Nhà Hồ (chữ Hán: 胡朝, Hồ Triều)
Nhà Hồ
Nhà Hồ
Đế quốc
1400–1407
Cương vực Đại Ngu
Lịch sử
Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt 1407
Nhà Hồ (chữ Hán: 胡朝, Hồ Triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi giành được quyền lực từ
tay nhà Trần và chấm dứt
khi Hồ Hán Thương bị quân Minh bắt vào năm 1407 – tổng cộng là 7 năm.
Thành
lập
Nhà Hồ do Hồ Quý Ly, một đại quý tộc và đại thần nhà Trần thành lập. Từ năm 1371, Hồ Quý
Ly, khi đó mang họ Lê, được tham gia triều chính nhà Trần, được vua Trần Dụ Tông cho
làm Trưởng cục Chi hậu. Sau, vua Trần Nghệ Tông đưa
ông lên làm Khu mật đại sứ, lại gả em gái là công chúa Huy Ninh.
Nhà Trần, sau biến cố Dương Nhật Lễ, cái
chết của Trần Duệ Tông và
sự cướp phá của Chiêm Thành, ngày càng suy sụp. Thời hậu kỳ
nhà Trần, mọi việc chính sự do thượng hoàng Trần Nghệ Tông quyết định. Trần Nghệ Tông lại
rất trọng dụng Hồ Quý Ly nên khi về già thường ủy thác mọi việc cho Quý Ly
quyết định. Dần dần binh quyền của Quý Ly ngày một lớn, Nghệ Tông tuổi cao sức
yếu cũng không kìm chế nổi.
Năm 1394 Trần Nghệ Tông mất, Hồ Quý Ly được phong làm Phụ chính Thái
sư nhiếp chính, tước Trung tuyên Vệ quốc Đại vương, nắm trọn quyền hành trong
nước.
Sau khi vua Trần dời đô từ Thăng Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quần thần
trung thành với nhà Trần, tháng 2 năm Canh Thìn 1400,
Hồ Quý Ly truất ngôi của cháu ngoại là Trần Thiếu Đế, tự
lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập nên nhà Hồ.
Kinh
tế-xã hội
Xem thêm: Hồ Quý Ly
Tiền giấy được phát hành lần đầu tiên năm 1396 dưới
thời vua Trần Thuận Tông, tuy nhiên người quyết định khi đó có lẽ là Hồ Quý Ly.
Sau này, trong thời đại của mình, nhà Hồ đã có một số cải cách về hành
chính, kinh tế, xã hội như: làm sổ hộ tịch, hạn chế gia nô, lập kho dự trữ thóc
gạo, định lại quan chế và hình luật, thuế và tô ruộng, di dân khẩn hoang, lập
cơ quan chăm sóc y tế v.v
Tuy nhiên, các cải cách của nhà Hồ hầu như không giành được thành công, do
những thủ đoạn mà Hồ Quý Ly đã làm để lên ngôi khiến dân chúng xa lánh nhà Hồ.
Hành chính
Dưới triều Hồ Hán Thương, năm 1401 đã
cho làm sổ hộ tịch trong cả nước, lập phép hạn chế gia nô.
Năm 1403, di dân không có ruộng đến Thăng Hoa
(vùng đất mới thu được sau khi Chiêm Thành dâng nộp năm 1402, gồm 4 châu
Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa tức là đất các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy
Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam ngày
nay, huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ thuộc tỉnh Quảng Ngãi ngày nay).
Cùng năm đặt Quảng tế (cơ quan coi về mặt y tế).
Luật pháp
Cuối năm 1401, định quan chế và hình luật nhà nước Đại Ngu.
Sử sách không nói rõ là nhà Hồ đã sửa đổi như thế nào so với thời trước
của nhà Trần.
Kinh tế
Bài chi tiết: Kinh tế Việt
Nam thời Hồ
Đầu phượng bằng gốm dùng để trang trí mái cung điện thời
Hồ.
Gạch lát nền trang trí hoa sen thời Hồ.
Gạch trang trí rồng thời Hồ.
Việc đổi tiền được Hồ Quý Ly khởi xướng thực hiện từ trước
khi nhà Hồ được chính thức thành lập (1400).
