Nhà Tiền Lý (544-602)
Nhà Tiền Lý (chữ Hán:前李朝 (Tiền Lý Triều), 544-602) là một triều đại trong lịch sử Việt Nam, gắn liền với quốc hiệu Vạn Xuân. Nhà Tiền Lý kéo dài 58 năm, tổng cộng 3 đời vua,
trong đó có 2 vua họ Lý và 1 vua họ Triệu cũng được tính gộp vào nhà Tiền Lý,
tương tự như Dương Tam Kha trong nhà Ngô sau đó.
Lý Nam Đế dựng nước Vạn Xuân
Tiểu sử:
Lý Bí (503-548) là
người Thái Bình, phủ Long Hưng (Sơn Tây). Ông là người có công đánh đuổi quân
đô hộ nhà Lương (thời Nam Bắc triều), sáng lập ra nhà Tiền Lý. Ông cũng có một người anh là Lý Thiên Bảo.
Một trong số tổ
tiên của Lý Bí là người Trung Quốc, cuối thời Tây Hán
khổ về việc đánh dẹp, mới tránh sang ở đất phương Nam, được 7 đời thì thành
người Nam. Sử chép Lý Bí vốn con nhà hào trưởng, thiên tư lỗi lạc, do làm quan
không được vừa ý nên cáo quan về quê, tập hợp nhân tài lo khởi nghĩa.
Nhà Lương bên tàu:
Nhà Lương (tiếng Trung: 梁朝; bính âm: Liáng cháo) (502-557), còn gọi là nhà Nam Lương (南梁), là triều đại thứ ba của Nam triều trong thời kỳ
Nam-Bắc
triều ở Trung Quốc, sau thời kỳ của triều đại Nam Tề và trước thời kỳ của triều đại Trần. Kinh đô đặt tại Kiến Khang (nay là Nam Kinh).
Lương
Đông Ngụy
Tây Ngụy.
Thổ Dục Hồn.
Nhu Nhiên.
Đất nước thời Lý Nam Đế:
Lý Nam Đế
李南帝
李南帝
Tranh sơn dầu
trên gỗ thế kỷ 18 thời Lê trung hưng, vẽ Lý Nam Đế
Thông tin chung
Húy: Lý Bí hoặc Lý Bôn (李賁)
Niên hiệu: Thiên Đức (天徳)
Thụy hiệu: Nam Đế (南帝)
Thân phụ: Lý Cạnh hay Lý Toản
Thân mẫu: Lê Thị Oánh
Sinh: 17 tháng 10, 503
Lý Nam Đế (chữ Hán: 李南帝; 503–548), húy là Lý Bí hoặc Lý Bôn
(李賁) (xem mục Tên gọi bên dưới), là
vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lý và nước Vạn
Xuân.
Tên Nước qua thời gian:
40–43: Lĩnh Nam
43–203: Giao
Chỉ
203–544: Giao
Châu
544–602: Vạn Xuân
602–679: Giao
Châu
679–757: An Nam
757–766: Trấn Nam
766–866: An Nam
866–967: Tĩnh Hải quân
968–1054: Đại Cồ Việt
1054–1400: Đại Việt
1400–1407: Đại
Ngu
1407–1427: Giao
Chỉ
1428–1804: Đại Việt
1804–1839: Việt
Nam
1839–1887: Đại
Nam
Từ 1945: Việt
Nam
Khởi nghĩa chống quân Lương năm 542 – 544
Năm
542, Lý Bí khởi nghĩa chống giặc
nhà Lương bấy giờ đang đô hộ nước ta.
Chưa đầy 3 tháng, Lý Bí đã chiếm được hầu hết các
quận, huyện quan trọng và thành Long Biên. Các cuộc phản công sau đó của nhà
Lương đều bị ông đánh bại.
Năm 543, quân Lương sang xâm lược lần nữa nhưng đã bị ông phục
kích đánh bại tại bán đảo Hợp Phố, phía bắc Giao Châu.
