Chúa Trịnh
Chúa Trịnh
鄭王
Đế quốc
1545–1787
Thành lập 1545
Trịnh Kiểm xưng Thái sư Lạng Quốc công 1545
Trịnh Tùng chính thức xưng vương 1570
Trịnh Bồng mất ngôi 1787
Bãi bỏ 1787
Chúa Trịnh (chữ Hán: 鄭王 / Trịnh vương, chữ Nôm: 主鄭; 1545 – 1787) là một vọng tộc phong kiến kiểm soát
quyền lực Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng, khi nhà vua tuy không
có thực quyền vẫn được duy trì ngôi vị. Bộ máy triều đình lúc này hoạt động
theo thể chế lưỡng đầu. Tổng cộng có 11 chúa Trịnh chính thức (nếu
tính luôn Trịnh Kiểm là có 12 chúa) cai quản xứ Đàng Ngoài trong hơn 2 thế kỷ.
Nổi
lên nắm quyền lực
Sau khi vua Lê Hiến Tông mất năm 1504, các
vua kế vị đều yểu mạng, hoặc tàn bạo, hoặc kém tài. Đến năm 1527, quyền
thần Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê Cung Hoàng rồi sáng lập nhà Mạc.
Năm 1533,
ở Thanh Hóa, một võ tướng nhà Lê là Nguyễn
Kim nổi dậy chống lại nhà Mạc, lập lại nhà Lê, ông tìm được
hậu duệ của nhà Lê là Lê Duy Ninh bèn lập làm vua tức là Lê Trang Tông. Trong
vòng 5 năm, các vùng phía nam nằm dưới quyền kiểm soát của nhà Lê Trung Hưng
nhưng họ không thể chiếm Thăng
Long. Trong thời gian này, nhà Lê cũng phát triển thế lực về phía
Nam, chiếm quyền kiểm soát vùng cực nam lãnh thổ nơi từng là đất đai của Chăm Pa.
Người mở đầu sự nghiệp của họ Trịnh là Trịnh Kiểm, người huyện Vĩnh Lộc, Thanh
Hóa. Tương truyền thuở nhỏ nhà Trịnh Kiểm nghèo, mẹ thích ăn gà nên
ông thường bắt trộm gà của hàng xóm cho mẹ ăn. Hàng xóm rất ghét, nhân khi
Trịnh Kiểm đi vắng bèn bắt mẹ ông ném xuống vực. Trịnh Kiểm về không thấy mẹ
đâu bèn đi tìm, đến vực tìm ra xác mẹ thì mối đã xông đầy lên rồi.
Sau có ông thầy tướng đi qua chỉ vào ngôi mộ mẹ Trịnh Kiểm đọc
rằng:
Phi đế phi bá
Quyền khuynh thiên hạ
Truyền tộ bát đại
Tiêu tường khởi vạ
Nghĩa là:
Chẳng đế chẳng bá
Quyền nghiêng thiên hạ
Truyền được tám đời
Trong nhà dấy vạ
Mẹ mất, nghe tin Nguyễn Kim nổi dậy dựng lại nhà Lê, Trịnh Kiểm
bèn đến xin gia nhập. Nhờ tài năng, ông được Nguyễn Kim tin cậy và gả con gái
là Ngọc Bảo cho. Nǎm 1539 ông
được phong làm Đại tướng quân, tước Dực quận công. Năm 1545,
Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm lên thay cầm quyền, được phong làm thái sư nắm toàn
thể quân đội.
"Phù
Lê diệt Mạc"
"Phi đế phi bá, quyền khuynh thiên hạ"
Nắm quyền trong triều đình Nam triều nhà Lê, trước hết Trịnh
Kiểm lo đối phó với các con của Nguyễn Kim để củng cố quyền lực. Ông sai thuộc
hạ xông vào nhà giết con cả của Kim là Nguyễn Uông.
