Góp nhặt buồn vui thời điêu linh (1/7)
Đổi tiền
Đồng tiền nối liền khúc ruột
cho nên mọi sự thay đổi về tiền tệ từ phía chính quyền trong bất kỳ thời kỳ nào
cũng có ảnh hưởng sâu đậm đến người dân sống trong tầm chi phối của nhà cầm quyền
đó. Tính từ năm 1975, lịch sử Việt Nam đã có đến 3 lần đổi tiền với cột mốc là
các năm 1975, 1978 và 1985.
Vào thời điểm cuối tháng
4/1975, lượng tiền mặt tại miền Nam do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành và
lưu trữ trong ngân khố VNCH được tính khoảng hơn 1.000 tỷ đồng, tương đương hơn
2 tỷ USD. Tuy nhiên, trên thực tế, lượng tiền mặt trong lưu thông trên thị trường
niền Nam vào lúc đó chiếm khoảng 615 tỷ đồng.
Tại Sài Gòn, ngay chiều
30/4/1975, hầu hết các Ngân hàng của VNCH ở khu vực Sài Gòn – Gia Định – Chợ Lớn
đều đã được niêm phong, bộ đội tiếp quản toàn bộ kho tiền và các ngân hàng.
Sáng 1/5, Uỷ Ban Quân quản của Chính phủ Cách mạng Lâm thời ra lệnh quốc hữu
hoá toàn bộ hệ thống ngân hàng cũ.
Mặt trước giấy bạc 100đ,
phát hành tại miền Nam năm 1955
Mặt sau giấy bạc 100đ, phát
hành tại miền Nam năm 1955
Tại miền Nam, từ năm 1953,
Ngân hàng Quốc gia Việt Nam đã lưu hành đồng tiền được sử dụng trên toàn cõi Việt
Nam Cộng hòa. Đặc điểm dễ nhận nhất của các loại tiền giấy phát hành tại miền
Nam trước năm 1975 là trên đồng tiền luôn luôn có câu “Hình luật phạt khổ sai
những kẻ nào làm giả mạo giấy bạc do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát ra”.
Trên các giấy bạc còn có 2
chữ ký của Tổng kiểm tra và Thủ quỹ Trung ương. Đến năm 1968, đổi là chữ ký của
Tổng kiểm soát và Giám đốc Sở phát hành; đến năm 1970, đổi sang chữ ký của Tổng
kiểm soát và Thống đốc; năm 1971 đổi là chữ ký của Một quản trị viên và Giám đốc
Phát hành.
Trong năm 1975, Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam in giấy bạc 5.000 và 10.000 đồng với chữ ký của Tổng kiểm soát và
Thống đốc. Tuy nhiên, 2 loại giấy bạc này chưa được phát hành trên thị trường
thì đã đến ngày miền Nam thất thủ.
Mặt trước giấy bạc 5.000 đồng
của VNCH
in năm 1975 nhưng chưa kịp
phát hành
Mặt sau giấy bạc 5.000 đồng
của VNCH
in năm 1975 nhưng chưa kịp
phát hành
Mặt trước giấy bạc 10.000 đồng
của VNCH
in năm 1975 nhưng chưa kịp phát
hành
Mặt sau giấy bạc 10.000 đồng
của VNCH
in năm 1975 nhưng chưa kịp
phát hành
Sau khi Chính phủ Việt Nam Cộng
Hòa sụp đổ hoàn toàn và được thay thế bằng chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam, qua danh nghĩa Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, đã
tổ chức đổi tiền trên qui mô toàn miền Nam để đưa đồng tiền mới lấy tên là
"Tiền Ngân hàng Việt Nam" (còn gọi là tiền ‘giải phóng’). Tiền này được
sử dụng tại miền Nam cho đến khi đổi tiền năm 1978 nhằm thống nhất tiền tệ hai
miền Nam Bắc.
Ngày 6/6/1975, Chính phủ
cách mạng lâm thời đã ra Nghị định số 04/PCT-75 về việc thành lập Ngân hàng Quốc
gia Việt Nam do Ông Trần Dương làm Thống đốc. Thông qua danh nghĩa là cơ quan đại
diện chính thức của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, ngân hàng này thừa kế vai trò
hội viên của Ngân hàng VNCH trong các tổ chức tài chính quốc tế như Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB).
