Nhà Lê trung
hưng (chữ Hán: 中興黎朝, 1533–1789) là giai
đoạn tiếp theo của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (tiếp nối nhà Lê Sơ) trong lịch sử phong kiến Việt Nam, được thành lập sau khi Lê Trang Tông với sự phò tá của cựu thần nhà Lê sơ là Nguyễn Kim được đưa lên ngôi báu. Đây là triều đại dài nhất so với
các triều đại trong lịch sử Việt Nam với 256 năm và đây cũng là thời kỳ lãnh thổ Việt Nam được mở rộng nhiều lần nhất.
Bối cảnh
Từ thời Lê Uy Mục và Lê Tương Dực, chính sự nhà Hậu Lê bắt đầu suy. Các cuộc
khởi nghĩa nông dân và sự tranh chấp quyền lực trong nội bộ khiến nhà Lê
nghiêng ngả.
Năm 1516, giữa lúc đang đối phó với lực lượng khởi
nghĩa của Trần
Cảo sắp đánh vào
kinh thành thì trong cung đình nhà Lê xảy ra phế lập. Đại thần Trịnh Duy Sản giết chết vua Lê Tương Dực và lập vua mới Lê Chiêu Tông, mang xa giá vào Thanh Hóa.
Sau khi Trần Cảo bị đánh bật khỏi kinh thành Thăng Long, các quyền thần Trịnh Tuy, Nguyễn Hoằng Dụ, Trần Chân chia
bè phái đánh lẫn nhau. Tình hình tạm yên, Trần Chân trở thành người nắm binh
quyền. Vua Chiêu Tông bất bình với quyền hành của Trần Chân bèn giết chết Trần
Chân. Các thủ hạ của Trần Chân là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng khởi binh báo thù cho chủ.
Tháng 9 năm 1518, Trịnh Tuy và văn thần Nguyễn Sư lập một tông thất có họ xa với Chiêu Tông là Lê Do làm vua tranh thủ được sự ủng hộ của
Nguyễn Kính.
Chiêu Tông phải dựa vào võ tướng Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương về cứu. Đăng
Dung một mình cầm quân dẹp loạn và dần dần trở thành quyền thần mới.
Tháng 7 năm 1519, Đăng Dung dẹp được
Lê Do, bắt giết Do và Nguyễn Sư. Trịnh Tuy bỏ chạy vào Thanh Hoá, Nguyễn Kính
đầu hàng. Năm 1521, Mạc Đăng Dung dẹp được Trần Cung (con Trần Cảo), quyền thế át cả Chiêu
Tông. Năm 1522, Chiêu Tông chạy ra ngoài gọi quân Cần vương. Đăng Dung bèn lập
em Chiêu Tông là Xuân lên ngôi, tức là Lê Cung Hoàng, tuyên bố phế truất Chiêu Tông.
Vua Chiêu Tông được một số đại thần ủng hộ, dàn quân đánh nhau
với Đăng Dung. Nhưng sau đó các tướng cần vương bất hòa, chia rẽ và lần lượt bị
Mạc Đăng Dung đánh bại.
Nhà Lê sơ truyền đúng 100 năm và mất chỉ 30 năm
sau cái chết của vua Lê Thánh Tông.
Trong cuộc chiến với nhà Mạc
Sau khi nhà Mạc thành lập, một số đại thần nhà Lê không thần
phục, muốn khôi phục lại nhà Lê. Anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang sang Trung Quốc cầu viện nhà Minh nhưng nhà Minh không đáp ứng. Hai anh em chết già ở Trung
Quốc. Năm 1529, tông thất nhà Lê là Lê Ý khởi binh chống Mạc nhưng không lâu
sau bị dẹp tan.
Con vua Chiêu Tông
Từ năm 1529, một tướng của nhà Lê sơ là Nguyễn Kim chạy vào vùng núi Thanh Hóa rồi sang Ai Lao chống nhà Mạc.
Đến năm 1533, Kim tìm được con vua Chiêu Tông là Duy Ninh đưa lên ngôi tại Ai Lao, tức là vua Lê Trang Tông.
Các sử gia nghi ngờ tính xác thực của việc Ninh là con vua Chiêu
Tông vì cha con chênh nhau quá ít tuổi. Nhà Mạc, trong biểu tâu nhà Minh còn
nói Kim dựng con mình lên ngôi, xưng bừa là con vua Chiêu Tông.
Dù sao, việc vua Lê được lập lại khiến một bộ phận nhân dân, sĩ
phu theo về vì thiên hạ còn nhớ nhà Lê. Nguyễn Kim mang quân về nước đánh chiếm
Thanh Hoá.
