Cách nay 43
năm, cộng quân tấn công Ban Mê Thuột, mở đẩu cho sự xụp đổ của miền Nam
Ngày 10 tháng 03, 1975
·
1975 – Chiến tranh Việt Nam: Quân Giải phóng bắt đầu tấn công Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên, và chiếm lĩnh toàn bộ thị xã vào hôm sau.
Lịch sử của kẻ chiến thắng.
(Chuyện bàng quan, nói sơ sài.)
Battle of Ban Me Thuot
The Battle
of Ban Me Thuot was a
decisive battle of the Vietnam War which led to the complete
destruction of South Vietnam's II Corps Tactical Zone. The battle was part of a larger North Vietnamese military operation known
as Campaign 275 to capture the Tay Nguyen region, known in the West
as the Vietnamese Central Highlands.
Bốn vùng chiến thuật
Chiến dịch Tây Nguyên (từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4 năm 1975), mật
danh Chiến dịch 275, là
chiến dịch mở đầu cuộc Tổng tấn công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 do Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam phát
động tấn công.
Với cuộc tiến công của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam ngày 10 tháng
3 năm
1975 vào Buôn Ma Thuột, cánh Nam của Quân đoàn
II, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã bị
sụp đổ. Những nỗ lực tái chiếm Buôn Ma Thuột của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) trong các trận phản công ngày 11
và 13 tháng
3 đều
thất bại.
Ngày 14 tháng
3, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu, đồng thời là Tổng tư lệnh
Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã có một bước đi hết sức sai lầm khi ông ta quyết
định rút quân trên toàn địa bàn Tây Nguyên để về giữ miền duyên hải Trung bộ.
Buôn Ma Thuột 11.3.1975 (Nguồn: Việt Nam 30
năm chiến tranh giải phóng- Nhà xuất bản Thông tin 2004)
Ba ngày sau đó, hầu như toàn bộ Quân đoàn II Quân lực Việt Nam
Cộng hòa bị tiêu diệt và tan rã trong cuộc rút quân hỗn loạn trên con đường số
7 định mệnh.
Chaos descended on Route 7 as South
Vietnamese soldiers and civilians attempted to evacuate from the Central
Highlands
Chiến dịch này đã tạo nên một lỗ hổng rất lớn trong tuyến phòng
thủ quân sự của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại địa bàn Quân khu II - Quân đoàn II
QLVNCH.
Chiến dịch này mở đầu cho những thất bại quân sự khó có thể cứu
vãn nổi của Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Cùng với những sai lầm có tính chiến
lược trong phương án và cách thức điều quân, phối trí lại lực lượng của các cấp
chỉ huy QLVNCH mà đứng đầu là tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chiến dịch này đã
tạo nên những đột biến lớn trên chiến trường mở đầu cho sự thất bại và tan rã
toàn diện của QLVNCH tại miền Nam Việt Nam chỉ trong 55 ngày mùa xuân năm 1975,
dẫn đến sự chấm dứt Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) và tái thống nhất Việt Nam sau
21 năm bị chia cắt.
Lực lượng quân sự của
các bên:
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam:
Lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tham
chiến tại Mặt trận Tây Nguyên tháng 3 năm 1975 ban đầu được đặt dưới sự chỉ huy
của Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên (mật danh 275) trên cơ sở tổ chức lại Bộ
Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên (B3) trước đây.
Ngày 5 tháng 2 năm 1975, Bộ Tư lệnh được thành lập do Trung tướng Hoàng Minh Thảo làm Tư
lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm
chính uỷ, Thiếu tướng Vũ Lăng (nguyên Cục trưởng Cục tác chiến) và các
đại tá Phan Hàm, Nguyễn Năng,
Nguyễn Lang làm Phó tư lệnh. Đại tá Phí Triệu Hàm làm Phó chính uỷ, Đại tá Hồ Đệ làm
Tham mưu trưởng Quân đoàn kiêm Sư trưởng sư 10, sau làm Phó Tư lệnh quân đoàn
3.
Thượng tướng
Hoàng Minh Thảo
Trực tiếp chiến đấu:
Bộ binh:
·
Các sư đoàn 2 Quảng-Đà, 10 Đắktô, 316 Bông Lau, 320A Đồng Bằng,
968 Trường Sơn.
·
Các trung đoàn độc lập: 25, 271, 95A, 95B.
Đặc công: Trung đoàn 198 và 2 tiểu đoàn độc lập 14, 27.
Xe tăng-thiết
giáp: Trung đoàn 273.
Pháo binh: Các trung đoàn 40 và 675.
Phòng không: Các trung đoàn 232, 234, 593.
Bảo đảm chiến đấu:
Công binh: Các trung đoàn 7 và 575.
Thông tin: Trung đoàn 29.
Vận tải: một trung đoàn ô tô.
Tổng quân số các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam thuộc
Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên là 65.141 người, trong đó có 44.900 người trực
tiếp tham gia chiến đấu.
Riêng khối chủ lực có quân số 43.020 người; các đơn vị này được
trang bị 57 xe tăng, 88 khẩu pháo lớn từ 105 mm đến 130 mm hàng trăm
khẩu pháo 85 mm và cối 120, 160 mm, 6 bộ khí tài tên lửa chống tăng
B-72, 1.561 súng chống tăng B-40, B-41, hàng vạn súng bộ binh RPD, RPK, AK-47,
K-63 và CKC, 343 súng phòng không các cỡ, 679 ô tô các loại. Các kho dự trữ hậu
cần của mặt trận Tây Nguyên bảo đảm cung cấp cho các đơn vị từ 2 đến 3 tháng
trong điều kiện chiến đấu liên tục.
Đầu tháng 3 năm 1975, các lực lượng nói trên được bố trí như
sau:
-
Cụm Buôn Ma Thuột: Sư đoàn bộ binh 316, trung đoàn bộ binh 95B,
trung đoàn bộ binh 24 (thiếu tiểu đoàn), tiểu đoàn bộ binh 4 (trung đoàn 24),
trung đoàn đặc công 198, trung đoàn xe tăng 273 (thiếu 1 tiểu đoàn), 2 trung
đoàn pháo binh 40 (thiếu) và 675, 2 trung đoàn công binh 7 và 575, trung đoàn
thông tin 29.
-
Cụm Đức Lập: Sư đoàn 10 bộ binh (thiếu trung đoàn 24), trung
đoàn bộ binh 271, tiểu đoàn đặc công 14, một tiểu đoàn pháo binh (thuộc trung
đoàn pháo binh 40), 2 tiểu đoàn phòng không (thuộc trung đoàn phòng không 234.
-
Cụm Thuần Mẫn - đường 14: Sư đoàn bộ binh 320A (binh chủng hợp thành)
được bổ sung một trung đoàn của F968.
-
Cụm Pleiku-Kon Tum: Sư đoàn 968 (thiếu) và lực lượng vũ trang 2
tỉnh đảm nhiệm.
Ngoài ra, để thực hiện thành công kế hoạch nghi binh và tấn công
của mình, Quân Giải phóng đã huy động được sự hỗ trợ từ những người đồng bào
dân tộc thiểu số tại Tây Nguyên. Họ giúp đỡ làm đường, kéo pháo, đặc biệt là
phao tin để kế hoạch nghi binh thành công. Phối hợp với hoạt động của quân chủ lực,
các đơn vị vũ trang địa phương tỉnh, huyện và dân quân du kích các buôn làng đã
tham gia chiến đấu, phục kích tiêu diệt binh lính VNCH trên đường rút chạy.
Những vùng VNCH kiểm soát ở Bắc Tây Nguyên đã nổ ra gần 200 cuộc biểu tình thu
hút hàng vạn người tham gia đấu tranh. Binh vận là một mũi giáp công quan
trọng. Ở vùng dân tộc thiểu số, binh vận không chỉ đánh vào QLVNCH mà còn góp
phần làm tan rã hệ thống chính quyền của VNCH. Bằng các hình thức rải truyền
đơn, viết thư tay cho thân nhân trong binh lính VNCH và công chức, nhân viên
VNCH, chỉ riêng đồng bào các dân tộc ở Đắc Lắc đã làm rã ngũ 1000 lính VNCH và
250 chính quyền cấp xã. Các địa phương khác như Gia Lai, Kon Tum, Lâm Đồng...
làm tan rã hàng chục đơn vị vũ trang của QLVNCH.
Quân lực Việt Nam Cộng hòa:
Vùng duyên hải Trung-Nam Trung bộ:
Bộ binh: Sư đoàn 22 (4 trung đoàn: 41, 42, 43, 52) và 45 tiểu đoàn bảo
an.
Pháo binh: 5 tiểu đoàn với 146 khẩu các cỡ từ 105 đến 155 mm.
Xe tăng-Thiết
giáp: 1 thiết đoàn và 8 chi đội tổng cộng 117
xe
Không quân: 12 phi đoàn gồm 102 máy bay chiến đấu phản lực và cánh quạt,
164 trực thăng, 69 máy bay vận tải, trinh sát và huấn luyện.
Hải quân: 2 hải đoàn tuần duyên, 2 giang đội trên sông
Chỉ huy cụm quân tại duyên hải miền Trung thuộc địa bàn Quân
đoàn II - Quân khu II là Chuẩn tướng Lê Văn Thân, phó tư lệnh phụ trách về lãnh thổ. Lực
lượng hải quân do Phó đề đốc Hoàng Cơ Minh tư lệnh
vùng 2 hải quân chỉ huy. Các sĩ quan chỉ huy cấp dưới và các lực lượng có Chuẩn
tướng Phan Đình Niệm, tư lệnh sư đoàn 22; các tiểu
khu quân sự cấp tỉnh do các đại tá tỉnh trưởng phụ trách gồm: đại tá Lý Bá
Phẩm, tỉnh trưởng Khánh Hòa, đại tá Trần Đình Vi, tỉnh trưởng Bình Định, đại tá
Vũ Quốc gia, tỉnh trưởng Phú Yên, đại tá Nguyễn Văn Tư, tỉnh trưởng Ninh Thuận,
đại tá Ngô Tấn Nghĩa, tỉnh trưởng Bình Thuận.