Người con thứ là Nguyễn Hoàng sợ hãi xin xuống trấn giữ vùng Thuận
Hóa - Quảng
Nam ở phía Nam. Trịnh Kiểm cho rằng giết cả hai anh em Hoàng sẽ
mang tiếng, mà Thuận - Quảng là nơi xa xôi, "ô châu ác địa" nên bằng
lòng cho Hoàng vào đó để mượn tay nhà Mạc giết Hoàng.
Năm 1556, vua Lê Trung Tông mất sớm không có con nối,
Trịnh Kiểm định cướp ngôi nhà Lê, nhưng còn do dự sợ dư luận, bèn sai người tìm
đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm bấy giờ đang ẩn dật.
Nguyễn Bỉnh
Khiêm (chữ Hán: 阮秉謙; 1491–1585), tên huý là Nguyễn Văn Đạt (阮文達)[1], tên tự là Hanh Phủ (亨甫), hiệu là Bạch Vân
am cư sĩ (白雲庵居士)[2], được các môn sinh tôn là Tuyết Giang
phu tử (雪江夫子), là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất của lịch sử cũng như văn hóa Việt Nam trong thế kỷ 16.
Nghe theo lời khuyên của Trạng Trình ("giữ chùa thờ Phật
thì ăn oản"), Trịnh Kiểm bèn đi tìm được người trong tôn thất nhà
Lê là Lê Duy Bang, cháu 6 đời của Lê Trừ (anh Lê Thái Tổ), lập làm vua, tức là Lê Anh
Tông. Từ đó họ Trịnh nối đời cầm quyền nhưng danh nghĩa vẫn tôn phò,
làm bề tôi cho nhà Lê, hai họ sống chung trong cơ chế lưỡng đầu. Bởi vậy người
đời truyền lại câu:
"Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong."
Năm 1570, Trịnh Kiểm mất, hai con là Trịnh
Cối và Trịnh
Tùng tranh quyền. Hai anh em dàn quân đánh nhau. Cùng lúc đó
quân Mạc từ bắc kéo vào. Trịnh Cối bị kẹp giữa hai đường không thể cự nổi bèn
đầu hàng nhà Mạc, được
nhà Mạc thu nhận và phong chức.
Vua Lê Anh
Tông ủng hộ ngôi con trưởng của Trịnh Cối, cùng mưu với Lê Cập
Đệ định giết Trịnh Tùng việc bị lộ. Vua Anh Tông mang 4 người con lánh đi nơi
khác. Trịnh Tùng lập người con út của vua là Đàm lên ngôi, tức là Lê Thế Tông.
Sau đó, Trịnh Tùng lùng bắt được cha con vua Anh Tông mang về
lập mưu giám sát, rồi bức chết. Từ đó vua Lê hoàn toàn nép trong cung, Trịnh
Tùng tự mình xử trí mọi việc trong triều.
Các vua Lê sau có ý định chống lại đều bị bức tử và thay thế
bằng một hoàng đế nhỏ tuổi hoặc dễ bảo hơn.
Khôi phục Thăng Long
Tranh vẽ đám rước chúa Trịnh xuất hành, thế kỷ
17
Từ khi Trịnh Kiểm nắm quyền, họ Trịnh cai quản vùng
phía nam của Đại Việt (trên danh nghĩa vẫn là chiến đấu
dưới quyền vua Lê) và chiến đấu với nhà Mạc ở phía bắc. Bấy giờ nhà Lê chiếm
lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Nhờ
có khẩu hiệu "Phù Lê diệt Mạc" (giúp Lê diệt Mạc), thanh thế họ Trịnh
ngày một lớn. Ở vùng Tây bắc, anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên (Chúa
Bầu) cát cứ tại Tuyên Quang sai người đến xin quy phục. Sau đó năm
1550, thái tể nhà Mạc là Lê Bá Ly là cựu thần nhà Lê sơ cùng thông gia là
Nguyễn Thiến mang gia quyến về hàng.
