Đúng 63 năm trước, Mỹ mở chiến dịch Rolling Thunder, oanh tạc
miền Bắc với mục đich ngăn chặn miền Bắc đánh chiếm miền Nam
Ngày 02
tháng 03, 1965
·
1965 – Chiến tranh Việt Nam: Quân
đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa bắt đầu tiến hành Chiến dịch Sấm Rền, nội
dung là oanh tạc miền Bắc Việt Nam.
President Lyndon B. Johnson decides
to undertake the sustained bombing of North Vietnam that he and his advisers
have been contemplating for a year.
Called Operation Rolling Thunder, the bombing campaign was designed to interdict North
Vietnamese transportation routes in the southern part of North Vietnam and slow
infiltration of personnel and supplies into South Vietnam. The first Rolling
Thunder mission took place on March 2, 1965, when 100 U.S. Air Force and
Republic of Vietnam Air Force (VNAF) planes struck the Xom Bang ammunition dump
100 miles southeast of Hanoi.
From 1965 to 1968, about 643,000 tons of bombs
were dropped on North Vietnam, and a total of nearly 900 U.S. aircraft were
lost during Operation Rolling Thunder. The operation continued, with occasional
suspensions, until President Johnson, under increasing domestic political
pressure, halted it on October 31, 1968.
Chiến dịch Sấm Rền:
Operation Rolling Thunder
Chiến dịch Sấm Rền (tiếng
Anh: Operation Rolling Thunder) hay Chiến tranh
phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (theo cách gọi ở Bắc Việt Nam) là chiến
dịch ném bom trong Chiến tranh Việt Nam do Sư đoàn 2 Không quân
(sau là Seventh Air Force), Hải quân Mỹ và Không lực Việt Nam Cộng hòa chống
lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chiến
dịch này kéo dài từ ngày 2 tháng
3 năm 1965 đến 1 tháng
11 năm 1968.
Bốn mục tiêu của chiến dịch (phát triển
theo thời gian) là:
·
Cứu vãn tinh thần đang sa sút của chính phủ Việt Nam Cộng hòa;
·
Ép Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngừng hỗ trợ cho Mặt trận Dân tộc
Giải phóng ở miền Nam;
·
Phá hủy hệ thống giao thông, các cơ sở công nghiệp, các lực
lượng phòng không của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
·
Ngăn chặn dòng quân và hàng hóa chảy vào miền Nam Việt Nam.
Việc đạt được các mục tiêu này đã trở nên
khó khăn bởi những hạn chế áp đặt lên Hoa Kỳ và các đồng minh theo các yêu cầu
của Chiến tranh Lạnh và bởi viện trợ quân sự và sự trợ giúp mà Bắc Việt Nam đã
nhận được từ các đồng minh cộng sản của Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC)
và Bắc Triều Tiên.
Chiến dịch này trở thành trận chiến không
quân dữ dội nhất diễn ra trong thời kỳ chiến tranh lạnh; đó là trận chiến khó
khăn nhất của Hoa Kỳ kể từ khi Hoa Kỳ thả bom xuống nước Đức trong Thế chiến thứ hai.
[color=red]Được hỗ trợ bởi các đồng minh
cộng sản, Bắc Việt Nam có các loại vũ khí không đối không và
đất đối không tạo ra một hệ thống phòng không hiệu quả nhất mà các phi công
quân sự Mỹ phải đối mặt.[/color]
Một nghiên cứu của Mỹ đã xem chiến dịch này
như là một công thức cho thất bại. Sau
một trong những chiến dịch trên không dài nhất trong lịch sử của bất cứ quốc
gia nào, nhiều chuyên gia quân sự Mỹ đã kết luận rằng chiến dịch Sấm
Rền là một thất bại do nó không đạt được một mục tiêu nào trong các
mục tiêu đã đặt ra.