Phó Đề đốc
Hoàng Cơ Minh
Vùng Cao nguyên:
Bộ binh: Sư đoàn 23 (3 trung đoàn: 44, 45, 53), 7 liên đoàn biệt động
quân (4, 6, 21, 22, 23, 24, 25; các đơn vị này có quân số tương đương 10 trung đoàn),
36 tiểu đoàn bảo an.
Pháo binh: 8 tiểu đoàn với 230 khẩu các cỡ từ 105 đến 175 mm.
Xe tăng-thiết
giáp: 4 thiết đoàn với 371 xe
Không quân: 1 phi đoàn chiến đấu (32 chiếc), 2 phi đoàn trực thăng (86 chiếc),
1 phi đoàn vận tải, trinh sát và huấn luyện (32 chiếc).
Bộ tư lệnh tiếp vận Quân khu II - Quân đoàn II QLVNCH có các kho
dự trữ đủ khả năng cung cấp cho Quân đoàn chiến đấu ác liệt trong hai tháng.
Theo đại tá Phạm Bá Hoa, tham mưu trưởng Tổng cục tiếp vận
QLVNCH, các lực lượng này được bố trí theo thế "nặng đầu nhẹ đuôi"
trên địa bàn Cao nguyên trung phần. Trung đoàn 44 (sư đoàn 23) và 3 thiết đoàn
xe tăng, 5 tiểu đoàn pháo, 5 liên đoàn biệt động quân (6, 22, 23, 24, 25) đóng
quanh khu vực Kon Tum - Pleiku và chốt giữ đường 19 đi An Khê (Bình Định); toàn
bộ 4 phi đoàn không quân đóng tại sân bay Cù Hanh; Trung đoàn 45 (sư đoàn 23)
và 1 chi đoàn thiết giáp (thuộc thiết đoàn 8) giữ Quảng Đức, liên đoàn 4 biệt
động quân và 1 tiểu đoàn pháo binh giữ Thanh An - Đồn Tằm. Tại Buôn Ma Thuột
chỉ có trung đoàn 53, liên đoàn 21 biệt động quân, trung đoàn pháo binh 232,
thiết đoàn 8 (thiếu) và một chi đội thiết giáp, 3 liên đoàn bảo an, hậu cứ
trung đoàn 45 (khu B50), các đơn vị hậu cứ và Bộ chỉ huy nhẹ của sư đoàn 23.
Tổng số quân 8.350 người, trong đó có 5.920 quân đóng tại các căn cứ trong thị
xã, 2.430 quân đóng tại các cứ điểm ngoại vi thị xã. Lực lượng này được trang
bị 19 pháo 105 mm, 4 pháo 155 mm, 16 xe tăng M-41 và M48, 50 xe bọc
thép M-113, phi đội trinh sát có 6 máy bay trinh sát L-19 và trực thăng UH-1
tại sân bay Hòa Bình (Phụng Dực).
Thiếu tướng Phạm Văn Phú chỉ huy
các lực lượng của Quân đoàn II-QLVNCH. Các chỉ huy cấp tại cụm quân Cao nguyên
có Chuẩn tướng Trần Văn Cẩm phó tư
lệnh phụ trách hành quân; chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, tư lệnh sư đoàn 6 không quân,
chuẩn tướng Lê Trung Tường, tư lệnh sư đoàn 23; Đại tá Lê
Khắc Lý, tham mưu trưởng quân đoàn; Đại tá Phạm Duy Tất, chỉ huy biệt động
quân, đại tá Vũ Thế Quang, Phó tư lệnh sư đoàn 23. Các tiểu khu quân sự tỉnh do
các đại tá tỉnh trưởng nắm giữ gồm: đại tá Phạm Văn Nghìn, tỉnh trưởng Quảng
Đức, đại tá Nguyễn Trọng Luật, Tỉnh trưởng Đắc Lắc và tỉnh trưởng các tỉnh
trưởng Kon Tum, Pleiku, Phú Bổn, Tuyên Đức.
Trên toàn mặt trận Tây Nguyên, so với lực lượng QLVNCH, lực
lượng bộ binh Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam ít hơn
một chút và kém hơn đáng kể về hỏa lực hạng nặng (xe tăng, xe thiết giáp, pháo
cỡ lớn và máy bay). Nhưng do Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tập
trung chủ lực tại cánh Nam trong khi phần lớn QLVNCH kéo về phòng thủ tại cánh
Bắc (do bị mắc bẫy nghi binh của đối phương), nên tại điểm quyết chiến Buôn Ma
Thuột vào giờ khai hỏa, ưu thế của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam so với
QLVNCH tại đây có tỉ lệ áp đảo: bộ binh 5:1, thiết giáp 2:1, pháo lớn 2:1. Ưu
thế này bảo đảm cho Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam khả
năng thắng lợi nhanh chóng do đối phương khó có khả năng cầm cự lâu dài chờ
quân phản kích ứng cứu.
Ý đồ chiến lược,
chiến thuật quân sự của các bên:
Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam:
Từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 2, Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên
họp mở rộng để bàn phương án tác chiến. Đánh giá tình hình Quân lực Việt Nam
Cộng hòa trên địa bàn, các tướng lĩnh và sĩ quan chỉ huy cao cấp của Bộ Tư lệnh
chiến dịch thống nhất nhận định:
-
Đối phương có thể huy động cao nhất từ 5 đến 7 đơn vị cấp trung
đoàn để lần lượt phản đội kích ngăn chặn cuộc tấn công. Nếu không phải đối phó
trên nhiều hướng, đối phương có thể huy động lực lượng dự bị chiến lược và từ
các quân khu khác khoảng từ 9 đến 12 trung đoàn.
-
Do phải cơ động bằng đường bộ, và nếu phái đối phó trên nhiều hướng
tiến công, các đơn vị phản kích của đối phương (nếu có) sẽ chỉ có thể đến chiến
trường từ 3 đến 4 trung đoàn một lượt. Nếu đối phương cơ động đường không thì với
lực lượng máy bay và bãi đáp, sân bay hiện có, mỗi ngày chỉ có thể đưa một
trung đoàn vào trận.
-
Đối phương có thể huy động chi viện đến mặt trận từ 1 đến 2 thiết
đoàn, sử dụng từ 3 đến 5 tiểu đoàn pháo lớn cho hướng chủ yếu và chi viện không
quân khoảng 80 lần chiếc/ngày. Hội nghị cũng dự kiến không quân Hoa Kỳ có thể
tham chiến trở lại với cường suất 100 đến 120 lần chiếc/ngày.
Căn cứ tình hình bố trí binh lực hai bên, hội nghị đã vạch ra 5
vấn đề lớn về tác chiến gồm có:
-
Hướng và khu vực tác chiến chủ yếu là thị xã Buôn Ma Thuột - Đức
Lập. Mục tiêu quyết định là thị xã Buôn Ma Thuột.
-
Hướng và mục tiêu quan trọng là khu vực Cẩm Ga (Thuần Mẫn) để cắt
đứt đường 14, chia cắt các lực lượng đối phương ở Bắc Tây Nguyên và Nam Tây
Nguyên, ngăn chặn cánh quân ở khu vực Kon Tum - Pleiku xuống ứng cứu cho Buôn
Ma Thuột.
-
Hướng phát triển chiến dịch đến Phú Bổn và Quảng Đức, chủ yếu là
Phú Bổn, gồm cả thị xã Cheo Reo.
-
Hướng bao vây chia cắt chiến dịch là cắt đứt đường 19 trên tuyến
Pleiku - An Khê - đông Bình Khê, cắt đứt đường 21 ở phía Đông và Tây Chư Cúc,
chặn cánh quân đồng bằng duyên hải từ Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa lên ứng cứu
cho Tây Nguyên đồng thời ngăn chặn cánh quân ở Tây Nguyên rút về đồng bằng ven
biển.
-
Hướng nghi binh chiến dịch là Pleiku và Kon Tum, các đơn vị ở lại
trên hướng này phải tạo thế chuẩn bị tấn công, kiềm chế, giam chân khối chủ lực
của Quân đoàn II tại khu vực Pleiku - Kon Tum.
Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên đưa ra hai phương án tác chiến
để lựa chọn:
Phương án thứ nhất: Tấn công khi đối phương chưa điều toàn bộ
sư đoàn 23 và các đơn vị tăng cường khác về phòng thủ Buôn Ma Thuột. Đây là
phương án lý tưởng nhất, đảm bảo tháng nhanh gọn và ít gây thiệt hại cho các
mục tiêu dân sự trong thị xã. Điều này phụ thuộc vào hiệu quả thực hiện nghi
binh chiến lược trên hướng Pleiku-Kon Tum bảo đảm giam chân 4 trung đoàn bộ
binh, 3 thiết đoàn xe tăng-thiết giáp và 5 liên đoàn biệt động quân đang bố trí
tại đây
Phương án thứ hai:Tấn công khi đối phương đã tăng cường phòng
thủ thị xã Buôn Ma Thuột. Đây là phương án đánh chắc tiến chắc và cuộc chiến sẽ
giằng co ác liệt gay go.
Bộ Tư lệnh chiến dịch yêu cầu các đơn vị dưới quyền tổ chức
chuẩn bị tấn công theo phương án 2; trong khi thực hiện phải tạo thời cơ và
nhanh chóng chuyển sang phương án 1 khi điều kiện thời cơ xuất hiện.
Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã phát
hiện ra điểm yếu trong toàn bộ tuyến phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa
do tập trung phần lớn lực lượng mạnh nhất của mình ở Quân khu I (phía Bắc đèo
Hải Vân) và quân khu III (quanh Sài Gòn). Quân khu II, trong đó có địa bàn
trọng điểm Tây Nguyên chính là địa đoạn yếu nhất trên toàn bộ tuyến phòng thủ
do chỉ có một quân đoàn đóng giữ. Quân đoàn này lại phải bổ đôi lực lượng cho
hai khu vực đồng bằng và cao nguyên, giao thông không thuận tiện, dễ bị chia
cắt. Địa đoạn yếu này lại càng yếu hơn khi các lực lượng mạnh nhất tập trung ở
cánh Bắc xung quanh Pleiku - Kon Tum và gần như để ngỏ cánh Nam với Buôn Ma
Thuột là trọng điểm. Bộ tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên cho rằng khi mất Tây Nguyên
QLVNCH sẽ khó tổ chức phản công tái chiếm vì sẽ phải điều từ 5 tới 6 sư đoàn
đến chiến trường trong khi không có đủ lực lượng để bảo vệ Quân khu III, Biệt
khu thủ đô và Quân khu I sát miền Bắc nếu các Quân khu này cũng đồng thời bị
tấn công.
