Cách nay
đúng 48 năm là ngày Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh “Người Cày Có Ruộng”
Ngày 26 tháng 03, 1970
·
1970 –
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu ký sắc lệnh ban hành luật "Người Cày Có Ruộng"
nhằm cải cách điền địa.
Cải cách điền địa (Việt
Nam Cộng hòa)
Cải cách điền địa là tên
gọi chung cho 2 đợt phân phối lại ruộng đất trong khuôn khổ chương trình Cải cách nông nghiệp và Phát
triển nông thôn ở miền Nam (từ vĩ
tuyến 17 trở xuống phía Nam) từ 1954-1975 sau Hiệp định Genève do phía Việt Nam Cộng hòa lãnh
đạo.
Trái phiếu Cải cách Điền
địa cấp năm 1970
Cải cách lần 1 (Thời Đệ nhất Cộng hòa):
Bối cảnh:
Trước khi đợt cải cách điền địa lần đầu tiên của Việt Nam Cộng
hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm thi
hành, tại các vùng Việt Minh kiểm soát ở phía nam vĩ tuyến 17 - dẻo đất Trung Bộ và một
số nơi ở đồng bằng sông Cửu Long - Việt Minh đã tịch thu không bồi thường
các nông trại trồng lúa của Pháp và những người bị kết tội theo Pháp rồi chia
những vùng đất này cho tá điền.
Miền Trung
Việt Nam Bắc Trung Bộ Nam Trung Bộ Tây Nguyên
Vị trí vùng
Đồng bằng sông Cửu Long trong bản đồ Việt Nam (Màu xanh lá)
TT Ngô đình Diệm
Ở hầu hết các vùng còn lại, bao gồm những vùng đã từng thuộc về
các giáo phái, những người nông dân cũng tự thực hiện cải cách ruộng đất.
Nhiều địa chủ đã bỏ đồng ruộng của mình lên thành phố ở để tránh
các cuộc xung đột vũ trang và tìm sự an toàn.
Tính đến thập niên 1950 tại
miền Nam Việt Nam thì tình hình sở hữu ruộng đất có nhiều chênh lệch: 2,5% đại
điền chủ sở hữu 45% tổng số ruộng trong khi 73% tiểu điền chủ chia nhau 15%.
Nội dung:
Trong hai năm 1955 – 1956, chính phủ Mỹ đã cử một phái đoàn cố
vấn do W. Ladejinsky (một chuyên gia về cải cách điền địa đã từng giúp Tưởng Giới Thạch thực
hiện cải cách điền địa ở Đài Loan) sang
miền Nam Việt Nam giúp chính quyền Việt Nam Cộng hòa soạn thảo chính sách ruộng
đất.
Tổng thống
Trung Hoa Dân Quốc
Báo Công Luận ra ngày 7 tháng 7 năm 1969 cho biết từ
năm 1955 đến năm 1960 Mỹ đã viện trợ 12 triệu USD cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa để thực
hiện chính sách trên.
Nội dung cải cách điền địa của Ngô Đình Diệm chủ yếu trong bốn
đạo dụ:
·
Dụ số 2 (8/1/1955) quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và
lãi suất mà điền chủ được áp dụng.
1.
Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm
1 mùa / năm.
2.
Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa /
năm.
·
Dụ số 7 (5/2/1955) quy định việc thuê đất phải có khế ước (hợp đồng)
tá điền. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái ký. Tá điền có quyền trả đất và phải
báo trước chủ đất 6 tháng. Chủ đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3
năm. Khế ước được chia thành ba loại:
1.
Loại A: đối với ruộng đang canh tác có chủ
2.
Loại B: đối với ruộng hoang có chủ
3.
Loại C: đối với ruộng hoang vắng chủ (Hội đồng xã thay mặt chủ đất
ký khế ước với nông dân)
·
Dụ số 28 (30/4/1956) quy định quy chế tá điền
·
Dụ số 57 (20/10/1956) quy định việc truất hữu địa chủ. Mỗi địa
chủ chỉ được giữ lại 100 ha ruộng đất và 15 ha ruộng hương hỏa.