Mặc dù chiến dịch này đã gây thiệt hại cho
các cố gắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chiếm quyền kiểm soát miền Nam
Việt Nam, dòng người và hàng chảy tới các chiến khu vẫn tăng đáng kể. Tuy
nhiên, các kinh nghiệm thu được trong chiến dịch đã chỉ ra cho các nhà lập kế
hoạch quân sự Mỹ cách tránh tiến hành một chiến dịch không quân. Các bài học thu được trong thập kỷ 1960 đã dẫn
tới các thay đổi quan trọng trong huấn luyện và trang bị cho quân đội Mỹ trong
các thập kỷ 1980 và 1990.
Hành
động leo thang
Xem thêm về về xuất phát điểm của can thiệp
quân sự trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam tại Sự kiện Vịnh Bắc Bộ.
Hoàn cảnh
Phản ứng trước việc Tổng thống Ngô Đình Diệm bãi bỏ cuộc tổng tuyển cử
thống nhất năm 1956 và đàn áp mạnh mẽ các lực lượng Việt
Minh cũ, từ cuối thập kỉ 1950, Hà Nội bắt đầu gửi vũ khí và
quân nhu cho lực lượng du kích của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam (MTDTGPMN), lực lượng đang chiến đấu nhằm lật đổ chính phủ
Sài Gòn được Mỹ hỗ trợ.
Tuyên Bố Của Chính Phủ VNCH Ngày 26-4-1958 Về Thắc Mắc
Trong Vấn Đề Tái ThốngNhất Đất Nước
Để chống lại MTDTGPMN và củng cố chính phủ
miền Nam, ban đầu, Mỹ cung cấp viện trợ tài chính, cố vấn quân sự, và hàng quân
nhu. Trong
thời kì 1957 - 1963, với chính sách kiềm chế (containment) và sự tin
tưởng vào thuyết đôminô, Mỹ
ngày càng tiến sâu vào việc bảo vệ Nam Việt Nam khỏi cái mà họ coi là "sự
bành trướng của cộng sản".
[color=red]Bài quá dài -> phải cắt bớt[/color]
Thi hành
Đến cuối tháng 8, Hội đồng tham mưu liên
quân Mỹ đã liệt kê một danh sách 94 mục tiêu cần phá hủy, một phần của chiến
dịch không kích hiệp đồng dài 8 tuần để đánh phá mạng lưới giao thông tại miền
Bắc Việt Nam. Cầu,
ga xe lửa, bến cảng, doanh trại, và các kho hàng đều được lấy làm mục tiêu. Tuy
nhiên, Johnson sợ rằng một chiến dịch như vậy có thể làm ngòi nổ cho một sự can
thiệp trực tiếp với Trung Quốc hay Liên Xô, điều mà đến lượt nó có thể biến
thành một cuộc chiến tranh thế giới. Với
sự ủng hộ của McNamara, tổng thống từ chối cho phép một chiến dịch ném bom
không hạn chế như vậy.
Thay vào đó, Mỹ thực hiện các cuộc không
kích "ăn miếng trả miếng" để trả đũa cho một cuộc tấn công của Quân
giải phóng miền Nam (QGP) ngày 7 tháng
2 năm 1965 vào Pleiku (Chiến dịch Flaming Dart) và một vụ đánh bom tại nơi
trú quân của Mỹ tại Quy
Nhơn ngày 10 (Chiến dịch Flaming Dart II). Các
chiến dịch nhỏ được thực hiện chống lại khu vực phía Bắc giới tuyến, nơi đóng
quân của một lực lượng lớn Quân đội Nhân dân Việt Nam và tập trung nhiều kho
hàng quân dụng.
Chịu thua áp lực của Hội đồng tham mưu liên
quân và sự đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam,
Johnson chính thức cho phép một chương trình ném bom kéo dài với mật danh Rolling
Thunder (Sấm Rền), chương trình không bị ràng buộc với các hành
động công khai của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH). Sấm
Rền được lập kế hoạch là một chiến dịch không kích dài 8 tuần, tuân
theo các hạn chế mà Johnson và Bộ trưởng Quốc phòng Robert
S. McNamara đã đặt ra. Nếu phong trào nổi dậy ở miền Nam vẫn tiếp diễn
"với hỗ trợ của VNDCCH", các cuộc không kích chống VNDCCH sẽ được kéo
dài với các nỗ lực cao hơn nữa để chống lại các mục tiêu phía bắc vĩ tuyến
19."