Trong suốt những năm 1545-1580 là giai đoạn hai bên giằng co.
Được tăng sức mạnh, họ Trịnh liên tiếp tấn công ra bắc đánh Sơn Nam, Ninh
Bình, Sơn Tây, Thăng
Long. Nhà Mạc lúc
đó dưới sự chèo lái của Khiêm Vương Mạc Kính Điển đã đứng vững. Mạc Kính
Điển nhiều lần phải mang vua Mạc qua sông tránh sang Kim Thành (Hải Dương)
nhưng quân Lê-Trịnh vẫn không vào được Thăng Long. Ngược lại, sau những đợt tấn
công ra bắc, quân Trịnh cũng phải đối phó với những đợt tiến công vào Thanh Hóa
- Nghệ An của Mạc Kính Điển. Hai bên khi được khi thua. Cuộc chiến giằng co nổi
lên tên tuổi các tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu bên
Lê-Trịnh, Nguyễn Quyện bên Mạc.
Sau khi trấn thủ Thuận
Hoá (năm 1558), năm 1570, Nguyễn Hoàng lại xin trấn thủ Quảng
Nam. Chúa Trịnh mải lo chiến trường phía bắc nên chấp thuận. Năm
1572, Hoàng dùng kế giết được tướng Mạc là Mạc Lập Bạo vào đánh. Nhà Mạc mất
hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.
Sau khi Mạc Kính Điển chết (1580), nhà Mạc bắt đầu suy yếu. Vua
Mạc là Mậu Hợp ít lo chính sự, phụ chính Mạc Đôn Nhượng không đủ năng lực. Quân
Lê-Trịnh bắt đầu chiếm ưu thế. Năm 1591, Trịnh Tùng đem quân bắc tiến áp sát
thành Thăng Long. Đầu năm 1592, Mạc Mậu Hợp chạy sang Gia Lâm, thống suất thủy
quân để làm thanh thế trên sông
Nhị Hà cho các tướng giữ kinh thành Thăng
Long. Trịnh Tùng thúc quân tổng tiến công. Các tướng Mạc Ngọc
Liễn, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên tan vỡ bỏ chạy. Phục binh
của Nguyễn Quyện ở cầu Dền không kịp nổi dậy đã bị giết. Nguyễn Quyện bị bắt
rồi bị giết, hai con tử trận. Quân Mạc chết rất nhiều.
Trịnh Tùng rút quân chủ lực về. Mạc Mậu Hợp thu tàn quân án ngữ
sông Nhị Hà, lại ham sắc đẹp của vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn Thị Niên nên muốn giết Khuê. Tháng
8 năm 1592, Bùi Văn Khuê biết chuyện bèn đem quân hàng Lê, hợp
binh với Trịnh Tùng đại phá quân Mạc.
Tháng 11 năm 1592, Trịnh
Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Mạc Mậu Hợp thua chạy về Kim Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con
là Toàn lên ngôi, tự mình làm tướng thống suất quân đội. Sau các
cuộc chiến ác liệt tại khu vực các phủ Nam Sách, Hạ Hồng, Kinh Môn trong tháng
11 và 12 thì quân Mạc thua to. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn,
bị bắt sống sau đó ít ngày và bị hành hình.
Sau vài cuộc chiến khác chống lại các thế lực tàn dư nhà Mạc,
Trịnh Tùng rước vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long năm 1593. Họ
Trịnh đánh dấu quyền lực bằng cách tiến hành xây Phủ chúa Trịnh ở Thăng
Long.
Dẹp tàn dư họ Mạc
Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế
lực của nhà Mạc chưa bị tiêu diệt hết. Các vùng như Thái
Nguyên, Lạng
Sơn, Cao
Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung cho tới năm 1623. Nhà
Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở
Đại Việt có lợi cho họ nên can thiệp để họ Mạc được cát cứ ở Cao
Bằng. Vì vậy cháu Mạc Kính Điển là Kính Khoan và con Khoan là Kính
Vũ vẫn cát cứ ở Cao Bằng, dù về cơ bản, họ Trịnh đã làm chủ Bắc Bộ và Bắc Trung
bộ.