Năm 1396, tháng 4, Hồ Quý Ly khi đó nắm toàn quyền
điều hành nhà Trần bắt đầu phát tiền giấy Thông bảo hội sao. Cứ 1
quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2
tiền giấy. Cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết
về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội
chết như làm tiền giả.
Thể thức tiền giấy: tờ 10 đồng vẽ rong, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ
1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1
quan vẽ rồng. Kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản tịch thu.
Tiền đồng nhà Hồ
Về việc này, nhiều sử gia có những đánh giá rất khác nhau. Có người cho
rằng Hồ Quý Ly cần thu đồng để đúc vũ khí. Cũng có người đánh giá cao cải cách
tiền giấy của Hồ Quý Ly tuy rằng nó đã thất bại. Sau này, Hồ Nguyên Trừng là
một chuyên gia rất giỏi trong đúc súng thần công.
Năm 1400, đánh thuế thuyền buôn, định 3 mức thượng, trung, hạ.
Mức thượng đánh thuế mỗi thuyền 5 quan, mức trung 4 quan, mức hạ 3 quan.
Năm 1402 định lại các lệ thuế và tô ruộng.
Trước đây, mỗi mẫu thu 3
thăng thóc, nay thu 5 thăng.
Bãi dâu, trước thu mỗi mẫu 9 quan hoặc 7 quan tiền, nay thu hạng thượng
đẳng mỗi mẫu 5 quan tiền giấy, hạng trung đẳng mỗi mẫu 4 quan tiền giấy, hạng
hạ đẳng 3 quan tiền giấy.
Tiền nộp hằng năm của đinh nam trước thu 3 quan, nay chiếu theo số ruộng,
người nào chỉ có 5 sào ruộng thì thu 5 tiền
giấy; từ 6 sào đến 1 mẫu thì thu 1 quan; 1,1 mẫu đến 2 mẫu thu 2 quan; từ 2,1
mẫu đến 2,5 mẫu thu 2 quan 6 tiền; từ 2,6 mẫu trở lên thu 3 quan.
Như vậy, có thể thấy việc đánh thuế của nhà Hồ có sự phân biệt, phân loại
rõ ràng hơn so với trước đây.
Năm 1401, lập kho thường bình dự
trữ thóc để ổn định kinh tế.
Ngoại giao
Xem thêm: Chiến
tranh Việt-Chiêm 1400-1407
Trên mặt trận này, nhà Hồ đã phải nhún nhường hết mức, thậm chí năm 1405 đã
phải cắt 59 thôn ở Lộc Châu (tỉnh Lạng Sơn ngày nay) để mong tránh được họa
binh đao nhưng cuối cùng cũng không tránh khỏi họa xâm lăng của nhà Minh
năm 1406.
Đối với Chiêm Thành, quan hệ
vẫn là giữa nước lớn (Đại Ngu) và nước nhỏ (Chiêm Thành). Trong suốt thời kỳ
đầu (1400-1403) nhà Hồ liên tục đem quân tấn công Chiêm Thành và đã chiếm được
1 phần lãnh thổ từ Chiêm Thành.
Sau khi chiếm được lãnh thổ từ Chiêm Thành,nhà Hồ lập ra xứ Thăng Hoa (
Quãng Nam và Quãng Ngãi ngày nay).
Lúc này lãnh thổ nước ta đã tới tận Quãng Ngãi
Việc thi cử
Bài chi tiết: Giáo dục khoa cử
thời Hồ
Đầu hổ bằng gốm dùng để trang trí trong thời nhà Hồ.
Từ cuối thời Trần (1396), Hồ Quý Ly đã thay đổi chế độ thi cử nhân, bỏ
cách thi ám tả cổ văn chuyển sang tứ trường văn thể.
Năm 1404, Hồ Hán Thương định thể thức thi chọn nhân tài: Cứ tháng 8 năm
trước thi Hương, ai đỗ thì được miễn tuyển bổ; lại tháng 8 năm sau thi Hội, ai
đỗ thì thi bổ thái học sinh. Rồi năm sau nữa lại bắt đầu thi hương như hai năm
trước. Phép thi phỏng theo lối văn tự ba trường của nhà Nguyên nhưng chia làm 4
kỳ, lại có kỳ thi viết chữ và thi toán, thành ra 5 kỳ.
