên, và những người vì lý do riêng, không muốn công khai”.
Sóng Thần được hình thành là
do đóng góp tiền bạc dưới hình thức mua cổ phần của các cổ đông và độc giả. Tờ
báo có trụ sở đặt tại 133 đường Võ Tánh, Sài Gòn do Trùng Dương đứng tên làm chủ
nhiệm, Chu Tử làm chủ biên, Nguyễn Đức Nhuận lo trị sự và Uyên Thao điều hành với
tư cách tổng thư ký.
Sóng Thần chống tham nhũng
ngay từ lúc đầu nhưng không chống chính phủ như một số báo chí ngoại quốc hồi ấy
xếp loại là “anti-government”. Về sau này, sau khi nhật báo Đuốc Nhà Nam của ký
giả lão thành Trần Tấn Quốc tự ý đóng cửa để phản đối luật báo chí mới
007/1972, Sóng Thần mời được bỉnh bút Ngọa Long về cho có mầu sắc người Miền
Nam vì đa số thành phần biên tập là những người gốc miền Bắc di cư năm 1954.
Riêng về các nhà văn viết
feuilleton cho Sóng Thần thì khởi thủy gồm có Nguyên Vũ, Cung Tích Biền, Nguyễn
Thụy Long, Vũ Ngọc Đĩnh, Hoàng Hải Thủy… sau tăng cường thêm hai nhà văn nữ Túy
Hồng và Nguyễn Thị Thụy Vũ.
Trùng Dương cho biết thêm về
phiên tòa “lịch sử” ngày 31/10/1974, ngày Sóng Thần ra trước vành móng ngựa. Tờ
báo chạy tít “Ngày dài vô tận”:
“Tờ báo bị Bộ Nội Vụ của
chính phủ Nguyễn Văn Thiệu đưa ra toà xử về tội đã đăng nguyên văn bản cáo trạng
số 1 của Phong Trào Nhân Dân Chống Tham Nhũng do Linh Muc Trần Hữu Thanh chủ xướng
với sự tham gia của 300 linh mục. Tổng cộng có 205 luật sư tình nguyện ra toà
biện hộ cho Sóng Thần và quyền tự do báo chí”.
"Ngày dài vô tận"
của Sóng Thần
Chuyện lạ trong làng báo: chủ
nhiệm Sóng Thần là nhà báo nữ Trùng Dương nhưng báo chí Sài Gòn còn “lạ” hơn
khi có một chủ báo kiêm chủ bút cũng là phụ nữ: bà Bút Trà đứng tên tờ Sàigòn Mới
nổi tiếng một thời trong làng báo Sài Gòn.
Điều “lạ” hơn nữa là bà Bút
Trà không phải là dân làm báo hay làm văn nghệ mà chỉ là một thương gia giàu có
đã đưa Sàigòn Mới thành tờ báo ưa thích của giới bình dân.
Báo Saigon Mới
Bà Bút Trà, nhũ danh Tô Thị
Thân, kết hôn với một ông nhà giàu người Tàu làm chủ khoảng 20 cơ sở kinh doanh
nghề “cầm đồ”. Lý do bà nhẩy sang nghề làm báo cũng thật ly kỳ. Nhà văn Bình
Nguyên Lộc [4] đã kể lại trong “Hồi Ký Văn Nghệ” như sau:
“Bà nhà giàu nầy [Tô Thị
Thân], về sau, khi lấy chồng Việt Nam, đã xây cất biệt thự lớn ở Phú Nhuận,
nhưng bà ấy nhứt định tiếp tục sống trong căn nhà liên-kế, tòa soạn của tờ nhựt
báo Sàigòn Mới, chớ không chịu dọn về ngôi biệt thự đẹp, vốn bỏ không… Bà mang
tục danh là “Bà chị Bồn binh”, chỉ vì bà bám mãi vào căn nhà thuê trước cái bồn
cỏ tròn, nằm giữa tòa soạn của bà và chợ Bến Thành”.