Khi nhà Minh sụp đổ (1644), các vua Nam
Minh - tàn dư nhà Minh - vẫn ủng hộ họ Mạc. Họ Mạc nối nhau
trấn giữ ở đây trong nhiều năm. Mãi đến khi nhà Minh mất hẳn (1662) về
tay nhà Thanh, họ Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm
1677, chúa Trịnh
Tạc sai tướng Đinh Văn Tả đi đánh, việc trấn giữ Cao Bằng của
họ Mạc mới chấm dứt.
Trịnh
- Nguyễn phân tranh
Sau khi Nguyễn Hoàng xuống phía Nam đã xây dựng căn cứ và
phát triển thành một thế lực độc lập, hình thành chính quyền của họ Nguyễn. Tuy
các chúa Nguyễn vẫn hợp tác với chúa Trịnh để chống nhà Mạc
và vẫn đứng danh nghĩa là thần tử nhà Lê, nhưng thực tế các chúa Nguyễn vẫn cai
trị các tỉnh biên giới phía Nam Đại Việt với một chính quyền độc lập. Hơn thế
nữa, họ đã có công mở rộng lãnh thổ Đại Việt lên gấp đôi về phía Nam. Sau khi
đánh bại nhà Mạc, sự độc lập của các chúa Nguyễn ngày càng trở nên khó chịu đối
với các chúa Trịnh.
Những sự căng thẳng lên đỉnh điểm năm 1627 khi
chiến tranh nổ ra giữa hai phe. Trong khi phe chúa Trịnh kiểm soát một vùng
rộng lớn và đông dân cư hơn, thì chúa Nguyễn lại có nhiều ưu thế. Thứ nhất, họ
chỉ muốn bảo vệ lãnh thổ của mình, họ không muốn tấn công miền bắc.
Thứ hai, chúa Nguyễn có thể lợi dụng ưu thế về các tiếp xúc của
mình với những người châu Âu, đặc
biệt là những người Bồ Đào Nha, để mua các loại súng hiện đại của châu
Âu.
Thứ ba, điều kiện địa lý cũng ưu đãi cho họ, đất đai phẳng vốn
thích hợp cho những quân đội được tổ chức lớn lại hiếm có ở lãnh thổ của họ,
nơi núi non hầu như lan ra đến tận biển.
Chúa Nguyễn xây dựng hai giới tuyến rất vững chắc kéo dài vài
dặm từ biển đến tận các ngọn đồi ở phía bắc thành Phú
Xuân. Họ đã bảo vệ hai giới tuyến này chống lại nhiều cuộc tấn công
của các chúa Trịnh. Trong thời gian từ 1627 đến
tận 1672, hai
bên giao chiến cả thảy 7 lần. Năm 1655, quân Nguyễn thắng thế vượt sông Gianh
đánh Nghệ An, chiếm 7 huyện và mang theo nhiều dân cư ở đây vào khai khẩn trong
nam. Năm sau quân Trịnh phản công chiếm lại.
Năm 1672, hai bên đình chiến, Tây Định Vương Trịnh
Tạc và Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần lấy sông Gianh làm ranh
giới chia cắt Việt Nam. Đất nước bị chia ra bởi hai gia đình cai trị. Hai bên
cùng mang danh nghĩa tôn phò nhà Hậu Lê.
Dẹp
yên khởi nghĩa nông dân
Các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm, Trịnh
Tùng, Trịnh Tráng, Trịnh
Tạc, Trịnh
Căn, Trịnh Cương đều là những chúa giỏi cai trị. Sau
khi chiến tranh Trịnh - Nguyễn và Trịnh-Mạc chấm dứt, Bắc Hà yên ổn thịnh trị.