Người ta đã tin rằng áp lực có chọn lọc do
Washington điều khiển, kết hợp với các thương lượng ngoại giao, sẽ thắng thế và
buộc Hà Nội chấm dứt gây hấn. Các
tướng lĩnh quân sự vẫn chưa hài lòng, vì khi đó chiến dịch ném bom vẫn bị giới
hạn trong các mục tiêu phía nam vĩ tuyến 19, và từng mục tiêu đều phải được
tổng thống và McNamara duyệt.
Phi vụ đầu tiên của chiến dịch mới được
thực hiện vào ngày 2 tháng
3, với mục tiêu là một khu vực kho vũ khí gần Xom Bang (???).
Cùng ngày, 19 máy bay A-1 Skyraider của Không lực Việt Nam
Cộng hòa đánh phá căn cứ hải quân Quảng
Khê. Người Mỹ đã bị sốc khi 6 máy bay của họ bị bắn hạ. 5
trong số các phi công bị bắn rơi đã được cứu thoát, nhưng đó chỉ là khởi đầu
cho những gì sắp tới.
Thuyết
phục chiến lược
Để tiếp
tục với khái niệm "từng bước", mà trong đó việc đe dọa tàn phá sẽ là
một tín hiệu mạnh về quyết tâm của Mỹ, mạnh hơn chính sự tàn phá đó, việc nên làm là
ném bom các mục tiêu không quan trọng để giữ các mục tiêu quan trọng trong tầm
"đe dọa".
Từ đầu chiến dịch Sấm
Rền, Washington chỉ thị rõ những mục tiêu nào sẽ bị đánh, ngày giờ của cuộc
tấn công, số lượng và chủng loại máy bay, khối lượng và chủng loại bom đạn sử
dụng, và đôi khi thậm chí cả hướng tấn công.
Các cuộc không kích bị cấm trong phạm vi 30
hải lý (60 km) quanh Hà Nội và trong phạm vi 10 hải lý (19 km)
cảng Hải Phòng. Một vùng đệm rộng 30 dặm cũng được kéo
dài dọc theo biên giới với Trung Quốc. Theo sử gia không quân Mỹ Earl Tilford:
Việc đặt các mục tiêu rất khác với thực tế
ở chỗ chuỗi các cuộc tấn công không hiệp đồng với nhau và các mục tiêu được
duyệt một cách ngẫu nhiên - thậm chí phi lôgic. Các sân bay của miền Bắc, cái
mà đáng ra phải được đánh đầu tiên theo bất cứ một chiến lược hợp lý nào, lại
cũng nằm ngoài phạm vi cho phép.
Bài quá dài -> phải cắt bớt
Ưu tiên
thay đổi và các cuộc đánh phá kho xăng dầu
Nếu Sấm Rền đã có nhiệm vụ
là "đánh tín hiệu" để Hà Nội từ bỏ các hành động của mình, thì nó đã
không có vẻ gì là có hiệu quả.
Ngày 8 tháng
4, đáp lại đề nghị đàm phán hòa bình, Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng tuyên bố rằng đàm phán
chỉ có thể bắt đầu sau khi Mỹ ngừng ném bom; Mỹ rút toàn bộ quân ra khỏi miền
Nam; chính phủ Sài Gòn thừa nhận các đòi hỏi của Mặt trận Dân tộc Giải
phóng Miền Nam; và các bên đồng ý rằng việc thống nhất Việt Nam sẽ được thực
hiện bởi chính người Việt Nam.
Như là một điềm gở, ngày 3 tháng
4 lực lượng Không quân Nhân dân Việt Nam đã xuất hiện lần
đầu tiên khi máy bay Mỹ bị tấn công bởi máy bay MiG-17 do Liên Xô chế tạo.
Các máy bay của hải quân
Hoa Kỳ bắn trúng tàu chở dầu viện trợ cho Bắc Việt Nam tháng 7 năm 1965
Toàn bộ nước da của nỗ lực Mỹ đã thay đổi
vào ngày 8 tháng 3 năm 1965, khi
3500 lính Thủy quân lục chiến Mỹ đổ
bộ vào bờ biển Đà Nẵng, với
mục tiêu bề ngoài là để bảo vệ các sân bay ở phía Nam dùng cho việc thực thi
chiến dịch Sấm Rền.