Cũng chiếu theo Nghị định
04, đến ngày 22/9/1975 thì tiền VNCH có mệnh giá trên 50 đồng bị cấm lưu hành tại
miền Nam và phải đổi sang tiền mới của Chính phủ Cách mạng Lâm thời. Tiền mới
được in tại Tiệp Khắc từ năm 1966 (!), không mang chữ ký, gồm 8 mệnh giá: 10
xu, 20 xu, 50 xu, 1 đồng, 2 đồng, 5 đồng, 10 đồng và 50 đồng. Tỉ giá hối đoái
vào thời điểm ban hành Nghị định 04 là 1 USD tương đương với 1,51đ Cộng hòa Miền
Nam.
Điều đáng nói là giá trị
chuyển đổi của đồng tiền mới không thống nhất về mặt địa lý mà thay đổi theo từng
vùng theo Nghị định 04:
- Từ Quảng Nam, Đà Nẵng trở
xuống miền Nam, giá trị tiền đổi được tính theo tỉ lệ 500đ VNCH tương đương với
1đ tiền mới.
- Từ Thừa Thiên Huế trở lên
miền Bắc, tỉ lệ đổi tiền là 1.000đ VNCH tương đương với 3đ tiền mới.
Việc thu đổi tiền VNCH được
bắt đầu lúc 6g sáng ngày 22/9/1975 và chấm dứt vào lúc 6g chiều cùng ngày tại
Sài Gòn. Riêng tại các tỉnh xa xôi thuộc phía Nam, việc đổi tiền có hạn chót là
ngày 30/9/1975. Định mức đổi tối đa không quá 100.000đ tiền VNCH cho nhu cầu
sinh hoạt của mỗi gia đình; các hộ kinh doanh được phép đổi từ 200.000đ đến
1.000.000đ tiền VNCH sang tiền mới.
Đối với người dân miền Nam,
việc đổi tiền năm 1975 là cú xốc đầu tiên mà chính quyền mới dành cho vùng đất.
Còn đang bàng hoàng trước những thay đổi về thể chế chính trị từ ngày
30/4/1975, chỉ chưa đầy 2 tháng sau là một sự kiện kinh tế-tài chính có ảnh hưởng
trực tiếp đến cuộc sống hàng ngày tại miền Nam.
Xét về mặt quản lý kinh tế-tài
chính, việc đổi tiền là một điều tất yếu đối với một đất nước vừa được thống nhất
trong đó lưu hành 2 thứ tiền: tiền VNCH và tiền miền Bắc. Tuy nhiên, việc thực
hiện chính sách đó như thế nào là cả một vấn nạn đáng mổ xẻ. Rất nhiều câu hỏi
được đặt ra và cho đến bây giờ vẫn chưa có câu trả lời thỏa đáng. Người dân miền
Nam chỉ thấy sau khi Nghị định 04 được ban hành, túi tiền của họ bỗng trở nên
teo tóp một cách đáng kể.
Giấy bạc miền Bắc, phát hành
năm 1965
(Có in cả chữ Hán)
Giấy bạc miền Bắc, phát hành
năm 1973
===
Cuộc đổi tiền lần thứ hai được
diễn ra vào năm 1978. Ngoài mục đích thống nhất tiền tệ giữa hai miền Nam Bắc,
đổi tiền lần thứ hai được coi là một trong những phương thức tiến hành cuộc cải
tạo công thương nghiệp ở miền Nam Việt Nam. Với quyết tâm xóa bỏ hình thức kinh
tế tư bản hiện hữu tại miền Nam, chính quyền mới đã thực thi mô hình kinh tế xã
hội chủ nghĩa trên cả nước.
Theo nghị quyết khóa III,
nhà nước chủ trương xóa bỏ tư sản mại bản, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với tư
sản dân tộc, thí điểm xây dựng hợp tác xã, cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thủ
công nghiệp và thương nghiệp nhỏ. Đổi tiền là một bước trong quá trình đó. Hiện
tượng này trong quá khứ đã từng được thực hiện một cách bất ngờ ở các nước cộng
sản như Liên Xô, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên nhằm tịch thu tài sản và giảm thiểu
nền kinh tế chợ đen.
Theo Sắc lệnh của Thủ tướng
Chính phủ mang số 88 CP, ký ngày 25/4/1978 thì lệnh đổi tiền được giữ kín cho đến
ngày 3/5/1978 là thời điểm công bố trên toàn quốc. Sắc lệnh quy định tiền tệ cũ
của cả hai miền Nam Bắc bị cấm lưu hành, những ai sở hữu tiền cũ thì phải đem đổi
lấy tiền mới.
Ở miền Bắc, một đồng mới trị
giá bằng một đồng cũ, loại tiền này được phát hành từ năm 1958. Riêng ở trong
Nam, một đồng mới đổi được 0,80 đồng cũ (8 hào) phát hành năm 1975 qua đợt đổi
tiền lần thứ nhất.