Các chúa Trịnh cai trị khá tốt, luôn giữ danh nghĩa cho
vua nhà Lê. Tuy nhiên họ là người lựa chọn ra vua, họ thay thế vua và họ
cũng có quyền cha truyền con nối để chỉ định nhiều quan chức hàng đầu trong
triều đình.
Không giống như các chúa Nguyễn, những người thường gây chiến với Chân
Lạp và Xiêm La, các
chúa Trịnh giữ quan hệ hòa bình hữu hảo với các nước láng giềng.
Năm 1729, Trịnh Cương chết, con là Trịnh
Giang lên thay. Trịnh Giang ăn chơi trác táng, sa đọa, sửa đổi
nhiều phép tắc của cha mình, giết chết hàng loạt các vị quan giỏi như Lê Anh
Tuấn, Nguyễn Công Hãng, giết vua nọ lập vua kia, gian dâm với cung nữ của cha,
lại gây ra thuế khóa nặng nề làm mất lòng dân. Từ đó nông dân liên tiếp nổi dậy
khởi nghĩa. Đó chính là phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài.
Năm 1737, nhà sư Nguyễn Dương Hưng nổi dậy khởi nghĩa. Năm 1739,
hậu duệ nhà Mạc (đã bị đổi họ) là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển cùng Vũ Trác Oánh nổi
dậy ở Hải Dương.
Tông thất nhà Lê là Lê Duy
Mật cũng định làm binh biến ở Thăng Long để lật đổ họ Trịnh
nhưng không thành nên rút ra ngoài khởi nghĩa.
Đến năm 1740 đồng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn của quận He Nguyễn Hữu Cầu, quận Hẻo Nguyễn Danh Phương và Hoàng Công Chất bùng phát. Chính sự Bắc
Hà hết sức rối ren.
Trịnh Giang không khắc phục được khó khăn, lại mắc bệnh nằm bẹp
dưới nhà hầm không điều hành được công việc. Trước tình hình đó, gia tộc họ
Trịnh phế bỏ Trịnh Giang, lập em Giang là Trịnh
Doanh lên ngôi năm 1740. Là người có tài năng, Trịnh Doanh điều
chỉnh chính sách, ra tay đánh dẹp, dần dần củng cố lại tình hình Bắc bộ.
Trong cuộc chinh phạt các cuộc khởi nghĩa, nổi lên tên tuổi các
danh tướng Hoàng Ngũ Phúc, Bùi Thế Đạt, Phạm Đình Trọng. Đến khi Trịnh Doanh mất
(1767), cơ bản các cuộc khởi nghĩa đều bị dẹp tan, chỉ còn Hoàng Công Chất và
Lê Duy Mật.
Chân dung chúa
Trịnh Sâm trong Trịnh gia chính phả
Lê
bại Trịnh vong
Tây Sơn khởi nghĩa
Hòa bình lâu dài với Đàng Trong kết thúc khi cuộc nổi dậy Tây Sơn ở phía nam chống lại chúa
Nguyễn bùng nổ năm 1771. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn được chúa Trịnh
Sâm coi là một cơ hội để kết liễu chúa Nguyễn ở miền nam Việt
Nam. Năm 1774, Trịnh
Sâm cử lão tướng quận Việp Hoàng Ngũ Phúc mang quân tấn công và chiếm Phú Xuân. Quân Trịnh tiếp tục tiến về phía nam
trong khi quân Tây Sơn chiếm các thành khác ở trong nam. Các chúa Nguyễn
giữ Gia Định tới tận khi nó bị chiếm vào năm 1777 và
dòng họ nhà Nguyễn gần như bị tiêu diệt.
Lần đầu tiên bờ cõi của Lê-Trịnh được mở rộng đến Quảng Nam.
"Truyền tộ bát đại, tiêu tường khởi vạ"
Họ Trịnh từ Trịnh Kiểm đến Trịnh
Sâm là truyền được 9 đời chúa. Năm 1782, Trịnh Sâm qua đời.