Hồi đó báo chí Sài Gòn, có lẽ
vì thiếu đề tài khai thác, nên “đánh hội đồng” nghề cầm đồ với lý do tiệm cầm đồ
“hút máu dân nghèo”, chính phủ cần phải rút giấy phép! Bị đụng chạm nghề nghiệp
nên bà Tô Thị Thân có nói với Tô Văn Giỏi, anh họ của Bình Nguyên Lộc, nguyên
văn như sau: “Em Giỏi nè, em có biết ông nào viết nhựt trình thiệt giỏi, mà ăn
lương rẻ hay không?”. Đầu óc của những người kinh doanh vào thời nào cũng thế:
đòi hàng tốt mà giá lại rẻ!
Chính mắt bà Bút Trà xem lại
bài vở của nhân viên tòa soạn trước khi đăng và cũng chính tay bà chọn bài lai
cảo… Nhà văn Trọng Nguyên, Tổng thư ký tòa soạn Saigon Mới đã có lần tâm sự với
Bình Nguyên Lộc:
“Khi nào bà ấy quá bận về việc
khác, bà ấy chỉ thị cho tôi làm việc, đúng y như bà đã làm. Có tôi, bà cũng cứ
thủ vai chánh. Bà chỉ cần tôi về mặt kỹ
thuật mà thôi. Tôi chết đi, bất kỳ ai thay thế cũng được, bởi cứ còn bà.”
Bình Nguyên Lộc ngỏ lời muốn
cộng tác với Saigon Mới, bà Thân từ chối thẳng thừng: “Tôi chỉ đăng bài mà chị
bán cá có đọc cũng hiểu. Cậu viết khó hiểu, người bình dân không đọc đâu”.
Người ta chửi bà, gọi bà là
thím Xồi (ông chồng cũ người Tàu của bà có tục danh là chú Xồi) bà trả lời trên
báo: “Ừ, tôi tên là thím Xồi thì đã sao
kia chớ? Thím ấy có làm hại xã hội bằng những bài vở khiêu dâm chăng? Có nêu
gương đồi phong bại tục chăng?”
Bà Bút Trà còn bị chọc ghẹo bằng các sửa bút danh của bà thành “Bút Tè”,
báo chí tiếp tục “chửi” nghề cầm đồ, bà đáp ngắn gọn: “Hằng ngàn người khác cho
vay cắt cổ, sao cứ bà họ Tô mà chưởi?”.
Quả là trường hợp của bà chủ
báo Bút Trà đi ngược hẳn với lẽ thường tình. Con buôn nào khi bị chửi trên báo
cũng chỉ hành động theo một trong ba cách: (1) cắn răng mà chịu đựng khi nào bị
báo chí chửi; (2) hối lộ cho các ký giả viết bài chửi bới; hoặc (3) thuê du côn
đánh các ký giả đó. Bà Tô Thị Thân là
người đầu tiên nghĩ ra giải pháp thứ tư: ra tờ báo chửi lại dù chẳng viết được
một câu văn nào.
Saigon Mới còn có một nhân vật
nữ nổi tiếng là bà Tùng Long, phụ trách mục Gỡ rối tơ lòng từ năm 1953, bà còn
giữ mục Tâm Tình Cởi Mở trên báo Tiếng Vang (1962-1972). Hai mục “hỏi đáp tâm
tình” này rất ăn khách trên báo và thu hút nhiều người đọc, nhất là phụ nữ vì
chủ đề xoay quanh chuyện yêu đương, tình cảm.
Bà Tùng Long làm chủ bút Tuần
báo Tân Thời (1935), Thư ký tòa soạn tuần báo Phụ Nữ Diễn Đàn, ngoài ra còn cộng
tác với các báo Đồng Nai, Tiếng Vang, Tiếng Chuông, và các tuần báo Văn Nghệ Tiền
Phong, Phụ Nữ Mới, Phụ Nữ Ngày Mai, Duy Tân, Đông Phương… Bà Tùng Long xuất bản
trên 60 tác phẩm trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến 1972.