Dân thị thành được đổi tối
đa 100 đồng cho mỗi hộ 1 người; 200 đồng cho mỗi hộ 2 người; hộ trên 2 người
thì từ người thứ 3 trở đi được đổi 50 đồng/người. Hạn mức tối đa cho các hộ
thành phố bất kể số người là 500 đồng mỗi hộ.
Dân vùng quê được phép đổi
theo hạn ngạch 100 đồng cho mỗi hộ 2 người (50 đồng mỗi người); hộ trên 2 người
thì người thứ 3 trở đi được đổi 30 đồng/người. Tối đa cho mọi hộ vùng quê, bất
kể số người, là 300 đồng.
Số tiền sở hữu trên mức tối
đa phải khai báo và ký thác vào ngân hàng. Khi cần dùng thì tiền đó có thể rút
ra nếu… có lý do chính đáng. Một điều kiện nữa là người dân phải chứng minh rằng
số tiền trên mức tối đa là tiền kiếm được bằng ‘lao động cá nhân’ chân chính chứ
không phải tiền trục lợi qua lao động của người khác.
Cũng như lần đổi tiền năm
1975, cuộc đổi tiền năm 1978 đã phá giá đồng tiền của Cộng hòa Miền Nam Việt
Nam đang lưu hành tại miền Nam. Tuy nhiên, tại miền Bắc, giá trị của đồng tiền
vẫn giữ nguyên.
Tại miền Nam, dù đã qua một
lần đổi tiền vào năm 1975 nhưng đa số người dân vẫn bị bất ngờ vì lệnh đổi tiền
lập lại 3 năm sau đó. Chính sách đổi tiền lần này chủ yếu nhắm vào giới tư sản
miền Nam, nhưng trên thực tế, cuộc sống của mọi người, nhất là những người sinh
sống tại miền Nam, đều bị ảnh hưởng.
Năm 1978 nhà nước vẫn duy
trì chính sách quản lý người dân bằng hộ khẩu, nói một cách khác, hộ khẩu kiểm
soát lương thực qua chế độ tem phiếu. Đến khi đổi tiền, hộ khẩu quyết định tiêu
chuẩn định mức tiền được đổi nên bi thảm nhất là những gia đình bỏ về từ những
vùng kinh tế mới. Họ không còn hộ khẩu tại thành phố nên cũng không đủ tiêu chuẩn
để đổi tiền, cuộc sống hàng ngày vốn đã khốn khổ phải tạm trú nơi mái hiên, gầm
cầu đến lúc đổi tiền lại không có giấy tờ hợp pháp.
Vào thời điểm 1978, mức sống
của dân miền Nam vẫn còn cao hơn miền Bắc nên tỷ lệ sở hữu tiền tiết kiệm của từng
gia đình tại Sài Gòn, nói chung, vẫn cao hơn tại Hà Nội. Biện pháp ‘đổi tiền có
giới hạn’ chính là một hình thức ‘cào bằng’ giữa hai miền. Tuy nhiên, đa số người
miền Nam vẫn có thói quen mua vàng hoặc đô la thay vì giữ tiền mặt dù việc mua
bán vàng và ngoại tệ vẫn bị nhà nước nghiêm cấm vào thời điểm đó.
Số lượng vàng còn lại tại miền
Nam sau 1975 vẫn còn là một ẩn số nhưng qua các vụ vượt biên người ta có thể
nói ‘tiềm lực vàng’ của người miền Nam vẫn còn rất mạnh. Trung bình một người
vượt biên phải trả cho chủ tầu khoảng 3 ‘cây’ (một danh từ phổ biến để chỉ 1 lạng
vàng), nếu làm một con tính nhẩm với gần nửa triệu người đến được bến bờ tự do
hoặc bỏ thây ngoài biển cả ta sẽ thấy một số vàng khổng lồ có trị giá hàng tỷ Mỹ
kim mà người miền Nam đã đổ vào các cuộc vượt biên. Có người còn vượt biên nhiều
lần, điều này chứng tỏ ‘tiềm lực vàng’ của người dân miền Nam là rất lớn.
Sự kiện ‘nạn kiều’ của người
Việt gốc Hoa ra đi bán chính thức bằng đường bộ và đường thủy năm 1979 với giá
trên 10 cây vàng một đầu người cũng là một minh chứng việc ‘đánh tư sản’ không
đạt được kết quả như mong muốn. Trong Chợ Lớn không thiếu gì những trường hợp
người buôn bán nhỏ lẻ, thậm chí hành nghề ve chai, bán dạo vẫn có vàng để trả
cho các chuyến vượt biên bán chính thức.