·
Ruộng bị truất hữu sẽ được đem bán lại cho những người thiếu ruộng,
mỗi hộ không quá 5 ha, người mua sẽ trả tiền trong thời gian 6 năm. Trong thời
gian đó ruộng đất vẫn thuộc quyền sở hữu của chính quyền. Trong 10 năm kế tiếp,
người được phát ruộng không được cho mướn hay đem bán lại. Địa chủ sẽ được bồi
thường 10% tiền mặt, số còn lại được trả bằng trái
phiếu trong
12 năm, mỗi năm lời 5%.
Với chính quyền Ngô Đình Diệm thì thực chất dụ số 2 và dụ số 7
không phải là chính sách mới vì "phần lớn chương trình cải cách điền địa
năm 1956 chỉ là sao chép chương trình cải cách trước kia của Bảo Đại".
Thi hành:
Miền Nam Việt Nam đã thực hiện chính sách tư hữu hóa ruộng đất
cho các tá điền qua công cuộc Cải Cách Điền Địa do Tổng
thống Ngô Đình Diệm thực hiện trong những năm 1955-1963.
Hai văn bản chủ yếu là Dụ số 2 (thông qua ngày 8 tháng 1 năm
1955) và Dụ số 7 (thông qua ngày 5 tháng 2 năm 1955) quy định chính sách giảm
tô, thu hồi ruộng đất bỏ hoang, và bảo đảm hợp đồng cho tá điền.
Từ trước, ở Việt Nam, việc thuê đất không có giấy tờ hợp đồng
giữa người thuê mướn và chủ đất. Giá thuê đất từ 40% đến 60%, tùy theo đất tốt
xấu, trên số lúa thu hoạch.
Dụ số 2 quy định mức thu tô (giá thuê đất) tối đa và lãi suất mà
điền chủ được áp dụng. Từ nay:
1.
Mức tô tối đa từ 10 đến 15% trên số lúa thu hoạch cho ruộng làm
1 mùa / năm.
2.
Mức tô tối đa từ 15 đến 25% cho mùa gặt chính của ruộng 2 mùa /
năm.
Dụ số 7 buộc chủ đất phải lập hợp đồng với nông dân. Thời hạn
hợp đồng là 5 năm, có tái ký.
Tá điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng. Chủ
đất muốn lấy đất lại phải báo trước tá điền 3 năm.
Sau khi làm Tổng thống, Ngô Đình Diệm ban hành Dụ số 57 ngày 22 tháng
10 năm 1956 ấn định thể thức phân phát đất.
Theo đó thì chủ điền chỉ được giữ tối đa là 100 ha, trong
đó 30 ha phải trực canh và 70 ha còn lại có thể cho tá điền thuê theo quy chế
tá canh.
Diện tích quá 100 ha luật pháp quy định phải bán lại cho người
không có đất. Tuy theo quy định, mỗi người chỉ được giữ tối đa 100 ha, nhưng
một người có thể né tránh quy định này bằng cách chia nhỏ đất của mình cho các
thành viên trong gia đình.
Tổng cộng là 2.033 điền chủ sở hữu 425.000 ha bị ảnh hưởng.
Thêm vào đó là 245.000 ha của 430 điền chủ mang quốc tịch Pháp
cũng thuộc vào trường hợp phải nhượng lại cho chính phủ.
Vì chiến tranh nhiều người bỏ ra thành thị sinh sống nên số đất
bỏ hoang tính ra lên đến 1,3 triệu ha.
Trong thời gian Chính phủ kiểm kê, nếu chủ đất vẫn vắng mặt, số
đất này bị trưng thu để bán cho nông dân.
Chính phủ đề ra bốn diện ưu tiên nhận đất theo thứ tự sau đây:
1.
Người đã tá canh hơn hai năm,
2.
Cựu chiến binh,
3.
Dân di cư
Chính phủ Việt Nam Cộng hòa lúc đó đã bồi thường số đất bị truất
hữu (tước quyền sở hữu) cho chủ điền bằng 10% tiền mặt và 90% công trái phiếu hạn 12 năm.
Tá điền có quyền mua trả góp đất của chính phủ với giá tiền
chính phủ bồi thường chủ điền.
Vốn và lãi trả trong vòng 12 năm với lãi suất 3%/năm.
Diện tích đất tối đa một người nông dân được mua là 5 ha.
Với chương trình cải cách điền địa này, chính phủ Ngô Đình Diệm
đã thu lại và trả cho chủ cũ tất cả các vùng đất của địa chủ mà Việt Minh đã
tịch thu không bồi thường chia cho các tá điền, tịch thu và trả lại cho chủ đất
cũ những vùng đất bị bỏ lại mà nông dân địa phương đã chiếm, mua lại tất cả tài
sản từng thuộc về người Pháp.