Hình thành:
Năm 544, Lý Bí lên ngôi vua, tự xưng là Lý Nam Đế, đặt tên
nước là Vạn Xuân (với hy vọng đất nước yên bình muôn đời). Đóng đô tại
cửa sông Tô Lịch (Hà Nội ngày nay) và cho dựng điện Vạn Thọ.
Triều đình gồm hai ban văn võ, trong số các quan võ có Triệu
Quang Phục là một vị tướng trẻ và có tài nên được trọng dụng.
Sụp đổ:
Năm 545, quân Lương một lần nữa sang xâm lược, lần này chúng
quyết tâm chiếm lấy nước ta cho được.
Sau nhiều cuộc tấn công và phản kích của cả hai bên, người ngựa đều
đã mệt mỏi. Tuy nhiên, với sự gian xảo của mình, tướng giặc đã đánh úp Lý Nam
Đế khiến ông phải lui vào động Khuất Lão.
Tại đây, ông bị đau yếu và truyền lại binh quyền cho Triệu Quang
Phục.
Ngày 13 - 4 - 548, Lý Nam Đế mất.
TRIỆU VIỆT VƯƠNG (TRIỆU QUANG PHỤC)
Triệu
Việt Vương
趙越王
Thông
tin chung
Tên
húy: Triệu Quang Phục (趙光復)
Tước
hiệu: Dạ Trạch Vương (夜澤王)
Hình thành:
Sau khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục xưng vương và lấy hiệu
là Triệu Việt Vương, kéo quân về đóng tại Dạ Trạch (Hưng Yên ngày
nay). Dân gian còn gọi ông là Dạ Trạch vương.
Triệu Việt
Vương tên thật là Triệu Quang Phục, trị vì đất nước từ năm 548 đến năm 571. Triệu
Quang Phục sinh ra trong một gia đình đời đời làm hào trưởng vùng đất Chu Diên.
Năm 542, Triệu Quang Phục theo cha là Triệu Túc đem quân tham gia cuộc khởi
nghĩa của Lý Bí. Sau khi cuộc khởi nghĩa thắng lợi Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế lập
ra nước Vạn Xuân, Triệu Quang Phục được trao chức Tả tướng quân.
Nước Vạn Xuân của Lý Bí chỉ được tương đối
yên bình một năm thì vào mùa hè năm 545, quân Lương lại phát động cuộc phản
công chinh phục. Nhà Lương phong Dương Phiêu làm Thứ sử Giao Châu, Trần Bá Tiên
làm Tư mã, huy động một lực lượng lớn quyết tiêu diệt nhà nước Vạn Xuân non
trẻ. Trước sức mạnh của quân Lương, cuộc kháng chiến của vua Lý Nam Đế liên tục
gặp bất lợi. Lý Bí phải rút lui về vùng động Khuất Lão, trao quyền cho vị tướng
trẻ, tài năng là Triệu Quang Phục tiếp tục nhận sứ mệnh lãnh đạo cuộc kháng
chiến.
Dưới sự lãnh đạo của Triệu Quang Phục, quân
đội của nhà nước Vạn Xuân lui về xây dựng căn cứ mới ở Dạ Trạch (bãi Màn Trò,
huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên). Quân của Triệu Quang Phục sử dụng lối du
kích, dựa vào địa hình thiên nhiên, tổ chức các cuộc tập kích bất ngờ vào các
doanh trại và các cuộc hành binh của quân Lương. Lối đánh hiệu quả này đã làm
thay đổi dần tương quan lực lượng giữa ta và địch.
Năm 548,
Lý Bí mất tại động Khuất Lão. Triệu Quang Phục xưng vương (gọi là Triệu Việt
Vương), tiếp tuc sự nghiệp dựng nước và giữ nước của Lý Nam Đế. Qua bốn năm chiến
đấu (547 – 550), quân của Triệu Quang Phục càng đánh càng mạnh, quân Lương càng
đánh càng yếu, cục diện chiến tranh ngày càng có lợi cho ta, bất lợi cho địch.