Giấy bạc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam
(Phát hành năm 1984)
===
Lần đổi tiền thứ ba diễn ra
vào ngày 14/9/1985 với việc phát hành tiền mới có mệnh giá 10 đồng, 20 đồng, 50
đồng. Như vậy, trong vòng 10 năm (1975-1985) Việt Nam đã có ba lần đổi tiền. Điểm
nổi bật của lần đổi tiền năm 1985 là 10 đồng tiền cũ đổi được 1 đồng tiền mới.
Người dân bình thường nhận thấy tiền của họ khi đổi sang tiền mới chỉ cần bớt một
con số không. Chẳng hạn, một tô phở trước khi đổi tiền có giá 1.000đ nay chỉ
còn 100đ tiền mới.
Tuy nhiên, đối với những
chuyên gia kinh tế, thực tế phức tạp hơn những gì người bình thường suy nghĩ.
Cuộc đổi tiền năm 1985 đã khiến đồng tiền lưu hành tại Việt Nam vào thời điểm
đó bị giảm đi 10% trong khi đồng Việt Nam vẫn chưa ‘có khả năng chuyển đổi’
(transferable) trên thị trường hối đoái quốc tế. Đồng tiền Việt Nam vẫn là tiền
‘có khả năng tự do chuyển đổi thấp’, chưa trở thành đồng tiền dùng trong thanh
toán quốc tế.
Giấy bạc mệnh giá 500 đồng
được phát hành năm 1987
Tháng 11/2009, Chính phủ Việt
Nam quyết định phá giá 5% đồng tiền Việt Nam, đồng thời tăng lãi suất lên 8%.
Chính sách này được xem như là hành động làm căng thẳng thị trường tài chính
Châu Á, vì các nền kinh tế trong vùng đang tranh nhau tạo ưu thế với thị trường
Âu Mỹ.
Ngày 11/2/2010, Ngân Hàng
Nhà Nước Việt Nam định lại mức tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa tiền đồng
Việt Nam và đôla Mỹ, qua đó, một đôla Mỹ ăn 18.544 đồng. Nếu so với mức tỷ giá
17.941 đồng một ngày trước đó, đồng tiền Việt Nam bị giảm giá 3,4% so với đôla
Mỹ. Ngày 28/2/2010, mức tỷ giá ở thị trường chợ đen là 19.500 đồng.
Ngày 18/08/2010 Ngân hàng
Nhà nước nâng tỷ giá từ mức 18.544 đồng/USD lên mức 18.932 đồng/USD (tương
đương tăng 388 đồng). Ngày 11/02/2011 Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định
tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD với VND, từ 18.932 VND lên 20.693
VND (tăng 9,3%), cùng với đó là thu hẹp biên độ áp dụng cho tỷ giá của các ngân
hàng thương mại từ +/- 3% xuống còn +/- 1%. Tuy nhiên, đến ngày 19/02/2011 tỷ
giá USD ở thị trường chợ đen là 22.300 đồng.
Những diễn biến vừa nêu trên
cho thấy sự bất ổn của đồng tiền Việt Nam. Đồng tiền hiện đang lưu hành trên thị
trường Việt Nam có mệnh giá cao nhất là 500.000 đồng, nhiều người nghĩ một ngày
nào đó sẽ xuất hiện tờ giấy bạc 1.000.000 đồng nhưng không ai nghĩ Việt Nam sẽ
soán ngôi ‘đơn vị tiền tệ thấp giá nhất’ của Zimbabwe với mệnh giá 100 nghìn tỷ
đô la.
Kỷ lục thế giới: giấy bạc
100 nghìn tỷ đô la của Zimbabwe
Về phần những người bi quan,
họ lại nghĩ ngay đến cuộc đổi tiền lần thứ 4 tại Việt Nam trong tương lai!
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người,
Chương 6 – Thời điêu linh)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9
Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà
Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu
(Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên
(Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài
Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng
Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh
(Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những
chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước
vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút
ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp
một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống
lỗ)!
***
6 Comments on Multiply
penseedl wrote on May 28,
'11
Hồi ký kỳ này đọc "buồn
nẫu ruột" anh Chính à!.
penseedl wrote on May 28,
'11
nguyenngocchinh said “Về phần
những người bi quan, họ lại nghĩ ngay đến cuộc đổi tiền lần thứ 4 tại Việt Nam
trong tương lai!”