Từ đó sử gọi nhà Mạc là Bắc triều và nhà Lê Trung Hưng là Nam
triều.
Dòng dõi Lê Trừ
Năm 1545, Nguyễn Kim bị sát hại, con trai cả Nguyễn Uông lên thay, Nguyễn Uông
bị em rể là Trịnh Kiểm hại rồi chiếm chức.
Năm 1548 vua Trang Tông mất, con là Trung Tông
lên thay. Được 8 năm Trung Tông mất không con nối, Trịnh Kiểm tìm một người
tông thất là dòng dõi Lê Trừ (anh Thái Tổ) lên ngôi, tức là Lê Anh Tông.
Nghi vệ
xa giá vua Lê. Tranh vẽ Thế kỷ XVIII
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, hai con Trịnh Cối, Trịnh Tùng tranh ngôi. Con lớn là Cối yếu thế sang hàng Mạc. Vua Anh
Tông muốn giành lại quyền lực từ tay Tùng nên mâu thuẫn với Tùng, chạy đi nơi
khác. Tùng lập con út của vua lên ngôi, tức là Lê Thế Tông và lùng bắt cha con
vua mang về giết chết.
Việc triều chính từ đó hoàn toàn do họ Trịnh quyết định không
cần hỏi vua Lê (xem chi tiết bài Chúa Trịnh). Chiến tranh Lê-Mạc là trên danh nghĩa, thực ra là chiến
tranh Trịnh-Mạc.
Giai đoạn thống nhất không toàn vẹn và ngắn ngủi
Sau khi Trịnh Tùng chiếm được Thăng Long (1592) và giết cha
con Mạc Mậu Hợp, năm 1593, Lê Thế Tông được rước về Thăng Long.
Nhưng lúc đó thế lực họ Mạc vẫn rất mạnh ở bên kia sông Hồng, thường tập hợp tấn công trở lại. Vì vậy Trịnh Tùng vài lần
phải rước vua Thế Tông trở về căn cứ Thanh Hóa.
Vài năm sau, thế lực họ Mạc suy yếu hẳn, chỉ có ảnh hưởng quanh
khu vực Cao Bằng, Thái Nguyên, vua Lê lại được đưa trở về Thăng Long.
Do họ Mạc từng được nhà Minh nhận hàng (năm 1540 khi Mạc Đăng Dung lên biên giới xin quy phục) và khi thất
thế chạy sang Trung Quốc báo với nhà Minh, vua Minh chưa công nhận nhà Lê trung
hưng ngay.
Một họa phẩm được in trong cuốn An Nam lai uy đồ
sách: Người đứng
trong chính điện là sứ thần triều Minh, người chắp tay chào là Thái thượng hoàng Mạc Đăng Dung (dòng chữ: Ngụy vương Mạc
Đăng Dung / 偽王莫登庸); địa điểm này là trấn Nam Quan, năm 1540.
Tháng 3 năm 1597, nhà Minh sai ủy quan là Vương Kiến Lập đến trấn Nam Giao đòi lễ
cống và hội khám (diễu binh).
Ngày 28 tháng 3 vua Lê Thế Tông thân đốc hữu tướng Hoàng Đình Ái, thái úy Nguyễn Hoàng, Nguyễn Hữu Liêu cùng tả hữu đô đốc 7, 8 viên, voi và 5
vạn quân đến trấn Nam Giao đề phòng khi mở cửa quan, hội khám quân Minh tràn
sang giúp phía Mạc lưu vong bắt vua, hiếp tướng. Hoàng Đình Ái đề nghị
với Trịnh Tùng được tùy nghi đối phó, Trịnh Tùng đồng
ý.
Tại cửa ải Nam Quan, ủy quan Vương Kiến Lập cùng tàn quân Mạc trông thấy quân Lê
đông đúc, binh tướng hùng mạnh, phải lẳng lặng từ bỏ những ý đồ đánh chiếm.
Cuộc hội khám cử hành đúng nghi lễ, từ đó nhà Minh phải công nhận nhà Lê, nhưng vẫn can thiệp để họ Mạc được giữ đất Cao Bằng tới gần 80 năm nữa.
Các chúa Bầu họ Vũ ở Tuyên Quang, vốn ủng hộ nhà Lê trung hưng khi nhà Mạc còn ở Thăng Long, từ khi nhà Lê trở lại Thăng Long lại ly
khai, tiếp tục cát cứ và liên kết với họ Mạc chống nhà Lê. Họ Vũ còn chiếm giữ
Tuyên Quang thêm 100 năm sau mới bị dẹp hẳn.