Những nông dân bị chính phủ thu hồi đất trả cho chủ cũ trở thành
người không có đất. Những mảnh đất này sau đó được chính phủ mua rồi bán lại
cho nông dân.
Rất nhiều đất được bán hoặc cấp cho những người di cư từ miền
Bắc thay vì nông dân miền Nam. Trung tướng Trần Văn Đôn, Tổng tham mưu trưởng của chính phủ Ngô
Đình Diệm – đồng thời cũng là một địa chủ bị chính quyền truất hữu, đã nói:
Trung tướng
Trần Văn Đôn
"Dòng họ nhà Trần chúng tôi có hơn 1.500 ha đất bị truất
hữu số đó được chia thành từng lô, mỗi lô 5 ha để bán lại. Nhưng chính phủ lại
đem bán cho những người Bắc Việt di cư chứ không phải bán lại cho số 400 tá
điền cũ của dòng họ nhà tôi, gốc Nam Bộ"[cần dẫn nguồn].
Những phần đất chưa được chính phủ mua vẫn thuộc các chủ đất cũ
người Việt, một số đất thông qua chương trình cải cách điền địa tới tay những
người có khả năng mua với tiền trả dần từng năm. Tổng thống Ngô Đình Diệm tuyên
bố quyết tâm tránh dùng biện pháp mà ông coi là ăn cướp và tra tấn dã man như
phong trào Cải cách ruộng đất ở miền Bắc, ông chỉ thị cho các quan chức địa
phương trả tiền mua số đất vượt quá giới hạn, chứ không tịch thu.
Sau đó chính phủ sẽ chia nhỏ số đất vượt giới hạn này để bán cho
các nông dân chưa có ruộng, và họ được vay một khoản tiền không phải trả lãi
trong kỳ hạn sáu năm để mua.
Tốc độ thực hiện phân phối lại ruộng đất bằng chương trình Cải
cách điền địa khá chậm. Theo Gabriel Kolko, vào năm 1961, khi chương trình này
trên thực tế đã chấm dứt.
Tổng thống Diệm đã thu được 422.000 ha cộng với ruộng đất của
Pháp, thành ra vào khoảng 650.000 ha. Trong số này chỉ 244.000 ha được chia lại
sau cuối năm 1958, chủ yếu cho người di cư Thiên Chúa giáo miền Bắc, cựu chiến
binh hoặc những người mới tới.
Lấy ví dụ tỉnh Long An, trong số khoảng 35.000 hộ nông dân ở
Long An phải thuê một phần hoặc toàn bộ đất canh tác, chỉ có 3.613 hộ đủ tiêu
chuẩn được mua đất theo Dụ số 57; hơn nữa, thủ tục quá chậm chạp đến nỗi cho
đến tận năm 1960, khi chính quyền Long An đã rơi vào hoàn cảnh nguy ngập, mới
chỉ có 973 giấy chứng nhận sở hữu đất ruộng được cơ quan Bộ ở Sài Gòn gửi về.
Sau khi Tổng thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, nền chính trị miền
Nam bất ổn trong một thời gian.
Kết quả:
Đến năm 1958, Ngô Đình Diệm đã khôi phục được kiểu sở hữu đất
tại đồng bằng Nam Bộ về lại như thời trước chiến tranh khi 2% chủ đất sở hữu
45% đất đai và khoảng một nửa số người cày không có ruộng.
Ngày 30 tháng 6 năm 1959, chủ yếu ở đồng bằng sông Cửu Long số
khế ước tá điền lập được đã lên tới 774.286 ha (Loại A: 576.856 ha, loại B và
C: 197.530 ha), liên quan tới khoảng ¾ số tá điền.
Khế ước quy định mức tô tối đa là 25% đối với mùa gặt chính của
ruộng 2 mùa/năm nhưng trong thực tế thì địa chủ bắt ép nông dân nộp tô hơn mức
quy định rất nhiều.
Còn theo báo Tự
Do (báo của chính quyền Việt
Nam Cộng hòa) số ra ngày 3/3/1961 thừa nhận: "Tuy khế ước quy định tô 15%
nhưng thực tế địa chủ đã thu tô 45 – 50% như cũ, những năm mất mùa cũng không
được giảm tô".