Phía Quân lực
Việt Nam Cộng hòa:
Ngày 18 tháng 2 năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu tập
phiên họp các tướng lĩnh tại Dinh Độc lập để soát xét việc thực thi Kế hoạch
quân sự Lý Thường Kiệt 1975 đã được Hội đồng An ninh quốc gia phê chuẩn hồi
tháng 12 năm 1974. Trong báo cáo "Ước lượng tình báo" do Đại tá Hoàng
Ngọc Lung, Trưởng phòng 2 Bộ Tổng tham mưu có một số điểm đáng chú ý:
-
Lực lượng tổng trù bị của Bắc Việt gồm 7 sư đoàn vẫn đóng tại
vùng "cán xoong" phía Bắc Quân khu I nhưng các sư đoàn 312, 316 và
341 đang có hiện tượng chuẩn bị di chuyển.
-
Nhiều dấu hiệu cho thấy đối phương có thể phát động tấn công
Xuân-Hè 1975 trong một ngày gần đây. Mấu chốt của cuộc tấn kích này vẫn là phá
bình định, giành đất, giành dân.
Ngay sau Hội nghị, Thiếu tướng Phạm Văn Phú, tư lệnh Quân đoàn
II trở về Pleiku và tức khắc triệu tập chỉ huy trưởng các đơn vị và các tiểu
khu quân sự dưới quyền bàn cách đối phó. Thế bố trí "nặng đầu nhẹ
đuôi" như hiện có theo tướng Phú là phù hợp vì Đại tá Trịnh Tiếu, Trưởng
phòng 2 Bộ tham mưu Quân đoàn cho biết thám báo mặt đất, thám sát điện đài và
trinh sát đường không đã phát hiện Sư đoàn 968 của đối phương mới từ Lào về
nhưng chưa biết sẽ di chuyển đến đâu. Tại khu vực Pleiku - Kon tum, đối phương
đã có hai sư đoàn 10 và 320, chỉ có hai trung đoàn 271, 201 bố trí sát Quảng
Đức. Chỉ có trung đoàn 205 bố trí ở Tây Bắc Buôn Hồ (Bắc Buôn Ma Thuột). Đại tá
Tiếu phán đoán: Nếu đánh lớn, đối phương sẽ lấy Pleiku - Kon tum làm "điểm",
những vùng còn lại chỉ là "diện". Nếu đánh vừa họ có thể sẽ chiếm nốt
Quảng Đức để nối liền với Phước Long và mở thông hành lang Đông Trường Sơn,
chuẩn bị cho năm sau tổng công kích. Khi đó, điểm quyết định phải là Đông Nam
Bộ.. Không
có sĩ quan cao cấp nào của Quân đoàn II có ý kiến đánh giá khác. Chỉ có đại tá
Phạm Văn Nghìn, tiểu khu trưởng đồng thời là tỉnh trưởng Quảng Đức xin thêm
1.000 quân tăng phái. Với các phân tích trên, Phạm Văn Phú kết luận:
-
Tập trung sưu tra sự di chuyển của sư đoàn 10 và sư đoàn 320 Bắc
Việt. Hai sư đoàn này ở đâu thì ở đó sẽ có đánh lớn. Sư đoàn 968 chuyên bảo vệ
hậu cứ, ít kinh nghiệm sơn chiến nên không đáng ngại, có thể dùng không quân
ngăn chặn.
-
Khu vực Pleiku - Kon Tum phải tăng cường bố phòng sục sạo từ xa
để sớm phát hiện đối phương; nới rộng tuyến phòng thủ ra ngoài để giảm sức tiến
công của đối phương khi đánh sâu vào các cụm phòng ngự trong thị xã.
-
Chấp thuận đề nghị của đại tá Nghìn, tăng phái cho Quảng Đức
trung đoàn 53.
-
Ban Mê Thuột (Buôn Ma Thuột) có thể bị tấn kích nhưng chỉ là
"diện", chưa cần tăng thêm lực lượng.
-
Các tiểu khu, đơn vị có và thực thi ngay kế hoạch giải toả các
đường giao thông khi bị đối phương cắt đứt.
Sáng ngày 2 tháng 3, trưởng chi nhánh CIA tại Quân khu II Howard
Arche từ Nha Trang bay lên Buôn Ma Thuột và thông báo cho đại tá Nguyễn Trọng
Luật tin tức tình báo về việc Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam chuẩn
bị tấn công Buôn Ma Thuột nhưng không thể tìm hiểu rõ hơn về lực lượng của họ.
Tướng Phú rút lại quyết định điều trung đoàn 53 lên Quảng Đức và gửi nó đến
Buôn Hồ, đồng thời lệnh rút trung đoàn 45 từ Thuần Mẫn (Cẩm Ga) về giữ Thanh
An-Đồn Tằm. Ngoài những cuộc điều quân có tính chất địa
phương kể trên, binh lực Cộng hòa tại Tây Nguyên không có những thay đổi lớn
trong thế bố trí chiến lược và vẫn giữ nguyên phương án "phòng thủ diện
địa" và đây chính là điểm yếu khiến Quân lực Việt Nam Cộng hòa mất đi sức
mạnh vốn có của họ là tính cơ động do các phương tiện chuyển quân hiện đại (cơ
giới và trực thăng) mang lại.Do
những phán đoán sai lầm từ cơ quan tình báo CIA tại Sài Gòn về việc "cộng
sản có ý định bao vây và cắt đứt các đường giao thông" nên tại Buôn Ma
Thuột, QLVNCH không có một phương án khả thi nào để phòng thủ Buôn Ma Thuột
trong trường hợp thị xã trở thành chiến trường trọng điểm.
Diễn biến chiến dịch:
Nghi binh,
tạo thế và cài thế:
Nghi binh
Giữa tháng 2, trong dịp Tết Nguyên đán Ất Mão, một binh sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đào ngũ
đã khai với Phòng 2 (Bộ tham mưu Quân đoàn II) về việc Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam điều
động sư đoàn 10 đánh Đức Lập (căn cứ Núi Lửa), sư đoàn 320 đã đến Ea H'leo chuẩn bị đánh Thuần Mẫn (Cẩm Ga), một lực
lượng khác sẽ tấn công Buôn Ma Thuột. Nhưng đúng vào ngày diễn ra cuộc họp các
sĩ quân chỉ huy thuộc Quân khu II, một cuộc pháo kích lớn của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam chụp
xuống Pleiku nên tướng Phú lại cho rằng đây là kế trá hàng lừa địch của đối
phương. Mặc dù có lúc ông ta đã định điều Sư đoàn 23 về Buôn Ma Thuột nhưng các
chi nhánh CIA tại Quân khu II và phòng 2 Bộ Tổng Tham mưu QLVNCH đều khẳng định
sư đoàn 10 (QGP) và sư đoàn 320 (QGP) của đối phương vẫn ở nguyên chỗ cũ. Trên bản đồ tình báo của Phủ đặc ủy tình
báo VNCH, của Bộ Tổng tham mưu QLVNCH, của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Sài Gòn và Sở
chỉ huy Quân đoàn II đều cho thấy một cụm quân rất lớn gồm 2 đến 3 sư đoàn có
trang bị mạnh của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đang chiếm
lĩnh vị trí quanh Kon Tum và cả Pleiku cách đó hơn 20 km..
Thực ra, các hoạt động nghi binh của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã bắt
đầu từ tháng 12 năm 1974, khi trận Phước Long chuẩn bị mở màn. Trung đoàn 7
công binh 559 mở thông đường 220 nối đường 14 ở Bắc Võ Định với đường 19 gần
đềo Mang Yang sau khi vòng qua Đông Bắc thị xã Kon Tum. Hai trận địa pháo binh
130 mm giả được triển khai phía Bắc Kon Tum (thực ra chỉ có súng cối
120 mm). Một số xe tăng (cũ), xe xích kéo pháo, xe vận tải được tổ chức cơ
động liên tục suốt ngày đêm quanh phòng tuyến. Hai bến phà (gỗ) được triển khai
tại cầu Diên Bình và sông Đakbla. Sư đoàn 10 để lại một lực lượng nhỏ liên tục
dùng súng cối bắn phá thị xã Kon Tum và đào nhiều hầm hào trong tuyến phòng ngự.
Sư đoàn 320 cũng để lại một bộ phận lực lượng hoạt động ở đường 19 phía Tây
Pleiku, cùng súng cối bắn phá các căn cứ La Sơn, Thanh An, Đồn Tằm. Trung đoàn
95 hoạt động mạnh ở đường 19 Đông, chặn đánh các đoàn xe quân sự và tập kích
một số chốt của QLVNCH. Trung đoàn đặc công 198 để lại 2 trung đội tập kích kho
xăng Pleiku. Khi lực lượng chủ lực của các sư đoàn 10, 320 và các trung đoàn
40, 234, 273, 675 di chuyển về quanh Buôn Ma Thuột, hệ thống điện đài của các
đơn vị này vẫn giữ nguyên vị trí và liên tục phát đi các bức điện giả, báo cáo
giả, mệnh lệnh giả với tần suất ngày càng cao.