Nhiệm vụ của lực lượng trên bộ đã được mở
rộng thành các hoạt động chiến trận, và từ đó trở đi chiến dịch trên không trở
thành hoạt động thứ yếu, nó bị che khuất dần bởi các cuộc triển khai quân và
leo thang trong các chiến dịch trên bộ tại Nam Việt Nam.
Cho đến tuần thứ ba của tháng 4, Sấm
Rền vẫn được vị thế ngang hàng với các phi vụ không kích tại miền Nam.
Sau đó, các cuộc không kích ảnh hưởng đến yêu cầu của chiến trường miền Nam đã
bị cắt giảm hoặc hủy bỏ.
Tính đến 24
tháng 12 năm 1965, Mỹ đã
mất 170 máy bay trong chiến dịch (85 máy bay của Không quân, 94 của Hải quân,
và 1 của Thủy quân lục chiến).
Không lực Việt Nam Cộng hòa cũng mất 8 máy
bay. Các
phi đội của Không quân đã bay 25.971 lượt, thả 32.063 tấn bom.
Hải quân bay 28.168 lượt và thả 11.144 tấn
bom. Không lực Việt Nam Cộng hòa đóng góp 682 phi vụ, số bom đã thả không rõ
bao nhiêu.
Một máy bay F-105 của Mỹ
bị bắn rơi
Ngày 5 tháng
4 năm 1966, thám báo Mỹ phát hiện ra rằng VNDCCH đang xây
dựng các vị trí có thể dành cho các khẩu đội tên lửa đất-đối-không (SAM).
Không quân và Hải quân Mỹ cùng đệ trình Washington xin phép đánh phá các vị trí
trên nhưng đã bị từ chối, vì hầu hết các vị trí trên đều ở gần các khu vực đô
thị bị hạn chế.
Sự kiện ngày 24
tháng 7, khi một máy bay F-105 bị một tên
lửa SA-2 Guideline bắn rơi đã không gây ngạc
nhiên. Ba ngày sau đó, Washington đã cho phép một cuộc không kích đánh phá hai
địa điểm đặt tên lửa trên. Tuy nhiên, người Mỹ đã rơi vào một cái bẫy tinh vi
khi các địa điểm trên hóa ra lại là trận địa giả, bao quanh bởi các trận địa
pháo phòng không.
Một phi công Mỹ đã miêu tả diễn biến tiếp
sau đó "trông như thể ngày tận thế". 6
trong số các máy bay tấn công đã bị bắn rơi trong trận thua này (2 phi công
thiệt mạng, 1 mất tích, 2 bị bắt, 1 được cứu thoát).
[color=red]Bài quá dài -> phải cắt bớt[/color]
Vũ khí phòng không của
Quân đội Nhân dân Việt Nam
Bài quá dài -> phải cắt bớt
Hỗ trợ hỏa lực pháo phòng không là
các máy bay tiêm kích của Không quân Nhân dân Việt Nam, lực
lượng mà ban đầu chỉ có 53 máy bay MiG-15 và MiG-17 Fresco. Tuy
bị người Mỹ coi là quá cổ lỗ khi so sánh với các máy bay phản lực siêu thanh
của họ, Không quân Nhân dân Việt Nam đã sử dụng các chiến thuật hợp lý để biến
các điểm yếu của máy bay họ thành các thế mạnh. Các máy bay này có tốc độ đủ
cao cho các hoạt động phục kích "đánh và chạy", và cũng cơ động đủ để
gây sốc cho cộng đồng phi công chiến đấu Mỹ khi bắn hạ các máy bay F-8 Crusader và F-105 Thần sấm cao
cấp hơn nhiều. Phi công Mỹ sau đó đã phải nhanh chóng phát triển chiến thuật
mới. Máy bay F-4Con ma trang
bị tên lửa trở thành cơ sở chiến đấu chính của Mỹ.