·
Diện tích truất hữu (2035 chủ điền) = 430.319 ha (chiếm 94%)
·
Diện tích đã được bồi thường = 340.744 ha
·
Diện tích có đơn xin mua = 297.018 ha
·
Diện tích đã cấp bán (123.193 tá điền) = 345.851 ha
·
Diện tích mua trực tiếp của chủ điền (2857 tá điền) = 6.362 ha
·
Diện tích mua của điền chủ Pháp = 220.842 ha (Thỏa ước Việt-Pháp
ngày 10/9/1958)
·
Số tiền bồi thường bằng chi phiếu = 165.497.567 đồng
·
Số tiền bồi thường bằng trái phiếu = 1.195.380.000 đồng
Theo số liệu trên, tính chung cả miền Nam, chính quyền đã thu
hồi 430.319 ha và bán lại cho 123.193 nông dân. So với 1 triệu hộ tá điền ở
đồng bằng sông Cửu Long thì rõ ràng dụ 57 về cơ bản không ảnh hưởng bao nhiêu.
Đánh giá:
Theo quan điểm của Việt Minh, Chương trình cải cách điền địa
tước đoạt đất đai của nông dân, khôi phục lại hình thức sở hữu phong kiến, phục
hồi giai cấp địa chủ ăn bám, bóc lột nông dân.
Đây là thất bại chính trị to lớn của chính phủ Ngô Đình Diệm và
cũng là nguyên nhân sâu xa khiến nông dân ủng hộ cuộc kháng chiến của họ.
Theo quan điểm của chính phủ Ngô Đình Diệm, Chương trình cải
cách điền địa khôi phục quyền tư hữu đất đai của địa chủ đã bị Việt Minh xâm
phạm, thiết lập lại trật tự xã hội, vừa tôn trọng quyền lợi của chủ đất vừa
giúp nông dân chưa có đất có cơ hội sở hữu một diện tích đủ đáp ứng nhu cầu sản
xuất của họ.
Chương trình cải cách điền địa còn giúp những chủ đất cũ có một
số vốn lớn sau khi bán đất cho nhà nước để đầu tư vào các lĩnh vực công nghiệp,
thương nghiệp và dịch vụ.
Điều này tạo ra sự dịch chuyển trong cơ cấu kinh tế quốc gia
theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp và tăng tỷ trọng các ngành còn lại.
Tuy nhiên, nhược điểm của Chương trình cải cách điền địa là nó
diễn ra quá chậm vì nhiều lý do. Chính phủ không đủ ngân sách để mua toàn bộ
đất đai vượt quá hạn mức của địa chủ trong thời gian ngắn, các thủ tục hành
chính khiến việc bán ruộng cho nông dân chậm trễ, nhiều nông dân không có tiền
mua đất.
Trong khi đó, các chủ đất lại lách luật bằng cách chia nhỏ đất
đai của mình cho các thành viên trong gia đình đứng tên để không phải bán cho
nhà nước.
Từ năm 1960 đến 1963, khi Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam gia tăng hoạt động, chương trình cải cách điền địa gần như không thực
hiện được do những người cộng sản cấm nông dân mua đất của chính phủ Ngô Đình
Diệm.
Đến năm 1963, khi Tống thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, nền chính
trị miền Nam rơi vào khủng hoảng, chương trình Cải cách điền địa tạm dừng.
Một hạn chế nữa của chương trình là việc chính phủ Ngô Đình Diệm
áp dụng chính sách Ấp chiến lược, buộc nông dân phải rời bỏ nhà
cửa, vào sống trong các khu ấp bị cách ly với bên ngoài, muốn ra vào phải tuân
theo khung giờ và xuất trình giấy tờ.
Với việc phải sống trong ấp chiến lược thì dù nông dân có đất
canh tác, họ cũng không thể sản xuất một cách thuận lợi (phải đi xa hơn mới tới
ruộng, thời gian gieo trồng bị giới hạn, không dễ gặp được lái buôn hoặc họp
chợ để mua bán nông sản), nên dù tích góp đủ tiền thì nông dân cũng không mặn
mà với việc mua đất.
Hạn chế khác của chương trình Cải cách điền địa là mức giới hạn
diện tích sở hữu 100 ha được đánh giá là lớn trong thực tế Việt Nam.