Trong khi các đơn vị này di chuyển vào Đắc Lắc thì Sư đoàn 968
(thiếu) từ Lào về lần lượt thay thế các đơn vị này và vẫn sử dụng hệ thống liên
lạc vô tuyến điện đã có tại địa bàn. Sở chỉ huy mặt trận Tây Nguyên cũng để lại
và duy trì hoạt động của các bộ máy điện đài 15W (loại dùng cho sở chỉ huy sư
đoàn trở lên) tại K'Leng, bắc Võ Định, điểm cao 518 bên đường 19 đông. Lực
lượng an ninh giải phóng Pleiku và Kon Tum còn cho người vào tìm người
thân" trong khu vực do QLVNCH kiểm soát, phao tin Quân giải phóng sắp đánh
lớn và Kon Tum và Pleiku. Dân chúng trong các vùng do Mặt trận kiểm soát ở các
khu vực Đông, Bắc và Tây Pleiku - Kon Tum làm nhiều cờ, hoa, biểu ngữ với nội dung
chào mừng Pleiku và Kon Tum được giải phóng.
Khi Trung đoàn 45 (sư đoàn 23) Quân lực Việt Nam Cộng hòa tổ
chức các cuộc hành quân lùng sục xung quanh khu vực Buôn Ma Thuột, Thuần Mẫn và
Đức Lập; Bộ tư lệnh mặt trận Tây Nguyên đã lệnh cho các đơn vị của Sư đoàn 320A
tạm lùi về phía Tây, tránh giao chiến, không bộc lộ lực lượng. Hà Nội đã tung
ra đơn vị dự trữ chiến thuật mạnh: Sư đoàn 316, bố trí phía sau Sư đoàn 320A
được lệnh không tiến hành bất kỳ hoạt động quân sự nào.
Các hành động nghi binh trên đây của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã dẫn
đến những thông tin trái ngược trong các báo cáo tình báo của CIA, Phủ đặc ủy
tình báo, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH và Bộ tham mưu và cơ quan tình báo Quân đoàn
II QLVNCH. Và nó dẫn đến kết quả là ngày 18 tháng 2 năm 1975, Tư lệnh quân đoàn
II, Thiếu tướng Phạm Văn Phú đã có một quyết định sai lầm: giữ sư đoàn 23 (thiếu) ở lại khu
vực Pleiku - Kontum mặc dù
chỉ trước đó một ngày, ông ta đã phê chuẩn kế hoạch chuyển sư đoàn này về Buôn
Ma Thuột. Cho đến cuối tháng 2, CIA tại Sài Gòn vẫn
chưa biết gì về việc tập trung quân của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tại đây
và vẫn phán đoán rằng mục tiêu tấn công chủ yếu vẫn là Pleiku và Kon Tum . Mãi
đến 4 giờ sáng ngày 10/3, khi xe tăng Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã tiến
vào Buôn Ma Thuột, tướng Phú mới được cấp dưới đánh thức và biết Buôn Ma Thuột
là mục tiêu chính, nhưng đã quá muộn.
Tạo thế và cài thế:
Chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu đêm 3 rạng ngày 4 tháng
3 với trận đánh của Trung đoàn 95A diệt căn cứ Ayun do 1 tiểu đoàn bảo an chiếm
hữu và một số điểm chốt giao thông nhỏ của QLVNCH trên 20 km đường 19 từ
ngã ba Pleibon đến ấp Phú Yên (Tây An Khê) ở.
Ngoài đề.
Nói về cá cao nguyên
Ngay cả đến khi Buôn Ma Thuột bị tấn công, tướng Phú và cả Bộ Tư
lệnh Quân đoàn II cũng chưa biết rằng cuộc tấn công này được thực hiện chủ yếu
bởi sư đoàn 316 đã bí mật hành quân xuống Nam Tây Nguyên theo sau sư đoàn 320A,
dùng sư đoàn 320A làm bình phong che giấu sự có mặt của mình.
Battle of Ban Me Thuot
Lợi dụng việc các đơn vị chủ lực của QLVNCH tại Buôn Ma Thuột
tập trung giải tỏa đường 14 trên hướng Thuần Mẫn - Buôn Hồ, các trung đoàn công
binh 7 và 575 (QGP) đã mở thông các con đường 50B, 50C, 50D, 51, 57B, 57C bảo
đảm cho xe pháo các loại có thể kéo thẳng vào Buôn Ma Thuột. Riêng đường 20C ở
Tây Nam Buôn Ma Thuột nằm trên hướng đột kích của trung đoàn xe tăng 273 được
mở một cách độc đáo.
Các cây lớn chỉ được cưa 3/4 gần gốc. Khi xe tăng xuất kích, có
thể húc đổ cây tự mở đường trong hành tiến. Vì vậy, trinh sát đường không của
QLVNCH không phát hiện được sự có mặt của trung đoàn xe tăng 273 tại đây.
Việc chỉ huy tác chiến được thực hiện hoàn toàn bằng thông tin
hữu tuyến đã vô hiệu hóa các hoạt động trinh sát điện đài của QLVNCH..
Các đơn vị chủ lực của QLVNCH tại Quân khu II đã bị căng kéo ra
nhiều hướng và chôn chân tại các cứ điểm phòng thủ, giảm thiểu khả năng cơ động
ứng cứu cho nhau.
Trận Buôn
Ma Thuột:
Cuộc chiến trong thị xã:
Hỏa tiễn H-12 có tầm
bắn 8 km, được Mặt trận
Tây Nguyên sử dụng để đánh chiếm thị xã Buôn Ma Thuột sáng ngày 10
tháng 3 năm 1975. Hiện vật trưng bày tại Bảo tàng
Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Buôn Ma Thuột nằm ở giữa ngã ba của hai con đường chiến lược 14
và 21, là chốt giữ giao thông của Nam Tây Nguyên. Từ Buôn Ma Thuột dễ dàng đi lên
các tỉnh phía Bắc và đi xuống Đông Nam Bộ-Sài Gòn bằng cả đường không và đường
bộ. Chính về tầm quan trọng đó nên Buôn Ma Thuột có các căn cứ, sân bay, kho
đạn hậu phương của các đơn vị chủ lực của Quân khu 2; Quân đoàn 2 VNCH, được
bảo vệ bởi các đơn vị khá tinh nhuệ gồm 1 Trung đoàn bộ binh, Trung đoàn 232
pháo binh và 2 Tiểu đoàn pháo binh, Trung đoàn 8 thiết giáp, cùng với lực lượng
bảo an, cảnh sát, mật vụ… với tổng quân số hơn 8.000 lính. Tuy nhiên, do QLVNCH
chỉ lo bố trí lực lượng để đối phó ở phía Bắc, còn lực lượng bảo vệ Buôn Ma
Thuột tuy đông nhưng khả năng chiến đấu khá thấp do lơi lỏng phòng bị.
2 giờ sáng 10 tháng
3 năm 1975, cuộc
tiến công của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam vào
Buôn Ma Thuột bắt đầu với các trận đột kích sâu của trung đoàn 198 đặc công vào
các mục tiêu: Sân bay Hòa Bình, khu kho Mai Hắc Đế, khu hậu cứ của trung đoàn
53 (QLVNCH) với sự yểm hộ của hỏa tiễn tầm ngắn ĐKB và H-12. Theo lời kể của thiếu
tá Phạm Huấn, trợ lý báo chí của tướng Phạm Văn Phú, trận pháo kích gây kinh
hoàng cho cả hai vị chỉ huy QLVNCH tại Buôn Ma Thuột là đại tá Nguyễn Trọng
Luật và đại tá Vũ Thế Quang. Tại
thời điểm đó, đại tá Quang vẫn nhận định rằng: "Cộng quân chỉ dùng đặc
công và pháo binh quấy rối rồi đến sáng, họ sẽ rút ra"
Đến 3 giờ 30 phút, tiểu đoàn 4 (trung đoàn 198) đã khai thông
đường Phan Chu Trinh và chiếm được phần phía Nam sân bay Hòa Bình chốt giữ tại
đó, chờ bộ binh và xe tăng chi viện. Tiểu đoàn 5 (trung đoàn 198) đánh vào khu
kho Mai Hắc Đế và đoạn đường 429, tiếp tục pháo kích bằng hỏa lực ĐKB, H-12
(trong đó ĐKB là hỏa lực chủ công kiểm soát toàn bộ các mục tiêu trong thị xã.
theo yêu cầu của bộ binh)vào Sở chỉ huy sư đoàn 23, Sở chỉ huy tiểu khu, trung
tâm thông tin, doanh trại thiết giáp và khống chế trận địa pháo. Lúc 5 giờ
sáng, cửa ngõ tiến quân bằng cơ giới của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam từ
hướng đông bắc, tây bắc, tây và tây nam vào Buôn Ma Thuột đã được khai thông.
Sau khi pháo binh sư đoàn và pháo binh chiến dịch tiếp tục pháo kích vào thị
xã, các đại đội xe tăng có bộ binh đi kèm bật đèn pha mở hết công suất, húc đổ
các cây rừng đã cưa sẵn, vượt qua các tuyến phòng thủ vòng ngoài đánh thẳng vào
trung tâm thị xã..
Hướng Tây Nam, trung đoàn 174 có 1 đại đội xe tăng yểm hộ vượt
qua các chốt Chi Lăng, Chư Di và khu kho Mai Hắc Đế. Hướng Tây Bắc, trung đoàn
148 có 1 đại đội xe tăng mở đường đánh vào Sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc và dùng
1 tiểu đoàn tấn công ấp Châu Sơn. Hướng Tây, có tiểu đoàn 4 (trung đoàn 24 sư
đoàn 10) và 2 đại đội xe tăng đánh vào Sở chỉ huy sư đoàn 23 và mặc dù xe tăng
bị sa lầy và bị máy bay QLVNCH bắn phá song họ vẫn tấn công vào khu quân y, khu
truyền tin . Hướng
Đông Bắc có trung đoàn 95B đánh vào khu vực ngã sáu, hướng Đông Nam, trung đoàn
149 (không có xe tăng đi kèm) dùng một tiểu đoàn tấn công cứ điểm Chư Blom và
điểm cao 582, 1 tiểu đoàn còn lại đánh thốc qua cứ điểm Ba Lê và điểm cao 491
tiến thẳng vào trung tâm thị xã. Phía Đông thị xã, trung đoàn 3 (sư đoàn 10) có
1 đại đội xe tăng yểm hộ phối hợp với 1 tiểu đoàn của trung đoàn 149 (sư 316)
tấn công đánh chiếm sân bay Hòa Bình từ hai hướng Đông Bắc và Tây Nam khép lại.