Người ta thường ví “hiện tượng
Tùng Long” tại Sài Gòn chính là trường hợp trước đó của nhà văn Quỳnh Giao bên
Đài Loan với loại tiểu thuyết tình cảm trong đó có những trớ trêu, ngang trái
đã khiến nhiều người đọc, nhất là phụ nữ, phải rơi lệ.
***
Chú thích:
[1] Ngày nay, báo chí
"lề phải" Việt Nam chỉ đề cập đến những diễn biến trên Biển Đông qua
từ mới “Tàu Lạ”, ám chỉ tàu Trung Cộng ngang ngược xâm phạm hải phận Việt Nam
theo “Đường lưỡi bò” trong chiến lược thôn tính quần đảo Hoàng Sa – Trường Sa.
Họ sợ đụng chạm đến phương châm “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định
lâu dài, hướng tới tương lai” do chính lãnh đạo Trung Cộng đưa ra năm 1999 để
xác định tư tưởng chỉ đạo và khung tổng thể phát triển quan hệ hai nước Việt –
Trung trong thế kỷ mới.
Theo Wikipedia, cuộc chiến
trên Biển Đông năm 1974 giữa VNCH - Trung Cộng có tương quan lực lượng như sau:
Trong trận hải chiến giữa
Trung cộng và VNCH, Việt Nam có 4 chiến hạm là Tuần dương hạm Lý Thường Kiệt
(HQ-16), Hộ tống hạm Nhật Tảo (HQ-10), Tuần dương hạm Trần Bình Trọng (HQ-5),
Khu trục hạm Trần Khánh Dư (HQ-4), 1 đại đội hải kích thuộc Hải quân, một số biệt
hải (biệt kích hải quân) và 1 trung đội địa phương quân đang trú phòng tại đảo
Hoàng Sa.
Phía Trung Cộng có 4 chiếm hạm
trực tiếp tham gia trận chiến là Liệp tiềm đĩnh (tàu chống ngầm) số 274, Liệp
tiềm đĩnh số 271, Tảo lôi hạm số 389, Tảo lôi hạm số 396, 2 ngư thuyền ngụy
trang số 402 và số 407. Ngoài ra còn có lực lượng thuộc Trung đoàn 10 Hải quân
lục chiến, trinh sát (không rõ số lượng). Sau khi trận chiến đã kết thúc, thì
Liệp tiềm đĩnh số 282, Liệp tiềm đĩnh số 281 mới đến tăng viện.
Trung Cộng chiếm đóng toàn
phần quần đảo Hoàng Sa sau những trận hải chiến từ ngày 17 đến 19/1/1974. Hải
quân VNCH có 74 binh sỹ tử vong trong đó HQ-10 có 62 người chết bao gồm hạm trưởng
Ngụy Văn Thà và Thiếu tá Nguyễn Thành Trí; HQ-4 có 3 người chết, HQ-5 có 3 quân
nhân tử vong và 16 bị thương, HQ-16 có 2 người chết.
Theo tài liệu của Trung Cộng
thì các tàu 274, 271, 389, 396 đều trúng đạn, 281, 282, 402, 407 bị hư hại
trung bình. Trung Cộng bắt giữ 48 tù binh VNCH và cuộc trao trả tù binh diễn ra
sau đó tại Hồng Kông qua Hội Chữ thập đỏ quốc tế. (Theo Wikipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A3i_chi%E1%BA%BFn_Ho%C3%A0ng_Sa_1974)
Tham khảo thêm về Hoang Sa
& Trường Sa qua các bài viết:
- "Tập san Sử Địa với
chủ đề Hoàng Sa-Trường Sa" tại
- "Trận hải chiến Hoàng
Sa năm 1974" tại
Bích chương "Tây sa chiến
ca" của Trung Quốc nói về trận chiến ở Hoàng Sa
[2] Vũ Bằng (1913-1984), tên
thật là Vũ Đăng Bằng, là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng dưới thời VNCH. Ông sở
trường về viết truyện ngắn, tùy bút, bút ký... với các bút hiệu Tiêu Liêu, Vịt
Con, Thiên Thư, Vạn Lý Trình, Lê Tâm, Hoàng Thị Trâm...