Đây là mức cao hơn 30 lần so với các mức giới hạn được đặt ra
với mục đích tương tự ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan.
Theo quan sát của một số học giả, đường lối Cải cách điền địa mà
Ngô Đình Diệm đề ra đã bị nông dân miền Nam phản đối dữ dội.
Trong khi Việt Minh đã giảm thuế, xóa nợ và tịch thu ruộng đất
của địa chủ chia cho nông dân nghèo, Ngô Đình Diệm đã đưa giai cấp địa chủ trở
lại. Đến cuối thời Ngô Đình Diệm, 2% đại điền chủ sở hữu 45% tổng số ruộng
trong khi 73% tiểu nông chỉ nắm giữ 15%, khoảng một nửa số người cày không có ruộng.
Hạn mức đất được quy định rất lớn (100 hecta), nên
hiếm có địa chủ nào phải trả lại đất, số đất thu được cũng chủ yếu là chia cho
người Thiên Chúa giáo di cư
vào từ miền Bắc. Đất của các Giáo xứ Công giáo thì còn được Ngô Đình Diệm cho miễn thuế và
hạn mức.
Nông dân phải trả lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền thuê đất
và phải nộp thuế đất cho quân đội. Khế ước quy định mức tô tối đa là 25% nhưng
trong thực tế thì mức nộp tô phổ biến là 40% hoa lợi
Điều này tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội của Ngô
Đình Diệm bị mắng chửi là "tàn
nhẫn hệt như bọn Pháp". Kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ
quân Giải phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm.
Vì những hạn chế này nên Việt Nam Cộng hòa phải tiếp tục thực
hiện Cải cách điền địa đợt hai bằng Luật "Người Cày Có Ruộng" vào năm
1970.
Cải cách lần 2 (Thời
Đệ Nhị Cộng hòa) :
Bối cảnh:
Ngày 8/10/1965, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, tướng Nguyễn
Văn Thiệu ký Sắc Luật 020/65 để sửa đổi Dụ 57, "cấp quyền sở hữu thiệt
thọ cho nông dân mua ruộng truất hữu".
Đúng một năm sau, ông ký Sắc Luật số 021/66 "cấp
quyền thực trưng vô thường trên những sở đất thuộc công sản Quốc gia tại các
Dinh điền và Trại định cư cho những người đang thực sự khai khẩn".
Cuộc tổng tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 buộc Mỹ phải xuống thang và chuyển sang
chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh".
Vì một vùng nông thôn rộng lớn đã ở dưới quyền kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
miền Nam Việt Nam nên Mỹ
và Việt Nam Cộng hòa càng chú ý đến việc giành lại đất đai ở nông thôn.
Trong chương trình nghị sự giữa Richard
Nixon và Nguyễn Văn Thiệu thời Đệ Nhị Cộng hòa tại đảo Midway tháng 6 năm 1969, vấn
đề nông thôn và cải cách điền địa đã được ghi lên hàng đầu.
Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu
Rạn san hô
vòng Midway
Tháng 1/1967, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đề nghị chọn An Giang
làm nơi thí điểm.
Kinh nghiệm An Giang được áp dụng vào hai tỉnh Chương Thiện và
Kiến Tường rồi lan ra những tỉnh khác.
Ngày 25 tháng
8 năm 1969, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu đưa ra dự luật để quốc hội thảo luận, trong đó việc rút
bớt ruộng đất để lại cho địa chủ xuống còn 15 ha ở Nam phần, 5 ha ở Trung phần và cấp
không 1,5 triệu ha ruộng lúa cho hơn 80 vạn nông dân.
Tháng 9/1967, Hạ Viện thông qua sau đó Ủy Ban Canh Nông Thượng
Viện xem xét và tu sửa lại. Cuối cùng cả lưỡng viện đều thống nhất chuẩn y
chính sách Người cày có ruộng.
Ngày 9 tháng 9 năm 1969, thì Nixon phái Richard I. Hogh,
một chuyên gia về phát triển nông thôn châu Á, cùng với 35 chuyên viên người
Việt và Mỹ sang Sài Gòn trực
tiếp cố vấn chương trình cải cách điền địa. Ngoài 40 triệu Mỹ kim (tương đương 11 tỷ đồng Việt Nam Cộng hòa) bỏ ra
thì chính quyền Đệ Nhị Cộng hòa còn bỏ ra 178 triệu đồng để chi cho việc
soạn thảo luật "Người Cày Có Ruộng".