Không bi quan sao được khi
mà mọi thứ giá cả đều tăng chóng mặt vì đồng tiền VN mất giá... !
penseedl wrote on May 28,
'11, edited on May 28, '11
nguyenngocchinh said “Theo
nghị quyết khóa III, nhà nước chủ trương xóa bỏ tư sản mại bản, cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với tư sản dân tộc, thí điểm xây dựng hợp tác xã, cải tạo xã hội
chủ nghĩa đối với thủ công nghiệp và thương nghiệp nhỏ”
Nên dùng 2 chữ "Áp dụng
XHCN..." thay vì "Cải tạo XHCN..." cho chính xác hơn anh chính hỉ?.
nguyenngocchinh wrote on May
28, '11
penseedl said “Nên dùng 2 chữ
"Áp dụng XHCN..." thay vì "Cải tạo XHCN..." cho chính xác
hơn anh chính hỉ ?.”
'Cải tạo xã hội chủ nghĩa'
là thuật ngữ thường dùng trong các văn kiện của chính quyền với hàm ý 'cải tạo
theo đường hướng xã hội chủ nghĩa...'. Lẽ ra tôi nên để 'cải tạo xã hội chủ nghĩa...'
trong ngoặc đơn để người đọc hiểu là cụm từ này không phải là chữ của tác giả.
Xin cám ơn góp ý của Pensee.
duongkhue wrote on Jun 1,
'11, edited on Jun 1, '11
Tiền này có lẽ là tiền giả vì có hình nổi của
Austin Powers trong phim Goldmember!
12 số 0 là ức anh ạ, không phải
tỷ!
nguyenngocchinh wrote on Jun
1, '11
Thanks Dương Khuê, I've made
some corrections.
Trillion là 'nghìn tỷ' (ức),
một con số quá lớn với 12 số 0.
Còn về việc hình ảnh tờ giấy
bạc 100 'nghìn tỷ' đô la của Zimbabwe tôi sưu tầm trên Flickr:
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%93ng_(ti%E1%BB%81n_Vi%E1%BB%87t_Nam_C%E1%BB%99ng_h%C3%B2a)
2 nhận xét:
Nặc danh14:31 17 tháng 4,
2013
Thưa anh Lần đổi tiền thứ 3
là ngày 14/9/1985 chứ không phải 04/9.Tôi nhớ vì tôi có đứa con sinh đúng vào
ngày đó, khi đó tôi phải mua cho vợ một ly sữa nước sôi giá 300 đồng tại cổng
BV TỪ Dũ. Xin anh sửa lại cho đúng
Trả lời
Nặc danh00:38 18 tháng 4,
2013
Các bạn không nên quan tâm
những chuyện sai sót nhỏ, nếu có, trong bài viết của tác giả; cái quan trọng mà
tác giả đã viết trên trang hồi ức là csVN sẽ đổi tiền lần 4. Tác giả đã dựa
trên việc QHcsVN đề xuất theo ý kiến nhân dân đóng góp tu chính HP/92 là thay
tên nước CHXHCNVN bằng cụm từ VNDCCH có từ năm 1945 để cho rằng đó là cách giáo
đầu dẫn đến in mẫu đồng tiền mới, và việc đổi tiền là có thể xảy ra. Nhưng theo
một só người thì đổi tiền chỉ là "Diện", còn "Điểm" ở đây
chính là "điều 4 HP/92". Nguyên nhân là đảng cộng sản độc quyền lãnh
đạo mọi mặt của đất nước và nhân dân, nên phải bảo vệ, củng cố và kiện toàn cơ
cấu của đảng cộng sản, làm cho đảng vững mạnh và tồn tại lâu dài, cái mà người
cs gọi là xây dựng thành công CNXH, tiến lên CNCS và cứu cánh là CXNĐĐ - mặc dù
đó chỉ là ảo tưởng nhằm bám giữ quyền hành để trục lợi - Quá trình thực hiện
con đường trên đây, đảng cs đã có chủ trương ngay từ khởi thủy là "Đấu
tranh giai cấp để hình thành và bảo vệ chuyên chính vô sản, một cốt lõi của
CNCS. Trong "Đấu tranh giai cấp" tất phải có "Cải tạo
XHCN", cụm từ nầy là của cộng sản đã dùng và vẫn còn lưu giữ. ĐỔI TIỀN LÀ
MỘT TRONG NHỮNG BIỆN PHÁP DỄ VÀ NHANH GỌN để triệt hạ giai cấp "bóc lột"
(cách nói của cs). Vì vậy, chừng nào còn "điều 4 Hiến Pháp là csVN còn đổi
tiền, v/đ là thời gian mà thôi! Cám ơn tác giả đã có bài viết ý nghĩa để nhắc
nhở đồng bào ở trong nước.
Trả lời
No comments:
Post a Comment