Ngay từ khi Sâm còn sống đã diễn ra cuộc tranh giành ngôi thế tử giữa con
trưởng Trịnh Tông và con thứ Trịnh Cán. Cán còn nhỏ nên
thực chất đó là phe Tuyên phi Đặng Thị Huệ. Tuyên phi lôi kéo quận Huy là Hoàng Đình Bảo (cháu Hoàng Ngũ Phúc). Vì Tuyên phi được sủng ái
nên Trịnh Cán được lập làm thế tử. Khi Sâm mất, Trịnh Cán lên thay, quận Huy
phụ chính. Quân kiêu binh giúp Trịnh Tông làm binh biến giết chết quận Huy, phế
bỏ Trịnh Cán và đưa Tông lên ngôi chúa, đổi tên là Khải.
Tuy nhiên từ khi Trịnh Khải lên ngôi, chính sự cũng không sáng
sủa. Quân kiêu binh cậy công làm càn, cướp của, phá phách kinh đô, kể cả nhà
các quan lại. Trịnh Khải không dẹp nổi.
Ngoài biên cương, sau khi quận Việp mất, thành Phú Xuân giao cho Bùi Thế Đạt. Sau Đạt cũng
rút về bắc giao lại cho Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể. Tướng sĩ kiêu ngạo, lơ
là mất cảnh giác phòng bị.
Vua chúa cùng chạy
Tây Sơn không muốn trở thành kẻ bầy tôi của các chúa Trịnh và
sau một vài năm củng cố quyền lực ở phía nam, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ tiến ra phía bắc Đại Việt vào giữa
năm 1786 với
một đội quân đông đảo. Quân Trịnh bị quân Tây Sơn đánh bại và chúa Trịnh Khải phải chạy về phía bắc rồi sau đó bị
bắt và tự vẫn.
Quân Tây Sơn rút về, sau đó các bầy tôi cũ lại lập con Trịnh
Giang là Trịnh Bồng lên ngôi. Vua Lê mới là Chiêu Thống muốn chấn hưng nhà Lê nên triệu Nguyễn Hữu Chỉnh đang trấn thủ Nghệ An ra
giúp. Chỉnh đánh tan quân Trịnh, Trịnh Bồng bỏ đi mất tích.
Tuy nhiên sau đó Nguyễn Hữu Chỉnh lại lộng quyền. Nguyễn Huệ
phái Vũ Văn Nhậm ra giết Chỉnh rồi đến lượt Nhậm lại
mưu cát cứ ở Bắc Hà khiến Lê Chiêu Thống phải bỏ đi lưu vong, chạy
sang Trung Quốc cầu viện nhà
Thanh.
Vua Càn
Long điều một đội quân lớn tới Đại Việt nhằm tái lập vua Lê.
Quân Thanh chiếm được Thăng Long năm 1788 nhưng
sau đó bị Nguyễn Huệ giáng cho một đòn nặng nề đầu năm 1789. Quân Thanh thua
to, rút chạy. Nguyễn Huệ -lúc ấy đã là hoàng đế Quang Trung - sau đó được vua Thanh công nhận và
chính thức thay họ Lê cai trị nước Đại Việt. Chiêu Thống lưu vong và mất (1793) ở
Trung Quốc.
Đánh
giá
Các chúa Trịnh cầm quyền từ năm 1545 đến năm 1786, tổng cộng 241
năm, được 11 đời chúa. Nếu kể cả Trịnh Kiểm và Trịnh Cối là có 13 chúa. Xét ra
đời Trịnh Cán, Trịnh Khải và Trịnh Bồng ngắn và rối ren nên thường chỉ tính 8
đời cầm quyền vững vàng, thịnh trị của họ Trịnh từ Trịnh Tùng đến Trịnh Sâm như
lời "sấm ngữ". Có lẽ câu chuyện về mẹ Trịnh Kiểm do đời sau đặt ra.