Từ tháng 8 năm 1969 đến tháng 3 năm 1970, sau một thời gian
tranh luận khá gay go trong Quốc hội vì nhiều dân biểu là địa chủ không muốn bị
truất hữu, cuối cùng thì đạo luật được Thượng viện thông qua ngày 6 tháng 3 năm 1970 và Hạ viện chung quyết ngày 16 tháng
3 năm
1970.
Ngày 26 tháng
3 năm
1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ký tại Cần Thơ sắc lệnh số 003/60 ban hành luật
"Người Cày Có Ruộng".
Ông nói: "Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi." Ngày ban hành luật "Người Cày Có
Ruộng" được coi là ngày nghỉ lễ toàn quốc.
Nội dung:
Luật quy định ruộng đất không trực canh (không do địa chủ canh tác) đương nhiên bị
truất hữu và phải được bồi thường thỏa đáng theo thời giá.
Chủ đất được bồi thường 20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố
phiếu trả 10% lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá
năng suất thóc từ khoảnh đất đó.
Ruộng đất truất hữu được ưu tiên cấp phát miễn phí cho tá điền
(3 ha ở Nam phần và 1 ha
ở Cao nguyên, duyên hải Trung phần).
Tuy nhiên, Luật "Người Cày Có Ruộng" không áp dụng đối
với ruộng đất của các tổ chức tôn giáo và ruộng đất hương hỏa gia đình của
người dân.
Mục tiêu của việc cải cách này là cấp miễn phí 1,5 triệu hecta
ruộng lúa cho 80 vạn hộ nông dân, đồng thời cấp giấy chứng nhận sở hữu ruộng
đất cho nông dân.
Người nhận đất theo quy định chương trình Người cày có ruộng thì
không được sang nhượng hay bán lại thửa đất đó trong vòng 15 năm.
Ngoài ra chính sách ruộng đất còn có ba điểm mới đem vào thực
hành:
·
Địa chủ không có quyền bắt tá điền nộp địa tô thuộc những năm
trước.
·
Nông dân lãnh ruộng do Việt Cộng cấp cũng được miễn thuế trong một
thời gian.
·
Nông dân lãnh ruộng do Việt Cộng cấp sẽ được nhận bằng khoán để
chính thức sở hữu số ruộng đó.
Tính đến năm 1973 thì hơn một triệu ha ruộng đã được chuyển
sang quyền sở hữu của hơn 850.000 tá điền. Chương trình đã hủy bỏ được quy chế tá điền
tồn tại nhiều thế kỷ.
Thi hành:
Người Mỹ ủng hộ việc cải cách điền địa của Việt Nam Cộng hòa.
Đối với luật "Người Cày Có Ruộng", Tổng thống Thiệu
cho lập ra nhiều Ủy ban cải cách điền địa từ huyện đến xã.
Các ủy ban này có nhiệm vụ kê khai ruộng đất canh tác của nông
dân, ruộng đất thuộc sở hữu của địa chủ. Căn cứ vào số liệu do các Ủy ban Cải
cách Điền địa thu thập được, Việt Nam Cộng hòa cấp chứng khoán để xác nhận
quyền sở hữu ruộng đất của nông dân.
Những ai không kê khai ruộng đất hoặc không nhận chứng khoán thì
ruộng đất sẽ bị tịch thu và xem như có hành động ngăn cản việc thi hành người
cày có ruộng.
Những hành động này sẽ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm và phạt
tiền từ 20.000 đến 200.000 đồng (Điều
17, chương 5 luật "Người Cày Có Ruộng").
Cùng với việc cải cách điền địa, Việt Nam Cộng hòa cũng thực
hiện một số chính sách phát triển nông nghiệp - nông thôn như phổ biến giống
lúa mới IR-8 ( lúa Thần nông) được Viện Nghiên Cứu Lúa Gạo Quốc Tế
(International Rice Research Institute - IRRI) ở Phi Luật Tân phát minh.
Đồng thời Việt Nam Cộng hòa cũng thành lập một số ngân hàng phát
triển nông thôn như năm 1967 thành lập Ngân hàng Phát triển Nông Nghiệp
(Agricultural Development Bank of Vietnam - ADBV) thay Quốc Gia Nông Tín Cuộc,
năm 1969 thành lập Ngân hàng Nông thôn.