Tháng 8 năm 1400, Hồ Quý Ly mở khoa thi thái học sinh.
Lấy đỗ Lưu Thúc Kiệm, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng
Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành, Nguyễn Nhữ Minh (Nguyễn Quang Minh) v.v gồm
20 người.
Tháng 8 năm 1405, Hồ Hán Thương sai bộ Lễ thi chọn nhân tài, đỗ được 170
người.
Lấy Hồ Ngạn, Lê Củng Thần sung làm thái học sinh lý hành; Cù Xương Triều
và 5 người khác sung làm Tư Thiện đường học sinh.
Tôn giáo
Năm 1396, theo lời Hồ Quý Ly, vua Trần Thuận Tông đã
xuống chiếu sa thải các tăng đạo chưa đến 50 tuổi trở xuống, bắt phải hoàn tục.
Lại thi những người thông hiểu kinh giáo, ai đỗ thì cho làm Đường đầu thủ
(Tăng đường đầu mục), tri cung, tri quán, tri tự, còn thì cho làm kẻ hầu của
người tu hành.
Cuộc
xâm lăng của nhà Minh
Tổng động viên, xây thành lũy
Một viên đạn đại bác bằng đá thời nhà Hồ được tìm thấy ở
thành Tây Đô.
Trước họa xâm lăng của nhà Minh, nhà Hồ đã phải lo củng cố quân sự.
Năm 1404, Hồ Hán Thương cho đóng thuyền đinh sắt, có hiệu là Trung
tàu tải lương, Cổ lâu thuyền tải lương, nói là chở lương, nhưng
trên có đường đi lại để tiện chiến đấu, dưới thì hai người chèo một mái chèo.
Năm 1405, Hồ Hán Thương lệnh cho những nơi đầu nguồn ở các trấn nộp gỗ làm
cọc. Châu Vũ Ninh thì cho lấy gỗ ô mễ ở lăng Cổ Pháp đưa đến cho quân đóng cọc
ở các cửa biển và những nơi xung yếu trên sông Cái (sông Hồng) để phòng giặc phương Bắc.
Tháng 6, đặt bốn kho quân khí. Không kể là quân hay dân, hễ khéo nghề đều
sung vào làm việc.
Tháng 7, Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương đi tuần tra xem xét núi sông và các
cửa biển, ở kinh lộ, để kiểm tra xem xét thế hiểm yếu của các nơi, tháng 9 tổ
chức lại quân đội.
Định quân Nam ban và Bắc ban chia thành 12 vệ; quân Điện hậu đông và tây
chia thành 8 vệ; mỗi vệ 18 đội, mỗi đội 18 người; đại quân thì 30 đội, trung
quân thì 20 đội, mỗi doanh là 15 đội, mỗi đoàn là 10 đội; cấm vệ đô thì 5 đội.
Đại tướng quân thống lĩnh cả.
Nhà Hồ sai Hoàng Hối Khanh đốc
suất dân phu đắp thành Đa Bang (huyện Ba Vì,
tỉnh Hà Tây ngày nay),
sai quân vệ Đông Đô đóng cọc chặn cửa sông Bạch Hạc
(ngã ba sông Hồng chảy
qua thành phố Việt Trì ngày nay)
để chống thủy quân giặc từ Tuyên Quang xuống.
Tháng 7 năm 1406, Hồ Hán Thương ra lệnh cho các lộ đóng cọc gỗ ở bờ phía
nam sông Cái, từ thành Đa Bang đến Lỗ Giang và từ Lạng Châu đến Trú Giang Giang
để làm kế phòng thủ.
Bại trận trước địch mạnh
Bài chi tiết: Chiến tranh
Minh-Đại Ngu
Trong khi đó, tháng 4 năm 1406, nhà Minh sai Hàn Quan và Hoàng Trung đem
10 vạn quân ở Quảng Tây sang, mượn cớ đưa con cháu nhà Trần là Trần Thiêm Bình về
làm vua.