Máy bay cường kích
F-105D của Mỹ tấn công một cây cầu ở miền Bắc Việt Nam
Chỉ riêng sự xuất hiện của máy bay MiG
thường cũng đủ hoàn thành nhiệm vụ của họ bằng cách buộc các phi công Mỹ phải
vứt bom xuống biển cho nhẹ để còn tự bảo vệ. Năm
1966, loại MiG-21Fishbed hiện đại hơn do Liên
Xô chế tạo, loại có thể chiến đấu ngang sức hơn đối với máy bay Mỹ, đã tham gia
cùng MiG-17 và MiG-19. Đến năm 1967, Không quân Nhân dân Việt Nam đã có một lực lượng
gồm 100 máy bay, nhiều chiếc trong số đó đặt tại các sân bay Trung Quốc và nằm
ngoài tầm với của các cuộc không kích của Mỹ.
Bài quá dài -> phải cắt bớt
Nguồn tài nguyên lớn nhất của miền Bắc là
nhân dân, những người dân được đốt lửa bằng nhiệt tình dân tộc. Trong năm 1965,
97.000 người đã tình nguyện làm việc cả ngày để khắc phục các thiệt hại do bom
Mỹ. Từ 370.000 đến 500.000 người khác làm việc nửa ngày.[52] Khi
đường giao thông bị đánh phá, các đoàn tàu hỏa chở hàng được chia nhỏ và chỉ
chạy đêm. Người dân tham gia vận chuyển hàng bằng thuyền, xe đạp thồ, xe ba
gác, hoặc gùi trên lưng để giữ luồng hàng ra chiến trường. Họ được cổ vũ bởi
các khẩu hiệu như "Mỗi cân hàng... là một viên đạn bắn vào đầu những tên giặc lái Mỹ."
Trường
bắn lớn nhất trên Trái Đất
Tên lửa
SAM và Wild Weasel
Do Mỹ tăng cường các cuộc không kích
vào đường Trường Sơn và miền Bắc Việt Nam,
tháng 7/1965, chính phủ Liên Xô đồng ý viện trợ hệ thống tên lửa phòng
không S-75 Dvina (Việt Nam gọi là SAM-2) đời đầu cho
Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sĩ quan Việt Nam được gửi đến Liên Xô để học về hệ
thống tên lửa phòng không SA-75 và 10 trung tâm huấn luyện của Lực lượng Phòng
không Quốc gia (PVO-Strany) được xây dựng ở miền Bắc Việt Nam, trở thành nòng
cốt của các trung đoàn tên lửa phòng không mới.
Bài quá dài -> phải cắt bớt
Không quân Mỹ đã mở Chiến dịch Iron Hand (Bàn
tay Sắt) để áp chế các hệ thống phòng không S-75 của Việt Nam. Nhận thấy được
vùng chết của radar RSNA-75 Fan Song A là không bắt được mục tiêu ở độ cao
thấp, cuộc tấn công đầu tiên của chiến dịch Iron Hand diễn ra vào ngày
27/7/1965, với phi đội 54 chiếc tiêm kích bom F-105 Thunderchief bay ở độ cao thấp tấn
công vào các trung đoàn S-75. Tuy nhiên, Việt Nam đã lường trước được điều này
nên đã di chuyển các tiểu đoàn chiến đấu đến nơi khác, thay thế các vị trí cũ
bằng các hệ thống phòng không giả và triển khai hơn 120 pháo phòng không xung
quanh khu vực ấy. Khi phi đội F-105 đến, chúng đã bị pháo phòng không đón đánh,
6 chiếc F-105 bị bắn hạ cùng với 1 chiếc máy bay trinh sát RF-101 Voodoo.
Sau khi 1 chiếc A-4
Skyhawk bị tên lửa phòng không S-75 bắn rơi vào ngày 11/8/1965,
một cuộc tấn công tương tự của Hải Quân Mỹ với chiến thuật bay thấp được thực
hiện, và Hải quân Mỹ đã mất 5 chiếc máy bay mà không một trận địa tên lửa phòng
không nào bị hạ. Quân đội Mỹ đã thử một số cách khác như chiến dịch Left Hook, họ đã
phóng máy bay không người lái BQM-34 Firebee để
thu thập tín hiệu sóng của radar RSNA-75 Fan Song A nhưng không thành công. Từ
ngày 12/8 đến ngày 14/11/1965, hơn 338 phi vụ của chiến dịch Iron Hand được
thực hiện như không thu được kết quả nào do sự cơ động, khả năng nguỵ trang
xuất sắc của các tiểu đoàn SAM-2 Việt Nam với sự bảo vệ bởi các tiểu đội pháo phòng
không dày đặc.