Thời gian nắm quyền của các chúa Trịnh là dài so với các Triều
đại nhà Trần, Mạc, Tiền Lê, Hồ cũng
như nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn sau
này, ổn định đất nước trong thời Nam Bắc triều phân tranh.
Các chúa Trịnh đã tránh một số vấn đề quản lý triều đình bằng
cách lựa chọn người giỏi nhất từ thế hệ trẻ họ Trịnh để cai trị đất nước. Thứ
bậc anh em không được họ Trịnh coi trọng nhiều và đã có lời nói rằng đứa con
thứ hai sẽ trở thành người lãnh đạo tốt hơn. Giống như các chúa Nguyễn và nhà
Nguyễn sau này, các chúa Trịnh cũng gặp phải vấn đề với các cuộc
nổi dậy của nông dân và việc không có ruộng đất đã trở thành một nguồn gốc gây
nên các vấn đề cho triều đình.
Các chúa Trịnh chú ý tới việc giữ vững các quan hệ tốt với Trung
Quốc và giữ gìn xã hội Khổng
giáo hơn các chúa Nguyễn. Những người châu Âu hầu như không có lãi
khi buôn bán với các chúa Trịnh, cả người Hà Lan (năm 1637) và
người Anh (năm
1673) đều đã lập thương điếm nhỏ ở trung tâm Thăng Long nhưng không phát triển
được.
Vào những năm sau này khi nhà
Nguyễn nổi lên và cai trị toàn bộ Việt Nam, các
chúa Trịnh đã bị đánh giá thấp, thậm chí lên án trong chính sử, điển hình là
sách "Khâm định Việt sử Thông giám cương mục". Nếu nhìn nhận khách
quan hơn, chỉ trừ Trịnh
Giang, các chúa từ Trịnh Kiểm đến Trịnh
Sâm đều là những vị chúa tài ba, do đó đã hoàn thành việc đánh
dẹp và cai trị phía Bắc Việt Nam, giữ cho xã hội Đại Việt ổn định trong gần 2
thế kỷ.
Chiến tranh Trịnh-Nguyễn diễn ra trong 45 năm giữa
thế kỷ 17 nhưng trong thời gian đó Bắc Hà không có cuộc bạo loạn, chống đối nào
của nông dân. Sử gia Tạ Chí Đại Trường nhận xét trong sách
"Bài sử khác cho Việt Nam":[1]
"Công
bình nhìn lại, ta thấy không có ông chúa nào mà không xứng đáng với tính cách
người thủ lĩnh cả. Họ giết nhau để giành ngôi hay giữ ngôi nhưng rõ ràng là thật
tận lực trong địa vị lãnh đạo đất nước. Trịnh Căn có một tuổi trẻ hư đốn theo lời
gia phả họ Đặng nhưng đã len lách lên đến tột đỉnh bằng chính quân công của
mình trước khi chứng tỏ khả năng điều hành. Trịnh Cương là người thi hành cải
cách nhiều nhất, có căn bản nhất như cải cách thuế khoá 1723, hình phạt cũng bớt
phần tàn khốc (không chặt tay 1721, không xử tử xã trưởng ẩn lậu dân đinh.) Trịnh
Giang bị lật đổ với cớ làm hư hỏng triều chính nhưng đó là khi ông ta đã đắc
chí và mang bệnh hoạn, còn khi mới lên ngôi ông vẫn sử dụng Nguyễn Công Hãng để
thi hành những cải cách lớn lao dù đã bị ông này chê nặng lời khi còn là Thế tử."
Các chúa Trịnh
Căn, Trịnh
Doanh và Trịnh
Sâm ngoài võ công còn được đánh giá là những người hay chữ. 5
chúa đầu từ Trịnh Kiểm đến Trịnh
Căn đều rất thọ (từ 68 đến 81 tuổi), hẳn các chúa cũng phải là
những sống người nghiêm túc và điều độ. Các thành tựu của nhà Lê Trung Hưng thực chất là thành tựu do
các chúa Trịnh.