Trung đoàn 2 (sư đoàn 10) đánh chiếm cứ điểm Phước An.
Từ hầm chỉ huy của sư đoàn 23, đại tá Nguyễn Trọng Luật điều 2
chi đội thiết giáp M-113 ra giữ Ngã Sáu nhưng đã bị các xe tăng của đại đội 5,
tiểu đoàn 3, trung đoàn xe tăng 273 đẩy lùi. Tiểu đoàn biệt động quân đóng giữ
Sở chỉ huy tiểu khu Đắc Lắc chống trả quyết liệt. Phải đến 17 giờ 30, sau đợt
tấn công thứ sáu, trung đoàn 95B mới chiếm được sở chỉ huy tiểu khu. Ở hướng Đông Bắc thị xã, tiểu đoàn 9 liên
đoàn 21 biệt động quân chỉ giữ được đến trưa thì bị đẩy lùi ra ngoại vi phía Đông
thị xã, chịu mất các khu pháo binh, thiết giáp và hậu cứ của trung đoàn 45. Ở
hướng Tây, Sư đoàn 6 không quân QLVNCH điều động 8 chiếc A-37 ném bom vào đội
hình của trung đoàn 24 (sư đoàn 10 QGP) gây một số thương vong nhưng không làm
chậm lại tốc độ tiến quân của đơn vị này. Ở hướng Tây Nam, đại tá Vũ Thế Quang
liên tục tung các lực lượng dự bị có trong tay phản kích nhằm chiếm lại khu kho
Mai Hắc Đế, đồng thời gọi không quân đánh phá ngăn chặn. Trung đoàn 174 (F316)
phải để lại một tiểu đoàn bao vây khu vực này, điều 2 tiểu đoàn còn lại đánh
vòng qua khu kho để tiếp cận Sở chỉ huy sư đoàn 23. Ở hướng Đông Nam, các tiểu
đoàn 7 và 8 (trung đoàn 149) mặc dù bị nhiều tốp máy bay A-37 của không quân
VNCH oanh tạc vào đội hình, gây nhiều thương vong nhưng họ vẫn đẩy lùi các lực
lượng của trung đoàn 53, đánh chiếm khu cư xá sĩ quan, khu tiếp vận, Sở Thú y,
Sở Ngân khố, nhà lao, đến 15 giờ thì gặp các đơn vị của trung đoàn 95B.
Đến 14 giờ 30, đại tá Trịnh Tiếu, trưởng phòng quân báo Quân
đoàn II mới trình tướng Phú bản báo cáo trong đó kết luận: đã phát hiện sư đoàn
316 (QGP) từ Lào về đang di chuyển xuống phía Nam. Tướng Phú lập tức ra lệnh
phá các cầu trên đường 14 để ngăn chặn đơn vị này nhưng đã quá muộn. Đến lúc đó
thì toàn bộ sư đoàn 316 đã giao chiến với quân VNCH trong nội đô thị xã được
hơn 10 tiếng đồng hồ. Lúc 17 giờ, tiểu đoàn 9 (trung đoàn 149)
phối hợp với các đơn vị của trung đoàn 198 đặc công vây đánh nhưng không chiếm
được sở chỉ huy sân bay Hòa Bình do một tiểu đoàn biệt động quân QLVNCH phòng
giữ. Trong thị xã, tiểu đoàn 7 (trung đoàn 149) đánh chiếm khu tham mưu -
truyền tin và nhầm lẫn rằng đó là Sở chỉ huy sư đoàn 23.
Tượng đài kỷ niệm chiến thắng ngày 11-3-1975
tại Quảng trường Ngã Sáu, thành phố Buôn Ma Thuột. Tác giả: Gorick Francois
Đêm 10 tháng 3, chiến sự tạm lắng. Các đơn vị QLVNCH còn lại
trong thị xã co cụm trong các cứ điểm còn giữ được như Sở chỉ huy sư đoàn 23,
khu nhà ga sân bay Hòa Bình, đài phát thanh. Đại tá Vũ Thế Quang điện cho chuẩn
tướng Lê Trung Tường xin tiếp ứng nhưng chỉ nhận được câu trả lời: "Bộ chỉ
huy đang bận đối phó trên hướng Pleiku-Kon Tum. Đại tá ráng giữ vững. Cộng quân
có đánh lớn thì cũng chỉ được vài ngày rồi rút như hồi Mậu Thân".Sáng 11
tháng 3, các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tiếp
tục tấn công trong làn mưa bom từ các máy bay A-37 của không quân VNCH trút
xuống thị xã. Lúc 7 giờ 55, một tốp A-37 trong khi ném bom ngăn chặn 10 xe tăng
của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã đánh
hai quả bom trúng hầm chỉ huy và truyền tin Sở chỉ huy sư đoàn 23. Bộ tư lệnh
quân đoàn II QLVNCH mất liên lạc hoàn toàn với Bộ tư lệnh sư đoàn 23 kể từ giờ
phút đó.
Mất sở chỉ huy, đồng thời bị vây đánh từ nhiều phía, các đơn vị
còn sống sót của QLVNCH cố gắng chống cự chờ viện binh nhưng đến 11 giờ ngày 11
tháng 3, các đơn vị của sư đoàn 316 đã hoàn toàn làm chủ thị xã Buôn Ma Thuột.
Chỉ còn liên đoàn 21 biệt động quân (thiếu) và một số đơn vị còn lại của trung
đoàn 53 đang cố giữ chốt phòng ngự cuối cùng tại sân bay Hòa Bình (phi trường
Phụng Dực) với hy vọng không quân sẽ đến đổ quân chi viện.
Phản kích
và chống phản kích:
Đến ngày 12 tháng 3, khu vực hậu cứ trung đoàn 53 (sư đoàn 23)
và sân bay Hòa Bình (Phụng Dực) trở thành nơi đồn trú của hầu
hết các lực lượng QLVNCH còn lại sau hai ngày tác chiến đổ về đây. Tuy nhiên,
trong số đó không có đại tá Vũ Thế Quang và đại tá Nguyễn Trọng Luật. Hai ông
này đã bị bắt làm tù binh lúc 2 giờ sáng ngày 12 tháng 3 năm 1975. Trung tá Võ
Ấn, trung đoàn tưởng trung đoàn 53 chỉ huy cánh quân này . Từ
Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho tướng Phạm Văn Phú phải giữ bằng
được các vị trí còn lại ở phía Đông thị xã làm bàn đạp và phải có ngay kế hoạch
phản kích giải tỏa cho Buôn Ma Thuột. Rạng sáng ngày 12 tháng 3, kế hoạch tái
chiếm Buôn Ma Thuột được Nguyễn Văn Thiệu chấp thuận gồm các hoạt động quân sự lớn
sau đây:
-
Sử dụng liên đoàn 21 biệt động quân (thiếu) phối hợp với số quân
còn lại của trung đoàn 53 tại trại B50 (hậu cứ sư đoàn 23) hình thành một cánh
quân tại chỗ để phản kích.
-
Điều động toàn bộ hai trung đoàn còn lại của sư đoàn 23 (44 và
45) dùng trực thăng vận đổ bộ xuống khu vực Nông Trại - Phước An (phía Đông
Buôn Ma Thuột), hình thành cánh quân phản kích chủ yếu đánh thẳng vào thị xã.
-
Huy động tối đa các sư đoàn không quân 6 (thuộc Quân đoàn II), 1
(tại Đà Nẵng), 4 (tại Cần Thơ) yểm trợ tối đa cho cuộc hành quân.
-
Điều động liên đoàn 7 biệt động từ Sài Gòn lên Pleiku thay thế
hai trung đoàn 44 và 45 được rút đi để ném xuống Buôn Ma Thuột..
Chiều ngày 12 tháng 3, sau trận oanh kích dọn bãi của 81 máy bay
cường kích A-1, A-37, F-5; hai tiểu đoàn của trung đoàn 45 và một đại đội thám
báo của sư đoàn 23 do trung tá Phùng Văn Quang (trung đoàn trưởng trung đoàn 45
chỉ huy) là những đơn vị đầu tiên đổ quân xuống Phước An. Hơn 100 máy bay trực
thăng đủ loại, kể cả loại hạng nặng CH-47
Chinook được
huy động cho cuộc chuyển quân. Lúc 13 giờ 10 phút chiều 12 tháng 3, đích thân
thiếu tướng Phạm Văn Phú bay trên phi cơ hạng nhẹ U-17 lên vùng trời Buôn Ma
Thuột chỉ huy cuộc phản kích.
Từ trên máy bay, tướng Phú điện cho trung tá Võ Ấn đang chỉ huy
các lực lượng giữ sân bay Hòa Bình biết cuộc đổ quân xuống Phước An - Nông Trại
đã bắt đầu và động viên các đơn vị này cố gắng giữ vững. Sang ngày 13 tháng 3,
145 chiếc trực thăng đã đổ trung đoàn 44, pháo đội 232 và tiểu đoàn còn lại của
trung đoàn 45 xuống khu vực điểm cao 581, Nông Trại, Phước An, Chư Cúc dọc
đường 21. Chiều tối 12 tháng 3, sau khi đợt 1 của cuộc đổ quân hoàn tất, tướng
Phú quay lại Pleiku gặp tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trên máy liên lạc cao tần
để báo cáo cho tổng thống Thiệu tin tức mới nhất về sự xuất hiện của sư đoàn
316 QGP trên chiến trường Buôn Ma Thuột.
Trong khi đang thực hiện việc chuyển quân của sư đoàn 23 từ
Pleiku về Buôn Ma Thuột, sân bay Cù Hanh tiếp tục bị các đơn vị của sư đoàn 968 Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam pháo
kích. Bộ Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tại mặt
trận Tây Nguyên đã dự liệu được phản ứng của QLVNCH và hành động theo phương
châm: tranh thủ được một tiếng đồng hồ, lực lượng có thể tăng gấp đôi; tranh
thủ được 24 tiếng đồng hồ, lực lượng có thể tăng gấp mười. Ngày
11 tháng 3 trong khi các trận đánh trong thị xã còn tiếp diễn, tiểu đoàn 6,
trung đoàn 24 (sư đoàn 10) đã tấn công cứ điểm Chư Nga và căn cứ 45 phía Đông
thị xã. Việc để mất căn cứ 45 và cứ điểm Chư Nga đã buộc các trung đoàn 44 và
45 QLVNCH phải thay đổi địa điểm đổ quân đến Nông Trại - Phước An. Từ chiều 13
tháng 3, các trung đoàn 24 và 28 (sư đoàn 10) được tăng cường hai đại đội xe
tăng và một tiểu đoàn pháo binh đã hành quân suốt đêm và áp sát quận lỵ Phước
An vào rạng sáng. 7 giờ 7 phút sáng 14 tháng 3, trong khi các đơn vị của hai
trung đoàn 44 và 45 QLVNCH còn chưa triển khai đội hình, trung đoàn 24 (sư đoàn
10 QGP) có hai tiểu đoàn của trung đoàn xe tăng 273 yểm hộ đã từ hai phía nổ
súng tấn công trung đoàn 45 tại điểm cao 581..