Bài quá dài -> phải cắt bớt
Để sống sót trong khu vực phòng không ngày
càng nguy hiểm, Mỹ đã phải áp dụng các chiến thuật mới hơn, chuyên biệt hơn.
Trong các cuộc không kích quy mô lớn, được gọi là các gói hỏa lực (force
package) của Không quân và các cuộc không kích Alpha (multi-carrier
Alpha strike) của Hải quân, nhiều máy bay hỗ trợ được cử theo để bảo vệ các
máy bay ném bom-chiến đấu. Dẫn đầu vào các vùng mục tiêu đánh phá là các phi vụ
đặc biệt Bàn tay Sắt (Iron Hand) với nhiệm vụ đánh chặn
hỏa lực phòng không. Các phi vụ này do các đội sát thủ F-105 Chồn Hoang (Wild
Weasel) được trang bị các thiết bị điện tử tinh vi để phát hiện và định vị
các chùm tia liên quan đến các radar điều khiển và việc dẫn đường cho tên lửa
SAM.
Sân bay quân sự Đa Phúc
(Nội Bài) bị ném bom trong giai đoạn 3 của Chiến dịch Sấm Rền
Đội Chồn Hoang còn mang các thiết bị phản
điện từ (electronic counter-measure) (ECM) để tự
bảo vệ. Chúng hướng dẫn các cuộc đánh phá các trận địa phòng không và mang các
tên lửa chống bức xạ (anti-radiation) AGM-45
Shrike - loại tên lửa lần ngược theo hướng bức xạ để tìm đường
đánh vào các hệ thống radar của SAM. Tên lửa SA-2 có
tầm bắn xa hơn Shrike, nhưng nếu Shrike được bắn ra khi tín hiệu radar đang ở
trong không gian thì tên lửa Mỹ sẽ lần theo tín hiệu và phá hủy radar là nguồn
của tín hiệu. Một trò chơi mèo đuổi chuột tinh vi đã xảy ra giữa các kĩ thuật
viên điều khiển radar của VNDCCH và các phi công Chồn Hoang của Mỹ. Hải quân Mỹ
cũng sử dụng máy bay trong một vai trò tương tự, nhưng nó không tạo ra các đơn
vị chuyên biệt như đội Chồn Hoang để đánh phát hiện và chống SAM.
Bài quá dài -> phải cắt bớt
MiG và
việc đánh chặn
Chiến dịch Sấm Rền đi đến
giai đoạn cuối của sự phát triển của nó trong các năm 1967 và 1968. Mục đích
chính yếu của nỗ lực Mỹ trong việc đánh phá các khu vực giao thông miền Bắc
Việt Nam đã dần dần bị biến thành việc đánh chặn dòng hàng và quân chảy vào Nam
và sự phá hủy các cơ sở hạ tầng của miền Bắc phục vụ các hoạt động quân sự.
Tuy hỏa lực phòng không tiếp tục gây ra đa
số thiệt hại về máy bay của Mỹ, các máy bay F-105 của Không quân và A-4 của Hải quân Mỹ ngày càng
chạm trán nhiều hơn với SAM và MiG. Các phi công chiến đấu của VNDCCH cũng đã
trở thành một vấn đề vì Mỹ không có thông tin radar tại vùng đồng bằng sông
Hồng, điều này cho phép các máy bay MiG gây bất ngờ đối với lực lượng đánh phá.