Chống giặc Lương năm 545 – 550
Đại Việt sử
ký toàn thư ghi: “Vua tung quân ra đánh. Sàng sàn chống cự, thua chết. Quân Lương tan vỡ chạy
về Bắc. Nước ta được yên. Vua vào thành Long Biên ở. Như thế chỉ trong vòng 8 năm
(542 – 550) Lý Bí, Triệu Quang Phục đã hai lần đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi
bờ cõi, giành lại quyền tự chủ trên toàn đất nước. Nhà nước Vạn Xuân trải qua
những năm tháng gian nan nhất, tưởng như bị tiêu diệt hoàn toàn, lại được độc lập
và có điều kiện tiếp tục dựng xây.
Xung đột với người nhà họ Lý:
Khi Lý Nam Đế thất trận, người anh của ông là Lý Thiên Bảo
và Lý Phật Tử đã bỏ chạy thoát thân sang Lào, trốn trong động Dã Năng và
xưng vương ở đó.
Đến năm 547, Lý Phật Tử kéo quân về nước với cớ đòi lại
ngôi của nhà Tiền Lý. Triệu Việt Vương nghĩ tình nên chia đất còn gả con gái
mình cho con của Lý Phật Tử.
Năm 571,
Lý Phật Tử phản trắc, đem quân đánh Triệu Việt Vương khiến ông phải gieo mình
xuống biển tự vẫn.
Lý Thiên Bảo:
Lý Thiên Bảo (chữ
Hán:李天寶;
499?-555) vua nước Dã Năng (tồn tại phía tây với nhà Tiền Lý) trong lịch sử Việt Nam. Ông tham gia cuộc chiến chống quân
Lương giữ nước Vạn Xuân và cát cứ ở Dã Năng thời Triệu Việt Vương.
Lý Thiên Bảo là anh trai của vua Lý Nam Đế. Năm 546, Lý Nam Đế phản công quân Lương ở hồ Điển Triệt bị Trần Bá Tiên đánh bại. Lý Nam Đế rút về động Khuất
Lạo. Lý Thiên Bảo và viên tướng cùng họ là Lý Phật Tử mang 3 vạn quân[1] vào đánh Đức châu (Nghệ An),
giết chết thứ sử nhà Lương là Trần Văn Giới.Trần Bá Tiên mang quân vào đuổi theo đánh, Lý Thiên Bảo và Lý Phật Tử thua trận, bèn thu nhặt quân còn sót được vạn người chạy sang đất người Di Lạo ở Ai Lao. Thấy động Dã Năng[2] ở đầu nguôn Đào Giang, đất phẳng rộng màu mỡ có thể ở được, mới đắp thành để ở, nhân tên đất ấy mà đặt quốc hiệu là Dã Năng.
Lý Nam Đế mất ở Khuất Lạo trao lại binh quyền cho tướng Triệu Quang Phục. Trong khi Triệu Quang Phục cầm binh chống Trần Bá Tiên, Lý Thiên Bảo cố thủ ở Dã Năng thuộc Ai Lao. Năm 550, ông được nhân dân trong vùng tôn làm chúa, tự xưng là Đào Lang Vương (桃郎王)[1].
Năm 555, Đào Lang Vương mất ở động Dã Năng không có con nối. Mọi người bèn suy tôn Lý Phật Tử lên nối ngôi, thống lĩnh quân chúng.
Lý Thiên Bảo làm chúa Dã Năng được 6 năm. Ông được phụ chép trong Kỷ Triệu Việt vương trong Đại Việt sử ký toàn thư. Sau này Lý Phật Tử trở về Vạn Xuân giành ngôi của Triệu Việt Vương.
HẬU LÝ NAM ĐẾ (571 - 602)
Sau khi thắng trận, Lý Phật Tử xưng đế và đóng đô tại Phong
Châu.
Năm 602,
nhà Tùy đem quân đánh nước ta lần nước, Lý Phật Tử hoảng sợ đầu hàng. Thế là nước
ta một lần nữa bị chiếm và rơi vào thời kỳ Bắc thuộc lần 3.
No comments:
Post a Comment