Khoảng năm 1934-1935, Vũ Bằng
nghiện á phiện rất nặng suốt 5 năm. Nhờ người cô ruột và nhờ vợ là Nguyễn Thị
Quỳ thường xuyên săn sóc, khuyên nhủ, cộng với sự quyết tâm của bản thân nên
ông đã cai được, rồi viết cả một cuốn tự truyện mang tên “Cai”.
Vũ Bằng di cư vào Nam năm
1954 để tiếp tục hoạt động văn chương - báo chí. Ông làm việc tại Việt Tấn Xã
và cộng tác với nhiều tờ báo. Vũ Bằng có lúc nắm trong tay 3 tờ báo Đồng Nai,
Sài Gòn Mai và Tiếng Dân, có lúc vừa viết cho Dân Chúng, làm tổng thư ký báo
Tin Điện, lại vừa hợp tác với làm báo Vịt Vịt...
Vũ Bằng bị mang tiếng là nhà
văn “dinh tê”, “quay lưng lại với kháng chiến” và “di cư vào Nam theo giặc”
nhưng chỉ sau biến cố Sài Gòn thất thủ năm 1975 người ta mới biết ông là “VC nằm
vùng” trong mạng lưới tình báo của Hà Nội. Vì nhiều lý do, trong đó có sự gián
đoạn đường dây liên lạc, mãi đến sau này, ông mới được công nhận là người hoạt
động ‘cách mạng’ và được truy tặng huân chương nhà nước.
Tác phẩm chính của Vũ Bằng gồm
Miếng ngon Hà Nội (bút ký, 1960), Miếng lạ miền Nam (bút ký, 1969), Bốn mươi
năm nói láo (hồi ký, 1969), Thương Nhớ Mười Hai (hồi ký, 1972)...
Vũ Bằng
[3] Chu Tử là bút hiệu của
Chu Văn Bình (1917-1975), nhà văn, nhà báo nổi tiếng tại Sài Gòn vào thập niên
1960. Ông được biết đến là chủ nhiệm nhật báo Sống và là tác giả những cuốn tiểu
thuyết có tựa đề chỉ một chữ: Yêu, Sống, Ghen, Loạn, Tiền...
Ông một thời dạy học ở Tư thục
Phùng Hưng, Hải Phòng, về sau làm hiệu trưởng Trường trung tiểu học Lê Văn
Trung ở Tây Ninh. Vào ngày 30/4/1975, trên đường di tản khỏi Việt Nam bằng tàu
Việt Nam Thương tín, tàu trúng pháo B-40 khi qua cửa Cần Giờ và ông tử thương,
được thủy táng ngay cửa biển.
Nhà văn Chu Tử
[4] Bình-nguyên Lộc
(1915-1987) tên thật là Tô Văn Tuấn, sinh ngày 7/3/1915 tại làng Tân Uyên, Biên
Hòa. Ông sinh ra và lớn lên trong một ngôi nhà chỉ cách bờ sông Ðồng Nai hơn một
trăm thước, chính con sông này đã cung cấp nhiều chi tiết để hoàn tất một số
tác phẩm như truyện ngắn Ðồng Ðội (trong Ký Thác), hồi ký Sông Vẫn Ðợi Chờ (viết
và đăng báo ở California)….