Máy bay trang bị hệ thống cảnh báo sớm gặp khó khăn khi phát hiện các máy bay
tiêm kích ở độ cao thấp và khó có thể nhìn thấy các máy bay này bằng mắt.[60]
Tuy F-105 đã có 27 chiến thắng trên không,
các phi công Việt Nam cũng tuyên bố đã bắn hạ 40 chiếc F-105 . Trong
trận đánh ngày 2 tháng 1 năm 1967, phi công Mỹ đã làm các phi công VNDCCH ngạc
nhiên khi họ thực thi Chiến dịch Bolo. Dùng các tín hiệu radio,
hướng tiếp cận, độ cao, và tốc độ thường dùng của các máy bay mang bom F-105,
các máy bay F-4 lừa MiG-21 tới nơi mà họ cho là các con mồi ngon. Kết quả là 7 máy
bay MiG bị bắn rơi trong vòng 12 phút.
Bài quá dài -> phải cắt bớt
Chiếc MiG-21 số hiệu
4324 (do nhiều phi công khác nhau lái) đã bắn hạ 14 máy bay Mỹ từ tháng 1/1967
đến tháng 5/1969. 6 phi công lái chiếc MiG-21 này đã được tuyên dương Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân.
Bài quá dài -> phải cắt bớt
Kết
thúc
Đến mùa xuân năm 1967, Robert McNamara và
các lãnh đạo dân sự khác trong chính quyền đã tin rằng cả Sấm Rền và
chiến tranh trên bộ tại Nam Việt Nam đều dậm chân tại chỗ.[66] Chiến dịch ném bom đã
không đạt được các mục tiêu và những người vỡ mộng đã liên tục phản đối các
khuyến nghị của Hội đồng tham mưu về việc tăng nhịp độ ném bom và nới lỏng hạn
chế mục tiêu.[67] Các
tướng lĩnh thấy mình rơi vào vũng lầy do chính mình tạo nên. Họ liên tục tuyên
bố rằng chiến dịch có hiệu quả, nhưng cũng liên tục yêu cầu thẩm quyền rộng hơn
để làm cho chiến dịch thành công.[68] Đơn giản là không thể
dung hòa được các mục đích giới hạn là kết quả của chính sách ngoại giao của Mỹ
với mục tiêu toàn thắng của giới quân sự. Bài toán hóc búa khi đó đã trở thành:
làm thế nào đánh bại Bắc Việt Nam mà không hủy diệt Bắc Việt Nam.[69]
Ngày 9 tháng
8 năm 1967, Hội
đồng quân sự thượng viện (Senate Armed Services Committee)
mở cuộc điều trần về chiến dịch ném bom. Các phàn nàn của quân đội đã khơi sự
chú ý của một vài trong số những người lớn tiếng nhất thuộc phe diều hâu tại
Capitol Hill.[70] Các chỉ huy quân đội trả
lời các chất vấn của hội đồng, phàn nàn về bản chất từng bước của cuộc không
chiến và các hạn chế do phe dân sự đặt ra. Rõ ràng, McNamara, quan chức dân sự
duy nhất ra điều trần và người cuối cùng ra trả lời chất vấn của hội đồng, đã
là vật tế thần.[71] Vị
Bộ trưởng quốc phòng đưa ra các phản đối của mình về một cuộc không chiến bừa
bãi và đã bác bỏ thành công các lời buộc tội của các chỉ huy quân sự.[72]Ông thẳng thắn thừa nhận rằng
đã "không có cơ sở nào để tin rằng một chiến dịch ném bom nào hủy
diệt Bắc Việt Nam và dân số của nó mà có thể buộc chính phủ Hồ Chí Minh khuất phục."
Bài
quá dài -> phải cắt bớt
Kết quả
Từ tháng 3 năm 1965 đến tháng 11 năm 1968,
các máy bay của Không lực Mỹ đã thực hiện 153.784 phi vụ tấn công, Không quân
và Thủy quân lục chiến bổ sung thêm 152.399 phi vụ Ngày 31
tháng 12 năm 1967, Bộ Quốc phòng Mỹ tuyên
bố rằng trong chiến dịch Sấm Rền đã có 864.000 tấn bom Mỹ ném xuống Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, so với 653.000 tấn bom trong suốt Chiến tranh Triều Tiên và 503.000 tấn bom ném
xuống mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến lần thứ 2.
Bài quá dài -> phải cắt bớt
No comments:
Post a Comment