Kết quả:
Ở miền Nam, trong đợt 1, đất đai của địa chủ được
chính phủ thu mua giá cả sòng phẳng rồi bán trả góp 12 năm cho dân nghèo.
Trong đợt 2, đại địa chủ chỉ được giữ tối đa 15 ha nếu trực
canh, sau năm 1973 đã chấm dứt nạn tá canh làm thuê ruộng của chủ điền vì nông
dân đã được cấp, bán trả góp.
Ở miền Nam Việt Nam, phương thức sản xuất nông nghiệp kiểu phong kiến đã bị xoá sạch.
Những phương pháp canh tác mới có tiến bộ kỹ thuật đã được áp
dụng để gia tăng năng suất.
Sau khi hoàn tất chương trình "Người Cày Có Ruộng"
trong những năm 1970-1973, Việt Nam Cộng hoà đã có 80 phần trăm tư sản trung
nông hóa và thành phần nông dân này là lực lượng chính của sản xuất nông nghiệp
ở miền Nam Việt Nam.
Ba năm sau khi triển khai chương trình này, tổng cộng có 75 vạn
hộ gia đình, gồm khoảng 5 triệu người, đã được cấp đất.
Còn lại khoảng 20 phần trăm là phú nông và tư sản trung nông
giàu sở hữu chừng 10 phần trăm ruộng đất canh tác. Số người nông dân giàu có
này ngoài việc canh tác số ruộng đất sau khi đã truất hữu còn lại, họ cũng kinh
doanh các dịch vụ cơ khí nông nghiệp, lưu thông hàng hoá nông sản phẩm, chế
biến thực phẩm nông sản trong một thị trường thương nghiệp nông thôn và lao
động nông nghiệp rất tự do.
Sau khi Việt Nam Cộng hòa hoàn tất chương trình
"Người Cày Có Ruộng" thì không còn thành phần đại địa chủ ở miền Nam
Việt Nam. Trong ba năm 1970-1973, kết quả của chương trình "Người Cày Có
Ruộng" là đã chấm dứt chế độ tá canh ở miền Nam Việt Nam khi tá điền trở thành
điền chủ.
Năm 1960 đánh dấu mức cao nhất trong lịch sử kinh tế Việt Nam
Cộng hoà, với 340.000 tấn gạo được xuất cảng.
Từ năm đó, nông thôn bắt đầu thiếu an ninh, ruộng đất thiếu
người cày, xuất cảng gạo xuống dần, và tới năm 1962, còn
85 ngàn tấn.
Từ năm 1965, đã có lúc phải nhập cảng gạo có năm lên tới 760.000
tấn.
Nhờ những chính sách phát triển nông thôn, từ năm 1970, sản xuất
lúa gạo tại miền Nam đã tăng trưởng.
hêm vào đó là nhờ tiến bộ kỹ thuật: loại lúa giống IR-3 phát
xuất ở Philippines được đem vào đồng bằng Cửu Long, nhờ phát
triển nhanh và tốt, còn được gọi là "lúa Thần nông".
Kết quả chương trình "Người Cày Có Ruộng" theo số liệu
của Tổng nha Điền Địa (tính đến ngày 15/7/1974):
·
Toàn miền Nam cấp phát = 1.290.949 ha
·
Đồng bằng sông Cửu Long = 1.154.371 ha (ruộng tư 1.099.382 ha;
ruộng công 54.989 ha)
·
Chứng thư cấp đất = 693.258 chứng thư
·
Số tiền bồi thường = 151 tỷ đồng (số liệu 26/4/1974)
Luật "Người Cày Có Ruộng" không hề đụng chạm đến ruộng
đất của tôn giáo nên ngay sau năm 1975, các tôn giáo còn sở hữu rất nhiều ruộng
đất.
Phật giáo, Hòa Hảo và Cao Đài còn chiếm không đáng kể, nhưng đáng chú ý
nhất là sự sở hữu lớn của các nhà thờ Thiên chúa giáo.
Nhà thờ Cầu Ngang (huyện Tiểu Cần, Cửu Long) sở hữu 529 ha, nhà
thờ Bãi Sang (huyện Càng Long, Cửu Long) sở hữu 432 ha, nhà thờ Bình Hạnh Đông
(huyện Phú Tân, An Giang) sở hữu 570 ha. Ở tỉnh Long Châu
Hà cũ,
trong tổng số ruộng đất canh tác của tỉnh, tôn giáo chiếm 5% (7.848 ha) trong
đó Thiên chúa giáo chiếm 7205 ha.