Hiển nhiên với ngôi vị "phi đế phi bá", vừa thực sự là
người cầm trịch trong bộ máy chính quyền, vừa phải cảnh giác với sự nổi dậy đòi
quyền của họ Lê, các chúa Trịnh phải luôn có thái độ cứng rắn, cương quyết,
không thể ôn hòa để nhằm bảo vệ địa vị của mình. Do đó việc phế lập tại triều
đình trong cuộc đấu tranh đó là khó tránh khỏi. Chỉ có các vua Lê Trung Hưng
bằng lòng sống chung với họ Trịnh mới có thể tồn tại. Tuy nhiên trong thời
phong kiến việc lấn át quyền lực của nhà vua làm cho các chúa Trịnh bị mang
tiếng mãi cùng với lịch sử. Họ Trịnh suy tàn bắt đầu từ thời Trịnh Giang lên
nắm quyền hành. Trịnh Giang ăn chơi trác táng, giết vua này, lập vua kia, tư
thông với cung nữ của cha, xây dựng nhiều chùa chiền làm hao tổn sức dân. Vì
những việc làm đó họ Trịnh quyết định đưa Trịnh Doanh lên thay nhằm cải cách
lại đất nước, đối xử tốt với vua Lê nên đã phần nào cải thiện lại được tình
hình, tuy nhiên sang thời Trịnh Sâm tình hình lại xấu đi vì Trịnh
Sâm kiêu căng ngạo mạn, ăn chơi xa xỉ, sửa sang phép tắc mô
hình trong cung một cách bừa bãi, không quyết đoán, đố kị người hiền, ham mê
chiến trận quá mức khiến đất nước kiệt quệ và điều gì đến sẽ phải đến họ Trịnh
trượt dốc nhanh chóng rồi bị Tây Sơn đánh đổ một cách dễ dàng, Trịnh Khải phải dùng dao cắt cổ tự tử.
Danh
sách mười một chúa Trịnh
Chúa | Ở ngôi |
Đời vua | Miếu Hiệu |
Thụy Hiệu | Ghi chú
|
(1533-1548) | | (明康太王) | xưng là chúa nhưng
|
(1548-1556) | | |
là Minh Khang Thái
|
(1556-1573) | | |
không phải là vị
| | | |
chúa Trịnh đầu tiên.
| quốc công (忠國公). Do đó ông không được xem là chúa Trịnh đầu
| tiên.
|
(1573-1599) | | | trong lịch sử.
|
Lê Kính Tông |
|
(1599-1619) |
|
Lê Thần Tông|
|
(1619-1643) |
|
Lê Thần Tông|
|
(lần hai: |
|
1649-1662) |
|
(1662-1671) |
|
(1671-1675) |
|
(1675-1705) |
|
(1705-1729) |
|
Duy Phường | | Lương mục vương
|
Trịnh Vịnh, con trai của Tấn Quang
|
Lê Ý Tông |
năm 1740
|
(1735-1740)
|
(1740-1786)
Trịnh Sâm | (15 năm) | |
của Trịnh Doanh.
Trịnh Cán | (Một tháng) | | | | và mất
sau loạn kiêu binh 1782;
|
Sau khi mất được ban thụy là Trung Cần
Trịnh Khải | (4 năm) | Lê Hiển Tông|
Trịnh Bồng | (Một năm) |
Phả
hệ
1545 – 1570
|
1
1570 – 1623
|
2
1623 – 1657
|
3
1657 – 1682
|
4
1682 – 1709
|
|
|
5
1709 – 1729
|
+------------------------------------------------+
| |
6 7
1729 – 1740 1740 –
1767
| |
11 8
1786 – 1787 1767 – 1782
|
--------------------------------------------------
| |
10 9
1782 – 1786 1782 - 1782