Qua một số trận giao tranh nhỏ, quân Hồ thắng trận, quân Minh phải giao
nộp Thiêm Bình mới được rút lui.
Tháng 9 năm ấy, nhà Minh sai Trương Phụ, Trần Húc,
đem 40 vạn quân đánh vào cửa ải Pha Lũy (cửa khẩu Hữu Nghị ngày nay), Mộc Thạnh, Lý Bân cũng đem 40 vạn quân đánh vào cửa
ải Phú Lệnh (gần thị xã Hà Giang ngày
nay), hai đạo quân tổng cộng là 80 vạn.
Trương Phụ (tiếng Trung
Quốc: 張輔, 1375 – 1449), tự Văn Bật (文弼), là một tướng lĩnh, đại thần của nhà Minh từ đời Minh Thành Tổ Chu Đệ đến đời Minh Anh Tông Chu Kì Trấn.
Tháng 10, quân Minh hội ở sông Bạch Hạc, bày doanh trại bờ bắc sông Cái,
đến tận Trú Giang. Ngày 2 tháng 12, người Minh chiếm được Việt Trì, bờ sông Mộc
Hoan và chỗ đóng cọc ở sông Bạch Hạc. Tướng chỉ huy quân Tả Thánh Dực là Hồ Xạ
không giữ nổi, phải dời hàng trận sang phía nam sông Cái.
Đêm mùng 7, người Minh cho khiêng thuyền ra bờ phía bắc bãi sông Thiên
Mạc. Tướng quân Trần Đĩnh đánh bại quân Minh.
Đêm ngày mùng 9, quân Minh đánh úp quân họ Hồ ở bãi Mộc Hoàn. Tướng chỉ
huy quân Nguyễn Công Khôi, không phòng bị, thuyền bị cháy gần hết, toàn quân bị
tiêu diệt. Thủy quân ở phía trên và phía dưới không ai đến cứu, chỉ từ xa xin
Hồ Nguyên Trừng xem ai có thể thay giữ chỗ đó. Quân Minh liền vượt sông làm cầu
phao để sang.
Sáng ngày 12, Trương Phụ cùng
Hoàng Trung, Thái Phúc tiến công phía tây bắc thành Đa Bang. Mộc Thạnh cùng
Trần Tuấn tiến công phía đông nam thành.
Nguyễn Tông Đỗ, chỉ huy quân Thiên Trường đào thành cho voi ra. Người Minh
dùng hỏa tiễn bắn voi. Voi lui lại, người Minh theo voi đánh vào. Thành bị hạ.
Quân ở dọc sông tan vỡ, lui giữ Hoàng Giang. Người Minh vào Đông Đô.
Theo Minh sử: quân Minh dùng hỏa khí công kích mạnh mẽ
để hỗ trợ cho binh lính trèo lên chiếm mặt thành, quân Minh thừa thế ồ ạt kéo
vào thành. Tướng nhà Hồ trong thành dùng voi chiến phản kích, nhưng quân Minh
tung kỵ binh ứng chiến, ngựa của quân Minh đều có trùm da hổ, voi trông thấy tưởng
hổ thật, hoảng sợ tháo lui, quân nhà Hồ tan vỡ, thành bị chiếm.
Năm 1407, ngày 20 tháng 2, Hồ Nguyên Trừng tiến
quân đến sông Lô, quân Minh giữ hai bên bờ sông đánh kẹp lại, quân Hồ thất bại,
lui giữ Muộn Khẩu (cửa sông Hồng ở Giao Thủy, Nam Định ngày nay). Hồ Quý Ly và Hồ Hán
Thương đều trở về Thanh Hóa. Hồ Đỗ, Hồ
Xạ bỏ Bình Than qua Thái Bình, Đại Toàn đến Muộn Khẩu, hợp sức đắp
lũy, đúc hỏa khí, đóng thuyền chiến để chống lại. Quân Minh đối lũy với quân
Hồ, ngày đêm đánh nhau, vì nắng mưa, dịch bệnh, bùn lầy ẩm uớt khó ở, bèn dời
đến đóng ở Hàm Tử, lập doanh trại
phòng bị nghiêm ngặt. Hồ Nguyên Trừng và Hồ Đỗ cũng dời quân đến Hoàng Giang,
lại đón Hồ Quý Ly, Hồ Hán Thương từ Thanh Hóa tới.