BNL đang viết dang dở tập hồi
ký “Nếu Tôi Nhớ Kỹ” thì qua đời. Trong tập đó có bài “Ông Bà Bút Trà” kể lại
trường hợp nào ông bà Bút Trà gia nhập báo giới rồi kết hôn với nhau. Bà Bút Trà giao công việc tìm người làm báo
cho thơ ký kế toán của bà tên Tô Văn Giỏi, vốn là anh họ của BNL. Ông Giỏi nhờ
BNL tìm kiếm người làm báo. BNL giới thiệu nhà thơ kiêm thầy thuốc Trương Quang
Tiền, tuy chưa hề làm báo nhưng ông cũng nhận đảm trách tờ Sàigòn Họa Báo, tiền
thân của Saigon Mới. Ít lâu sau, bà Bút Trà ly dị ông chồng người Hoa và nhà
thơ này trở thành... ông Bút Trà.
Từ năm 1948 BNL về Sài Gòn
và sống bằng nghề viết báo, chuyên về tiểu thuyết feuilleton. Ông đã cộng tác với
báo Lẽ Sống (qua bút hiệu Phong Ngạn, Phóng Ngang, Phóng Dọc, v.v…), Điện Tín,
Ðời Mới, Tin Mới, Tiếng Chuông, Tin Sớm…
Tháng 10/1985 BNL định cư tại
Hoa Kỳ theo chương trình đoàn tụ gia đình và sống tại Rancho Cordova, một thành
phố nằm trong thủ phủ Sacramento của tiểu bang California. Tại đây BNL từ trần
ngày 7/3/1987 vì bịnh huyết áp cao.
Tác phẩm của BNL nổi bật nhất
có Hương Gió Ðồng Nai, Ðò Dọc, Nguồn gốc Mã Lai của Dân Tộc Việt Nam và nhiều tập
truyện ngắn: Cuống Rún Chưa Lìa, Nhốt Gió, Ký Thác…
Bình-nguyên Lộc
[5] Bà Tùng Long (1915-2006), tên thật Lê Thị Bạch Vân, là một nhà văn nổi
tiếng với những tiểu thuyết tâm lý xã hội ở miền Nam trước 1975. Bà sinh ngày
1/8/1915 tại Đà Nẵng, học trung học ở trường Đồng Khánh, Huế, và trường Gia
Long, Sài Gòn. Năm 1935 bà thành hôn cùng nhà báo Hồng Tiêu Nguyễn Đức Huy.
Năm 1952, Bà Tùng Long dạy Pháp văn và Việt văn tại các trường Les Laurié,
Tân Thịnh, Đạt Đức... nhưng vì lương không đủ sống, bà bắt đầu viết truyện đăng
từng kỳ cho một số nhật báo. Vào thập niên 1960, các tác phẩm của bà rất thành
công về mặt thương mại, vừa dạy học vừa viết báo, viết văn, thu nhập của Bà
Tùng Long rất cao, nghe nói lên đến cả chục lượng vàng. Vào đầu thập niên 1960,
bà giữ chức Tổng thư ký Hội Phụ Nữ Việt Nam Cộng hòa, đắc cử Dân biểu tỉnh Quảng
Ngãi.
Về bút danh Bà Tùng Long, bà giải thích: “Các vị nho học của chúng ta có
câu ‘Vân Tùng Long, Phong Tùng Hổ’, nghĩa là mây theo rồng, gió theo cọp... Tôi
tên Vân cho nên lấy bút danh Tùng Long. Và khi ký bút danh này, tôi thấy không
trùng với ai, cho nên tôi dùng luôn đến nay. Vì ký bút danh Tùng Long, tôi sợ độc
giả hiểu lầm tôi là đàn ông, cho nên tôi thêm chữ Bà vào để phân biệt.”
Một số tác phẩm nổi bật:
Bóng người xưa
Đời con gái
Hồi kí Bà Tùng Long
Một lần lầm lỡ
Mẹ chồng nàng dâu
Nẻo về tình yêu
Bà Tùng Long
No comments:
Post a Comment