Đánh giá:
Báo chí Hoa Kỳ hết lời ca ngợi chương trình "Người
Cày Có Ruộng"; tờ Washington
Evening Star gọi đó
là
"Có lẽ đây là cuộc cải cách ruộng đất không cộng sản mang
nhiều tham vọng và tiến bộ nhất của thể kỷ 20."
"Nhiều quan sát viên quốc tế đã cho chương trình
"Người Cày Có Ruộng" là một trong những chương trình cải cách điền
địa thành công nhất ở các nước hậu tiến.
Nó là điểm vàng son của nền Đệ Nhị Cộng hòa". Chương trình này đã tạo ra một tầng lớp
tiểu nông đông đảo, thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong nông nghiệp phát triển.
Nông dân hăng hái sản xuất và năng suất lao động trong sản xuất
lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Đời sống của nông dân được cải thiện.
Ngày 22 tháng
2 năm
1971, sau gần một năm luật "Người Cày Có Ruộng" được ban hành, dân
biểu Trần Văn Quá, chủ tịch ủy ban canh nông của thượng viện đã tiết lộ:
"Hầu hết số ruộng này đã được Việt Cộng cấp không cho nông dân từ mấy năm trước,
nay luật "Người Cày Có Ruộng" xem như hợp thức hoá tình trạng
đó".
Xin coi bài “Cải cách Ruộng đất tại miền Bắc”; sẽ đăng tiếp
để biết rõ về nhận xét này.
Xem thêm:
Chú thích:
4.
^ a ă Dommen,
Arthur. The Indochinese Experience of the French and the Americans:
Nationalism and Communism in Cambodia, Laos, and Vietnam. Bloomington, IN: Đại học Indiana Press, 2001. Trang 301
5.
^ Mark
Moyar, Triumph Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965, tr. 72-73, Cambridge
University Press, 2006, download
6.
^ a ă Gabriel
Kolko, Anatomy of a War; Vietnam, the United States, and the Modern Historical
Experience, tr 125, The New Press (1985)
7.
^ Jeffrey
Race, "The Origins of the Second Indochina War", 10 Asian Survey, No.
5, tr. 370-371 (1970), online
8.
^ Chính
sách cải cách ruộng đất Việt Nam (1954 – 1994), Phần I, Chương 2: CHÍNH SÁCH CẢI
CÁCH RUỘNG ĐẤT MIỀN NAM, Mục 1: CHÍNH SÁCH CẢI CÁCH ĐIỀN ĐỊA CỦA TỔNG THỐNG NGÔ
ĐÌNH DIỆM, Lâm Thanh Liêm
11.
^ a ă Robert
L.Sanson, The economics of insurgeney in the Mekong Delta of Vietnam, MIT Press, Cambridge. Mass. 1970. page 61
13.
^ Philip
E. Catton, Diem’s Final Failure: Prelude to America’s War in Vietnam, page 53,
University Press of Kansas, 2002
14.
^ Marilyn
Young, The Vietnam Wars: 1945—1990 (New York: Harper Perennial, 1991), p. 76
and p. 104.
15.
^ a ă â b c d đ 'Người Cày Có Ruộng' - Niềm
yên ủi của Tổng thống Thiệu, Nguyễn
Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kinh tế VNCH, BBC Vietnam, 24 tháng 9 2017
18.
^ a ă â b Võ Văn
Sen, Vấn đề ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam (1954 -
1995), nxb Tủ sách đại học tổng hợp
Tp.HCM, 1995, page 109
20.
^ Embassy
of Viet-Nam. Viet-Nam Bulletin Series
27. Washington, DC: Embassy of Viet-Nam, 1970. tr 7
22.
^ Penniman,
Howard R. Elections in South Vietnam. Stanford, CA: Hoover Institution on War, Revolution and Peace
at Stanford University, 1972. tr 104
24.
^ a ă Đặng
Phong (2004), Kinh tế Miền Nam Việt Nam thời kỳ 1955 - 1975, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, tháng 12 năm 2004
26.
^ Nguyễn
Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, phần 2 chương 5, dẫn tại Xuất
& Nhập khẩu Gạo trước 1975
No comments:
Post a Comment