Ngày 13 tháng 3, Hồ Nguyên Trừng cùng Hồ Đỗ, Đỗ Mãn tiến quân đến cửa Hàm
Tử đánh quân Minh song thất bại. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương dẫn các tướng và
quan lại vượt biển trở về Thanh Hóa. Hồ Đỗ, Hồ Xạ chạy về vùng Tổng Vạn
Xuân, của sông Hóa Thái Bình. Ngày 23 tháng 4, quân Minh đánh vào Lỗi Giang,
quân Hồ không đánh mà tan. Ngày 29, quân Minh đánh vào cửa biển Điển Canh, thủy
quân nhà Hồ tự tan vỡ.
Ngày 5 tháng 5, quân Minh đánh vào cửa biển Kỳ La (huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay). Ngày 11, quân Minh
đánh vào Vĩnh Ninh. Quân Minh bắt được Hồ Quý Ly ở bãi Chỉ Chỉ; Hồ Nguyên Trừng
ở cửa biển Kỳ La. Ngày 12, bắt được Hồ Hán Thương và thái tử Nhuế ở núi Cao
Vọng (Kỳ Anh, Hà Tĩnh). Nhà Hồ sụp đổ.
Trương Phụ, Mộc Thạnh sai Liễu Thăng, Lỗ Lân, Trương Thăng, Du Nhượng,
Lương Định, Thân Chí bắt giải Hồ Quý Ly và các con cháu cùng các tướng Hồ Đỗ,
Nguyễn Ngạn Quang, Lê Cảnh Kỳ; Đoàn Bổng, Trần Thang Mông, Phạm Lục Tài cùng ấn
tín đến Kim Lăng.
Tháng 8, Trương Phụ và Mộc Thạnh đem quân về, lưu lại Lữ Nghị, Hoàng Phúc trấn giữ.
Liễu Thăng Thạch, tương truyền
sau khi Liễu Thăng bị Lê Sát chém cụt đầu đã hóa đá nơi đây
Biết tin nhà Hồ sụp đổ, nông dân đã nổi dậy khởi nghĩa, cụ thể:
Nhận
định
Công cuộc cải cách của nhà Hồ thực hiện chỉ được trong thời gian quá ngắn
ngủi. Cũng như nhiều cuộc cải cách khác trong lịch sử, cuộc cải cách của Hồ Quý
Ly vấp phải sự phản đối trong nước, nhưng không phải vì vậy mà nhìn nhận cuộc
cải cách hoàn toàn tiêu cực.
Như trường hợp "Biến pháp Thương Ưởng" đời Chiến quốc ở nước Tần trong lịch sử Trung Quốc,
thời kỳ đầu cũng gây sốc mạnh trong xã hội nước Tần, nhưng sau đó vẫn được duy
trì và nhờ vậy mà nước Tần trở thành một nước hùng mạnh, tạo tiền đề cho sự
thống nhất toàn quốc. Sự phản ứng của dân chúng nước Tần cũng lắng dần theo
thời gian.
Vấn đề của cuộc cải cách nhà Hồ là nó chưa đủ thời gian để phát huy tác
dụng. Mặt khác, các nhà nghiên cứu hiện đại cho rằng các chính sách cải cách đó
chủ yếu phục vụ cho lợi ích chiến tranh; hơn thế nữa cuộc cải cách được thực
hiện dồn dập trong thời gian ngắn: dùng chữ Nôm để đề cao ý thức dân tộc, dùng
tiền giấy tuy tiết kiệm nhưng dân chúng chưa thích nghi thói quen tiêu dùng
mới, hạn điền và hạn nô làm giảm lợi ích của
địa chủ, quý tộc cũ...
Cuộc cải cách gây xáo trộn lớn trong tâm lý mọi người và sự bất bình, chia
rẽ sâu sắc trong xã hội. Sự bất bình còn chưa kịp lắng xuống thì đã có bàn tay
lớn thò vào cùng tiếng hô hào "lật đổ" khiến số đông người trong nước
Đại Ngu đồng tình.