Vì vậy từ khi nhà Lê trở lại Thăng Long, tuy trên danh nghĩa đã thống nhất Đại Việt, nhưng riêng tại Bắc Bộ bị cắt hai vùng Tuyên Quang, Cao Bằng do
họ Vũ và Mạc chiếm đóng. Ngoài ra, một nguy cơ chia cắt mới tiềm ẩn ở phía nam,
do công thần họ Nguyễn mâu thuẫn với công thần họ Trịnh và ngấm ngầm ý định ly
khai.
Trong thời chia cắt với họ Nguyễn
Xung đột 2 họ nhân danh
"phù Lê"
Ngôi vua nhà Lê trung hưng vốn do tướng Nguyễn Kim dựng lại. Nguyễn Kim chết (1545), con rể là Trịnh Kiểm nắm quyền, từ đó họ Trịnh đóng vai trò
phụ chính. Con thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng, sau khi thấy anh cả là Nguyễn Uông bị Trịnh
Kiểm hại, bèn xin vào nam trấn thủ Thuận Hóa (1558) rồi Quảng Nam (1570). Vì họ Trịnh phải tập trung vào cuộc chiến
với nhà Mạc phía bắc nên Nguyễn Hoàng được kiêm quản hai vùng đất rộng lớn.
Nhà Mạc bị diệt (1592), Trịnh Tùng bèn tính
tới việc thanh trừng Nguyễn Hoàng, nên triệu tập ra bắc nhân danh cùng dẹp dư
đảng họ Mạc. Sau một số trận đánh chống họ Mạc, Nguyễn Hoàng bỏ trốn về nam (1600). Năm 1613, con Nguyễn Hoàng
là Nguyễn Phúc Nguyên lên thay trấn thủ Thuận - Quảng, bắt đầu
thực hiện ý định ly khai.
Tranh vẽ Thế tử Nguyễn Phúc Nguyên khi còn đang tại nhiệm
Trấn thủ Quảng Nam
Năm 1627, với lý do Nguyễn Phúc Nguyên có hành động
chống đối, bỏ cống nạp nhiều năm, Trịnh Tráng nhân danh Lê Thần Tông mang quân nam tiến.
Họ Nguyễn cũng nhân danh "phù Lê" chống họ Trịnh lộng
quyền lấn át vua, chiêu binh dựng lũy, đúc súng ống chống lại.
Từ năm 1627 đến 1672, hai họ đánh nhau 7
lần, trong đó 6 lần họ Trịnh đánh vào nam, 1 lần họ Nguyễn đánh ra bắc.
Để có chính danh, các chúa Trịnh từng rước vua Lê đi thân chinh. Sau 7 lần xung đột bất
phân thắng bại, hai họ ngưng chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới.
Phía bắc sông Gianh thuộc chính quyền vua Lê chúa Trịnh gọi
là Đàng Ngoài, phía nam sông Gianh thuộc chúa Nguyễn gọi
là Đàng Trong.
Bề ngoài, họ Nguyễn cũng tôn phù nhà Lê, nhưng trên thực tế đã
biến lãnh thổ Đàng Trongthành một vùng cai trị độc lập, có thể chế riêng về mọi mặt.
Khoanh tay rủ áo
Tranh
vẽ xa giá vua Lê xuất cung, thế kỷ XVII của Tavernier, người chưa bao giờ đặt
chân tới Đàng Ngoài. Nhiều thông tin trong sách của ông sai lệch và đã bị các
nhà du hành khác phê phán ngay từ cuối thế kỷ XVII như Samuel Baron, John
Pinkerton và William Dampier[4]
Một
chiếc đỉnh bằng gốm trang trí đắp nổi rồng và nghê được làm vào năm 1736 (thời
Cảnh Hưng) tại làng Bát Tràng.
Tượng
hổ bằng gốm làm tại làng Bát Tràng thời Cảnh Hưng.
Tranh
vẽ cảnh vua Lê thiết triều của Samuel Baron - thời Lê Trung Hưng thế kỷ XVII.
Nắm quyền chi phối triều chính và chỉ huy quân đội, họ Trịnh nắm
thực quyền thời Lê trung hưng. Mọi chính sách từ ngoại giao, kinh tế, xã hội,
giáo dục, văn hóa đều do họ Trịnh quyết định. Từ năm 1600, với công lao đánh
bại nhà Mạc phục hưng nhà Lê, Trịnh Tùng chính thức xác lập địa vị là "Chúa", lập phủ
riêng. Họ Trịnh được hưởng thế tập ngôi chúa.
Từ đây họ Trịnh lập ra hệ thống tổ chức chính quyền ở phủ chúa
tương ứng với chính quyền có sẵn bên cung vua, ngoài cung vua phía đông còn có
phủ chúa ở phía tây.