Đến 12 giờ trưa ngày 14 tháng 3, các tiểu đoàn 1 và 2 của trung
đoàn 45 cùng tiểu đoàn bảo an tại điểm cao 581 hầu như bị đánh tan. Tiểu đoàn
còn lại vừa đánh vừa lùi về khu vực Nông Trại. Bây giờ thì nhiệm vụ trước mắt
của trung đoàn 44 (sư đoàn 23 QLVNCH) chưa phải là giải toả Buôn Ma Thuột mà là
ứng viện cho trung đoàn 45 đang bị vây ép. Ngày 15 tháng 3, cánh quân còn lại
của sư đoàn 23, trong đó có Sở chỉ huy nhẹ của sư đoàn đổ quân xuống Phước An.
Ngày 16 tháng 3, cả hai cụm quân của sư đoàn 23 tại Phước An và Nông Trại cùng
lúc bị tấn công. Đến 8 giờ 15 phút, tiểu đoàn 3, đơn vị cuối cùng của trung
đoàn 45 (sư đoàn 23 QLVNCH) bị đánh tan, trung tá Phùng Văn Quang và toàn bộ
ban chỉ huy trung đoàn bị bắt làm tù binh cùng với chiếc trực thăng đã nổ máy
định bốc họ lên không.
Ngày 17 tháng 3, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên điều tiếp trung
đoàn 28 (sư đoàn 10) và tiểu đoàn xe tăng còn lại của trung đoàn 273 tăng cường
cho trung đoàn 24 tấn công Phước An. Cùng ngày, trung đoàn 66 (sư đoàn 10) và
trung đoàn đặc công 198 mở đợt tổng công kích vào cụm quân còn lại của trung
đoàn 53 và liên đoàn 21 biệt động quân tại sân bay Hòa Bình (Phụng Dực). 11 giờ
30 sáng 17 tháng 3, sân bay Hòa Bình bị chiếm. Trung đoàn 53 bị xóa sổ. Một
nhóm nhỏ gần 20 binh sĩ của cụm quân này thoát vây chạy về được Phước An. Trong
ngày 17 tháng 3, trung đoàn 44 bị tấn công liên tục tan rã tại Phước An. Đại tá
Đức (tư lệnh mới của sư đoàn 23) đưa sở chỉ huy nhẹ sư đoàn và hơn 700 quân còn
lại về Chư Cúc. Ngay lập tức, họ bị trung đoàn 28 (sư đoàn 10) và 1 tiểu đoàn
của trung đoàn xe tăng 273 QGP truy kích, phải bỏ Chư Cúc chạy về Pleiku.. Trận
phản kích của QLVNCH với ý định tái chiếm Buôn Ma Thuột thất bại.
Cuộc rút
quân trên đường số 7:
Quyết định
sai lầm chiến lược của Nguyễn Văn Thiệu:
Khi trận Buôn Ma Thuột và chiến sự ở Tây Nguyên đang diễn ra thì
QLVNCH tại Quân khu I cũng đang phải đối phó với các hoạt động của các sư đoàn
324, 325 QGP tại Trị Thiên Huế. Nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã xâm
nhập xuống đồng bằng. Từ ngày 8 đến ngày 13 tháng 3, một số trận đánh đã nổ ra
ở Truồi (phía Nam Huế), chi khu quân sự Mai Lĩnh, căn cứ Mỏ Tàu (Thừa Thiên),
các chi khu quân sự Tiên Phước, Hậu Đức (Quảng Tín). Tại phía Nam Quân khu I,
một loại căn cứ ven sông Vệ ở Quảng Ngãi bị tiến công.. Nhưng
áp lực của đối phương tăng mạnh ở Quân khu I đã khiến cho Bộ Tổng tham mưu
QLVNCH không dám rút các sư đoàn thuộc lực lượng tổng trù bị chiến lược của
mình (sư dù và sư thủy quân lục chiến) để ứng cứu cho Tây Nguyên Ngày 11 tháng 3, tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu đã họp với các thủ tướng Trần Thiện Khiêm, đại tướng tổng tham mưu trưởng
Cao Văn Viên và trung tướng Đặng Văn Quang để bàn về việc tái phối trí lại lực
lượng. Tại cuộc họp này, Nguyễn Văn Thiệu thông báo quyết định của ông:
"Với khả năng và lực lượng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ
được tất cả lãnh thổ muốn bảo vệ. Như vậy chúng ta nên tái phối trí lực lượng
và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thực sự quan
trọng".
11 giờ trưa 14 tháng 3, tại Cam Ranh diễn ra một cuộc họp mà sau
này, nhiều nhà bình luận quân sự cho rằng nó là một trong những nguyên nhân gây
ra một thảm họa quân sự lớn nhất trong chiến tranh Việt Nam Tại cuộc họp, thiếu tướng Phạm Văn Phú báo
cáo tổng quát diễn biến chiến sự tại Tây Nguyên; trong đó, tướng Phú thỉnh cầu
xin thêm máy bay cho sư đoàn 6 không quân, bổ sung quân số bị tổn thất, tăng
viện từ 1 đến 2 lữ đoàn dù để phòng giữ Kon Tum, Pleiku và sau đó dùng để phản
kích chiếm lại các vùng đã mất. Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận đề nghị của
tướng Phú với lý do "không còn quân tăng phái, Cộng sản có thể đánh mạnh hơn
năm 1972" và lệnh cho ông này rút quân về đồng bằng, tái phối trí lại lực
lượng. Về hướng rút quân, đại tướng Cao Văn Viên lưu ý về những nguy hiểm khó
lường khi rút theo đường 19, ông nhắc lại thảm họa đã xảy ra đối với Binh đoàn
cơ động số 100 của quân viễn chinh Pháp trên đường 19 năm 1954. Sau khi thảo
luận nhiều lần về việc chọn đường rút quân, Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lĩnh
đã quyết định rút theo đường số 7 vì họ cho rằng, con đường đó tuy xấu nhưng
gây được bất ngờ cho đối phương
Trở về Pleiku, Phạm Văn Phú không biết rằng trước đó một ngày,
Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân khu I cũng được lệnh rút các lực lượng của mình
khỏi địa bàn quân khu. 16 giờ ngày 14 tháng 3, tướng Phú triệu tập
ngay chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, chuẩn tướng Phạm Duy
Tất (mới được thăng) và đại tá Lê Khắc Lý bàn việc rút quân với mấy yêu cầu:
-
Về kế hoạch chung: Bảo đảm
bí mật tuyệt đối, không làm văn bản, chỉ truyền khẩu lệnh; cấm tiết lộ cho địa
phương quân và các tiểu khu. Phải rút nhanh gọn, đem theo vũ khí và một cơ số đạn
đủ cho một trận chiến đấu. Rút theo kiểu cuốn chiếu, ở xa rút trước, ở gần rút
sau.
-
Về điều phối: Giao
chuẩn tướng Phạm Duy Tất chỉ huy hành quân; chuẩn tướng Cẩm đôn đốc kiểm tra;
chuẩn tướng Sang điều điều động máy bay vận tải chở hàng hóa quý hiếm, dọn sạch
hai bên đường rút quân bằng máy bay oanh tạc; đại tá Lý điều động công binh sửa
đường, bắc cầu, giữ liên lạc với Bộ chỉ huy tiền phương Quân khu II tại Nha
Trang và Bộ Tổng tham mưu tại Sài Gòn để xin tiếp ứng khi cần.
Thảm họa
trên đường số 7:
Mặc dù Bộ tư lệnh Quân đoàn II QLVNCH cố gắng giữ bí mật tối đa
cuộc rút quân nhưng những hoạt động nhộn nhịp bất thường của không quân tại
Pleiku trong ngày 14 tháng 3 đã gây nên những nghi ngờ trong gia đình các sĩ
quan cấp dưới, binh sĩ và cả dân chúng. Sáng sớm ngày 15 tháng 3, một đoàn xe
quân sự lớn của các liên đoàn 6 và 23 biệt động quân từ Kon Tum di chuyển qua
Pleiku xuống phía Nam càng làm cho tâm lý của cán, chính, dân, binh thêm xao
xuyến. Đến trưa ngày 15 thì mọi mệnh lệnh để ổn định tình hình của chuẩn tướng
Trần Văn Cẩm và đại tá Lê Khắc Lý đều trở nên vô hiệu. Một số sĩ quan, công
chức, binh lính đã bỏ đơn vị và nhiệm sở để lo cho gia đình di tản. Nhiều vụ
cướp bóc, tống tiền đã xảy ra. Ngay cả CIA cũng bắt đầu di tản người Mỹ khỏi
Pleiku vì theo họ đánh giá, thị xã này đã giống như một thùng thuốc súng.