Việc dời đô từ Thăng Long, nơi trung
tâm đô hội, quy tụ nhân tâm trong nước, vào Thanh Hoá cũng cho thấy một phần biểu
hiện của sự mất lòng dân ở vùng căn bản Bắc Bộ. Khi không có được sự ủng hộ
rộng rãi của quần chúng trong nước, nhà Hồ gặp vô vàn khó khăn khi phải chống
ngoại xâm và đã thất bại nhanh chóng, không thể duy trì được cuộc kháng chiến
trường kỳ mà nhà Lý, nhà Trần từng làm chống phương Bắc.
Trước nguy cơ can thiệp dùng chiêu bài "phù Trần diệt Hồ"
của nhà Minh, nhà Hồ không kịp thời có những điều
chỉnh cần thiết để quy tụ lòng người và có biện pháp ngoại giao mềm dẻo hơn để
duy trì hòa bình cần thiết. Trái lại nhà Hồ chủ trương dùng biện pháp cứng rắn
để đối phó với kẻ địch mạnh hơn nhiều trong khi mình chưa đủ thực lực và
"chân đứng" trong nước và hơn nữa khả năng quân sự của các nhà cầm
quyền triều Hồ lại chỉ là sở đoản.
Còn một nguyên nhân khác dẫn đến thất bại của nhà Hồ. Đối với vấn đề Chiêm
Thành, nhà Hồ cũng mắc sai lầm tương tự. Trước đây khi gặp giặc mạnh, nhà Trần
chủ trương liên minh với Chiêm chứ không gây hấn; vua Đại Hành nhà Tiền Lê rất
giỏi về quân sự nhưng cũng chỉ phát binh đánh Chiêm sau khi đã làm nhà Tống thua tơi tả phải chùn tay ở phía
bắc; nhà Hồ ngược lại vừa lập nước đã liên tiếp đánh Chiêm, tuy đất đai có được
mở nhưng sức lực hao mòn, chỗ đất mới chưa đứng vững chân được để làm nơi dung
thân khi bị phương bắc ép xuống, nước Chiêm khi đó đã thành cừu thù không thể
xin nhờ cậy.
Như vậy nhà Hồ chẳng những tự cô lập mình trong chính sách đối nội mà
trong chính sách đối ngoại cũng tự cô lập nốt. Trong không được lòng dân, ngoài
không có liên minh, kẻ địch mạnh hơn gấp bội, nhà Hồ thất bại là tất yếu. Thất
bại của nhà Hồ là bài học sâu sắc trong việc giữ nước mà nhà Hậu Lê (tạm
lập Trần Cảo) và nhà Mạc (đầu hàng nhà Minh trên danh
nghĩa) sau này đã rút ra kinh nghiệm để không mắc phải sai lầm tương tự, gây ra
cảnh "nước mất nhà tan".
Sau 500 năm giành được quyền tự chủ, Việt Nam lại mất về tay Trung Quốc.
Sau Khúc Thừa Mỹ, tới
đầu thế kỷ 15, người cai trị Việt Nam lại bị bắt làm tù binh. Cha con Hồ Quý Ly
chỉ có phong thái của những ông vua văn trị, những ông quan mũ cao áo dài mà
không phải là những chiến tướng khi có chiến sự, do đó đều chịu trói về bắc mà
không dám chọn lấy cái chết oanh liệt khi đại cuộc không thể cứu vãn.
Việc mất nước của nhà Hồ để lại hậu quả tổn thất không nhỏ cho nước Đại Việt, nhất là về
văn hoá.
Các
vua nhà Hồ
|
(1401-1402) |
| Khai Đại |
Thế phả nhà Hồ
1 Hồ Quý Ly 1400-1401
2 Hồ Hán Thương 1401-1407
Hồ Qúy Ly - Nhìn Lại 3 Công 6 Tội || Lịch Sử Có Nên Đổ Tội Lên Đầu Hồ Qúy
Ly Hay Ca Tụng Qúa Đáng
Luận lịch sử : Hồ Quý Ly - Bản bi hùng ca cho sự mục nát của Đại Việt cuối
thể kỉ XIV
No comments:
Post a Comment