13 giờ chiều 15 tháng 3, cuộc di tản của Quân đoàn II chính thức
bắt đầu trong sự cập rập, vội vã. Thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân
mở đường từ Pleiku đi Phú Túc. Tiếp đó là bộ phận còn lại của Bộ tư lệnh Quân
đoàn II, bộ tư lệnh lữ đoàn 2 kỵ binh thiết giáp, các đơn vị bộ binh, hậu cần.
Theo tính toán của tướng Phú, các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tập
trung vây đánh trung đoàn 53, căn cứ B50 ở Buôn Ma Thuột và lo đối phó với cuộc
phản kích của sư đoàn 23 tại Phước An nên phải mất ba đến năm ngày mới có thể
điều quân đến do đường sá rất xấu, cơ động khó khăn. Còn sư đoàn 968 nếu có
đuổi theo cũng phải hành quân bộ, đánh vuốt đuôi và sẽ bị liên đoàn 25 biệt
động quân cản hậu chặn đánh. Hai ngày đầu cuộc di tản diễn ra thuận lợi. Sáng
16 tháng 3, khi đội thiết giáp đi đầu trong đoàn xe quân sự dài đến hơn 2.000
chiếc kèm theo gần 2.000 phương tiện giao thông dân sự các loại đã đến Cheo Reo
an toàn và bắt đầu di chuyển xuống Củng Sơn thì toán cuối của đoàn xe này mới
ra khỏi thị xã Pleiku.
Kế hoạch rút quân của Quân đoàn II QLVNCH không quá bất ngờ đối
với Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam. Bất ngờ duy nhất mà Tổng thống Thiệu và tướng Phú tạo ra được
là cuộc di tản này được tiến hành quá nhanh. Đến chiều 15 tháng 3, khi cánh
quân đi đầu của thiết đoàn 19 đã qua Cheo Reo, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây nguyên
mới được tin QLVNCH bắt đầu rút khỏi Pleiku và Kon Tum. 20 giờ tối 16 tháng 3,
lệnh truy kích mới được ban bố. Tiểu đoàn 9, trung đoàn 64 (sư đoàn 320 QGP) là
đơn vị đầu tiên được điều động đã hành quân cắt rừng suốt đêm để lập một chốt
chặn ở phía Nam thị xã Cheo Reo. Theo sát họ là đội hình chính của trung đoàn
64 hành quân trên 110 xe ô tô các loại được huy động. Bộ Tư lệnh mặt trận Tây
Nguyên đã có ngay một kế hoạch chặn đánh trên đường số 7, sử dụng toàn bộ sư
đoàn 320, tiểu đoàn xe tăng 2 (trung đoàn 273), trung đoàn pháo binh 675, trung
đoàn cao xạ 593 và hai tiểu đoàn quân địa phương ở Phú Yên..
Sáng 17 tháng 3, tốp xe tăng, thiết giáp đi đầu của thiết đoàn
19 và liên đoàn 6 biệt động quân QLVNCH đã chạm súng với tiểu đoàn 9, trung
đoàn 64 Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam tại đèo
Tuna, cách Cheo Reo 4 km về Đông đông Phú Bổn. Đoàn xe di tản khổng lồ ứ
lại tại Cheo Reo. Từ chiều tối 17 đến sáng 18 tháng 3, chuẩn tướng Tất sử dụng
liên đoàn 7 biệt động quân với sự yểm họ của không quân, pháo binh và thiết
giáp liên tục công kích nhổ chốt, vu hồi bọc chốt để mở đường nhưng đều bị đẩy
lùi. Sáng 18 tháng 3, toàn bộ trung đoàn 64 (sư
đoàn 320A Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam) đã triển khai xong các chốt chặn tiếp theo phía hạ lưu đèo
Tuna; trung đoàn 48 (thiếu) của sư đoàn này và trung đoàn 9 (sư đoàn 968) đã
bao vây Cheo Reo từ ba mặt..
Trưa ngày 18, chuẩn tướng Phạm Văn Tất điều liên đoàn 25 biệt
động quân đang làm nhiệm vụ cản hậu vượt lên trước cùng với lữ đoàn 2 thiết kỵ
mở cuộc công kích cuối cùng để mở đường. Cũng thời điểm đó, các đơn vị pháo
binh của trung đoàn 675 bắt đầu pháo kích các vị trí đóng quân tạm thời của
QLVNCH trong thị xã Cheo Reo và 3 trung đoàn bộ binh Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam bắt đầu
tấn công. Trong sự hỗn loạn, mọi cố gắng ổn định lại tình hình và tổ chức kháng
cự của các vị chỉ huy QLVNCH trở nên vô vọng. 17 giờ chiều, chuẩn tướng Phạm
Duy Tất nhận được lệnh phá bỏ tất cả các chiến cụ nặng. 17 giờ 30, một chiếc
HU-1A vượt qua làn đạn phòng không của đối phương hạ cách xuống sân trường tiểu
học Phú Bổn để đưa tướng Tất và đại tá Hoàng Thọ Nhu (tỉnh trưởng Pleiku) về
Nha Trang.. Đến 9
giờ sáng ngày 19 tháng 3, các đơn vị QLVNCH bị vây tại Cheo Reo chấm dứt kháng
cự. Chỉ có thiết đoàn 19 và liên đoàn 6 biệt động quân về được đến Củng Sơn với
ít thiệt hại, thương vong nhất. Trên đường về Tuy Hoà, họ phải dừng lại tại
sông Ba bốn ngày để chờ công binh thiết lập lại bến phà. Cuối cùng, các đơn vị
này về đến Tuy Hòa ngày 25 tháng 3 năm 1975..
Kết quả và ý nghĩa:
Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam:
Thắng lợi của Chiến dịch Tây Nguyên đã làm rung chuyển, đảo lộn cả
thế trận của QLVNCH và tạo cho phía Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam phát
triển vô cùng thuận lợi, biến thắng lợi chiến dịch thành thắng lợi chiến lược,
tạo ra cục diện mới của chiến lược, thúc đẩy chiến tranh chuyển biến rất nhanh
chóng có lợi cho iên minh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chiến thắng tại
Tây Nguyên đã đánh sập ý chí kháng cự của QLVNCH, khiến cho QLVNCH thực sự
hoảng sợ và hỗn loạn. Điều này khiến cho chiến thắng đến với QGP với tốc độ
nhanh hơn rất nhiều. Theo báo Nhân dân: "Chiến dịch Tây
Nguyên thực sự là đòn điểm huyệt quân đội Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy mùa Xuân 1975...mở đầu cho sự cáo chung của chế độ Sài Gòn"[80]
Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp, nguyên Chính ủy Chiến dịch Tây Nguyên
cũng tâm niệm và nhắc lại:
"Chiến thắng Buôn Ma Thuột mãi mãi là dấu son trên trang sử
vẻ vang của quân đội ta. Nó là kết quả của cả một quá trình chuẩn bị lâu dài của
quân và dân Tây Nguyên. Nếu chúng ta đều biết tới hình ảnh từng đoàn dân công gồm
cả người già, trẻ em của các buôn làng đã đi gùi đạn, gùi gạo, mở đường cho chiến
dịch; nếu chúng ta biết tới những đồng chí cán bộ của Đảng đã từng cà răng căng
tai, sống hàng vài chục năm với đồng bào các dân tộc Tây Nguyên để bám dân, bám
đất xây dựng địa bàn, xây dựng chỗ cho chúng ta đứng chân mà đánh giặc; nếu
chúng ta biết rằng trước khi chúng ta có xe pháo mà mở những trận đánh lớn như
vậy đã có hàng ngàn đồng chí đi trước mở đường, mở địa bàn, giành đi giật lại với
địch từng tấc đất trong điều kiện đói cơm, rách áo, thiếu thuốc men, thiếu vũ
khí kéo dài hàng chục năm ròng để chúng ta có những quân hùng tướng mạnh mà
đánh địch với thế mạnh như chẻ tre. Nếu chúng ta biết một cách đầy đủ tất cả những
gì diễn ra trước khi có trận Buôn Ma Thuột, có mùa xuân cao nguyên 1975, thì
chúng ta càng thấy tự hào hơn về Đảng ta, nhân dân ta và quân đội ta"
Ý nghĩa về
phương diện học thuật quân sự:
Chiến thắng Tây Nguyên mang ý nghĩa lớn về học thuật. Tại đây, Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã mục
tiêu chủ yếu (Buôn Ma Thuật) vào đúng nơi hiểm nhưng yếu của QLVNCH và khiến
cho nó "yếu" hơn bằng cách nghi binh điều QLVNCH lên hướng bắc, đồng
thời bí mật cơ động lực lượng lớn về hướng nam, nhờ vậy Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã tập
trung ưu thế áp đảo ở nơi cần thiết, tạo yếu tố bất ngờ. Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã bố
trí thế trận hiểm, chia cắt chiến lược và chiến dịch địch, khiến các cụm quân
của QLVNCH bị cô lập. Từ đó buộc QLVNCH phải chấp nhận các tình huống mà Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã dự
kiến (thí dụ: do thế trận của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam, QLVNCH chỉ còn một khả năng duy nhất là đổ bộ trực thăng xuống
đường 21 sau khi mất Buôn Ma Thuật. Tại đây, Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã bố
trí sẵn sàng Sư đoàn 10 và Trung đoàn 25. Có nghĩa là QLVNCH đã rơi vào đúng
kế, đúng định của Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam). Nắm thời cơ có QLVNCH rút chạy, phía Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam đã kịp
thời và kiên quyết truy kích tiêu diệt QLVNCH, đưa QLVNCH đến thất bại chưa
từng có.[81]
Quân lực
VNCH:
Tổn thất
quân sự và dân sự[sửa | sửa mã
nguồn]
Đại tướng Cao Văn Viên nhận xét: "Cuộc triệt thoái khỏi cao
nguyên là một thất bại chiến lược về phương diện quân sự. 75% lực lượng của
Quân đoàn 2, gồm sư đoàn 23, biệt động quân, thiết kỵ, pháo binh, truyền tin và
công binh bị hao tổn chỉ trong 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột cũng bị
thất bại vì Quân đoàn không còn quân. Cộng sản chiếm được Kon Tum và Pleiku
không tốn một viên đạn".[82]
Theo các nhà bình luận quân sự phương Tây, thất bại trong của
cuộc rút lui của Quân đoàn II QLVNCH trên đường số 7 kèm theo những tổn thất
rất nặng nề cả về quân sự và dân sự. Ít nhất 3/4 lực lượng của Quân đoàn II đã
bị bắt sống hoặc đào ngũ[83] Cơ quan CIA tại Sài Gòn nhận xét rằng chỉ cần một sư đoàn rút về được đến ven biển với tổn thất tối
thiểu cũng đã là một sự may mắn.[84] Số tài sản quân sự gồm xe tăng M48
Patton, xe bọc thép M-113, đại bác M-107 175 mm, đại bác HM-3
155 mm, đại bác HM-2 105 mm bị phá hủy hoặc rơi vào tay Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam lên đến
con số hàng nghìn.
Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt
Nam cho
biết họ chỉ sau tám ngày cuối chiến dịch, họ đã loại khỏi vòng chiến 28.514 sĩ
quan và binh sĩ QLVNCH, trong số đó có 4.502 chết hoặc bị thương, 16.822 người
bị bắt làm tù binh, có 779 sĩ quan từ chuẩn úy đến chuẩn tướng và có 7.190
người được thả. Họ đã
thu giữ và phá 17.183 súng các loại, trong đó có 79 khẩu pháo từ 105 mm
trở lên, gồm 48 khẩu pháo 105mm, 14 khẩu 155mm và 12 khẩu M107 175mm (mệnh danh Vua Chiến trường); phá hủy
và thu giữ hơn 2.000 xe quân sự, trong đó có 207 xe tăng và xe bọc thép; bắn
rơi 44 máy bay, thu và phá 110 chiếc khác của Không lực VNCH. Về
phía họ, chỉ tổn thất 56 người chết và hơn 100 người bị thương.[85]
Trong cuộc di tản hỗn độn, các sĩ quan và binh sĩ QLVNCH đem
theo cả gia đình họ và cùng với những nhân viên dân sự chen chúc nhau trên con
đường ngập cỏ, bụi cây đã rơi vào tình thế cực kỳ náo loạn và thậm chí còn bị
chính máy bay của họ bắn nhầm trong
một cuộc hành trình đầy nước mắt. Thậm chí khi các cây cầu bị phá hủy, đoàn
xe dồn ứ lại, các xe quân sự vẫn lao đại qua sông rồi chìm nghỉm, thậm chí cán
qua các xe khác. Những binh sĩ đào ngũ của VNCH lợi dụng cơ hội đã cướp bóc dã
man nhiều gia đình sĩ quan và cả dân thường hoặc công chức chính quyền. Số binh
sĩ bị chết do xe cán lên tới vài nghìn. Trong số gần 400.000 người di tản xuống
đồng bằng thì chỉ có non một phần tư đến nơi, số còn lại tan rã, thất lạc tứ
tán.[83][86] Cuộc thoái lui của binh lính và viên chức
VNCH đã trở thành một cuộc tháo chạy tán loạn, vô tổ chức, vô kỷ luật, thể hiện
sự yếu kém và hèn nhát của QLVNCH. Chính sự hoảng loạn này đã đẩy quá trình sụp
đổ của chính quyền Sài Gòn tới gần hơn[87]
Theo tính toán của Hoa Kỳ, sự tổn thất vượt quá mọi sự đo lường.
Trong số 60.000 quân khởi hành thì chỉ có 20.000 về đến đích và hầu như không
còn sức chiến đấu. Trong số 7.000 biệt động quân chỉ còn 700 đến đích. Sau trận
Buôn Ma Thuột và cuộc rút lui thảm họa trên đường số 7, Quân đoàn II không còn
thực sự hiện hữu như là một lực lượng chiến đấu tương xứng với quy mô của nó
nữa.
Nguyên nhân
thất bại của VNCH:
Nguyên nhân thất bại của VNCH xuất phát trước hết từ việc mất
hết bình tĩnh khi đánh giá tình hình của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Nếu như
trước đây, ông đã quá tin vào cơ quan tình báo quân đội nhưng đến khi bị gài
thế về quân sự quá chặt, không kịp trở tay gỡ ra thì lại quay ra mất tin tưởng
hoàn toàn vào tình báo quân đội. Từ khi Buôn Ma Thuột thất thủ, thái độ của
Nguyễn Văn Thiệu đã làm cho cơ quan này mất sự tự tin và bản thân ông ta cũng
coi cơ quan tình báo quân đội có cũng như không cho đến tận phút chót của cuộc
chiến. Việc mất lòng tin vào cơ quan tình báo quân đội và kể cả vào CIA đã dẫn đến những sai lầm chiến lược quân sự
của Nguyễn Văn Thiệu và ông ta đã bỏ ngoài tai những lời bàn thảo hợp lý của
các tướng lĩnh, kể cả đại tướng Cao Văn Viên để rồi tự mình định đoạt mọi
chuyện..
Khi thiếu tướng Phạm Văn Phú khăng khăng đòi tăng quân để bảo vệ
Tây Nguyên thì ông Thiệu đã đặt ra cho tướng Phú hai lựa chọn: hoặc là thi hành
lệnh, hoặc là bị thay thế và ngồi tù để người khác thi hành lệnh. Và đương
nhiên, tướng Phú chọn giải pháp chấp hành.[90]
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến việc thất thủ ở Tây Nguyên là sự quá
tin tưởng của Nguyễn Văn Thiệu vào sự chi viện trực tiếp bằng quân sự của Hoa
Kỳ. Trong khi cả Quân đoàn II của tướng Phú đang phải vật lộn sống chết trên
đường số 7 và mặc dù biết rằng "nội một vài ngày tới, tình hình sẽ trầm
trọng hết sức mau lẹ" nhưng ông vẫn hy vọng vào việc "đặt với Hoa Kỳ câu hỏi
"yes or no" (có hay không) buộc họ phải dứt khoát có muốn giúp hay
không".
Trong khi đó thì lời tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ
Jame Schlesinger sau khi được tin Phước Long thất thủ và lời an ủi của Thứ
trưởng William Clement đã chứng tỏ phần nào việc Hoa Kỳ không muốn
dính líu trở lại về quân sự tại Việt Nam.[91]
Nguyên nhân thứ ba làm cho việc thất thủ Tây Nguyên của QLVNCH
là họ muốn một cuộc rút quân có tổ chức, có chỉ huy, có giữ bí mật nhưng chính
sự yếu kém về tổ chức và tính linh hoạt khi xử lý các tình huống đã làm hại họ.
Lực lượng đông, binh khí kỹ thuật nhiều nhưng lại kéo dài đội
hình trên đường độc đạo nên khó tránh được ùn tắc.
Đoàn quân này lại kéo theo cả hàng vạn thường dân, trong đó quá
nửa là gia đình các sĩ quan, binh sĩ và công chức, rất khó tránh khỏi rối loạn
khi gặp tình huống bất ngờ.
Hy vọng duy nhất có thể trông cậy được là tính bất ngờ thì chỉ
sau hai ngày cũng không còn.
Khi bị đối phương chặn đánh quyết liệt thì sự tan rã không phải
là điều khó hiểu. Báo cáo tường trình về cuộc rút quân của khỏi Tây Nguyên của
Bộ tư lệnh Quân đoàn II trình tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ghi nhận:
"Cuộc hành quân dự trù không có áp lực của đối phương;
nhưng khi thực thi đã gặp áp lực nặng nề làm cho chỉ huy lúng túng không sao
đối phó được".[92]
Nguyên nhân cuối cùng dẫn đến thất bại ở Tây Nguyên năm 1975 của
QLVNCH là yếu tố tinh thần. Cuộc chiến kéo dài dai dẳng nhiều năm làm cho tinh
thần binh sĩ sa sút.
Sự bi quan trong các sĩ quan chỉ huy còn tăng thêm khi ngoại
trưởng Trần Văn Lắm từ Hoa Kỳ trở về thông báo khả năng Mỹ tăng thêm viện trợ
gần như không còn và phái đoàn của Quốc hội Hoa Kỳ cũng không hứa hẹn gì trong
cuộc đi thăm chính thức hồi tháng 2 năm 1975.
Khi rút quân, phần lớn các sĩ quan và binh sĩ QLVNCH đem theo cả
gia đình. Lúc lâm trận, không ít người đã bỏ đi tìm người nhà thay vì xông ra
giao chiến; và lòng trung thành của họ với gia đình nhiều hơn là với cấp chỉ
huy đã ảnh hưởng lớn đến tinh thần chiến đấu của họ.[83]
Từ thời chiến tranh Đông Dương 1945-1954, người Pháp và Việt
Minh đều coi Tây Nguyên là mái nhà và là cái chìa khóa của Đông Dương. Mất các
căn cứ cơ bản trụ cột phòng thủ cao nguyên mà trong tay không còn lực lượng dự
bị cơ động nào khả dĩ nào để có thể xoay chuyển tình thế, QLVNCH ở vào tình thế
rất nguy hiểm.
Những lực lượng của họ tuy còn khá đông nhưng lại chiếm giữ một
cách không chắc chắn dải đất hẹp ven biển miền Trung và có nguy cơ bị tấn công
chia cắt bất cứ lúc nào.
Quyết định bỏ Tây Nguyên và rút các lực lượng còn lại về cố thủ
dải đồng bằng ven biển miền Trung của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong
cuộc họp ngày 14 tháng 3 tại căn cứ quân sự Cam Ranh với các ông Cao Văn
Viên, Trần Thiện Khiêm và Phạm Văn Phú mặc dù
có một trong những nguyên nhân là tình trạng suy yếu lực lượng của Việt Nam
Cộng hòa lúc đó nhưng đã trở thành một lỗi lầm chí tử.
Đại tướng Cao
Văn Viên
Kế hoạch này cùng với viện thực hiện rút quân thiếu tổ chức
không những không cứu vãn được tình thế của Quân đoàn II mà còn đẩy họ đến chỗ
bị tiêu diệt và tan rã, mở đầu cho sự sụp đổ không tránh khỏi của Việt Nam Cộng
hoà.[93]
No comments:
Post a Comment