Chính thể Đàng Ngoài do đó được gọi là chính quyền "vua
Lê chúa Trịnh", đây là thời kỳ duy nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam
có sự điều hành của quyền thần được thế tập, truyền nối nhiều đời.
Trịnh Tùng bãi bỏ chức Tả, Hữu thừa tướng và Bình
chương của thời trước, đặt ra chức Tham tụng làm
việc Tể tướng. Quyền lực của Tham tụng rất lớn, đều do chúa Trịnh tiến cử từ các viên Thượng thư (tương
đương với Bộ trưởng) hoặc Thị lang lên.
Năm 1601, Trịnh Tùng đặt thêm chức Bồi tụng đảm
đương trọng trách trong phủ Chúa. Dưới Tham tụng và Bồi tụng, chúa Trịnh đặt
thêm các Phiên, tương đương với các Bộ bên cung vua.
Đến các đời chúa Trịnh sau hoàn chỉnh bộ máy với việc lập
ra Ngũ phủ (ban võ) và Phủ liêu(Ban văn) cùng các
cơ quan giúp việc (Lục phiên). Đó là quá trình thâu tóm quyền hành từ cung vua
về phủ chúa. Triều đình vua Lê cuối cùng chỉ còn vài chức quan hư hàm làm nhiệm
vụ nghi thức. Về danh nghĩa, chúa Trịnh chỉ xưng vương và đứng đầu Ngũ phủ, Phủ liêu nhưng trên
thực tế lại nắm hết quyền điều hành việc nước.
Sau cái chết của vua Anh Tông, cháu vua là Lê Kính Tông (Duy Tân - con vua Thế Tông) cũng có ý
định chống Trịnh Tùng và cũng bị thắt cổ năm 1619.
Kể từ đó các vua Lê hoàn toàn "khoanh tay rủ áo", như
cách nói của các sử gia đương thời, đối với chính sự. Mọi công việc từ trị sự
đến quân sự đều do chúa Trịnh đảm đương.
Vì vậy, mọi thành tựu, sự kiện, từ quân sự đến xã hội, thịnh trị
hay rối ren, đều do tay họ Trịnh. Các chúa Trịnh đều là những người giỏi cai
trị và ngoại giao nên tình hình Bắc Hà - khi họ Nguyễn đã cát cứ trong Nam -
nhìn chung ổn định. Chẳng những việc chính sự mà ngay cả chuyện vợ con của các
vua Lê cũng do các chúa Trịnh sắp đặt. Phần nhiều vợ các vua Lê là con gái họ
Trịnh để ràng buộc.
Sau Kính Tông, trong một thời kỳ dài không có vua Lê nào chống
đối họ Trịnh. Tuy nhiên, các tông thất không phải hoàn toàn chịu mất quyền,
điển hình là Lê Duy Mật và thái tử Duy Vĩ. Lê Duy Mật định làm binh biến ở Thăng
Long lật đổ họ Trịnh nhưng không thành nên trốn ra ngoài khởi nghĩa, cát cứ ở
Trấn Ninh 30 năm trời.
Thái tử Duy Vĩ (con vua Hiển Tông) cũng muốn khôi phục quyền cho
nhà Lê nhưng bị chúa Trịnh Sâm giết năm 1771.
Các vua Chân Tông, Huyền Tông, Gia Tông đều là vua thiếu niên và mất sớm. Các vua Thế Tông, Thần Tông, Dụ Tông, Hy Tông, Thuần Tông và nhất là Hiển Tông (Cảnh Hưng) sau này là những ông vua
"khoanh tay rủ áo" như vậy.
"Trời sai nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng
cái vui. Mất chúa, tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì".
Câu nói đó phản ánh tư tưởng an phận giữ mình của các vua Lê.
Nhà Lê trung hưng kết thúc
Sau khi Hiển Tông mất, đúng lúc Tây Sơn rút về nam. Cháu vua là
Duy Kỳ (con Duy Vĩ) lên thay, tức là vua Chiêu Thống. Được tác động của anh em
Tây Sơn, vua Lê muốn khôi phục lại địa vị cũ, báo thù cho cha, nên khi họ Trịnh
ngóc đầu trở lại, lập tức Chiêu Thống gọi tướng giỏi nhất Bắc Hà lúc đó
là Nguyễn Hữu Chỉnh ở Nghệ An ra cứu. Chỉnh đánh tan quân Trịnh, đuổi Trịnh Bồng đi mất tích. Nhưng sau đó vua Lê lại bị
Chỉnh lộng quyền. Tây Sơn kéo ra giết Chỉnh, rồi tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm cũng mưu đồ cát cứ. Chiêu Thống phải bỏ
đi lưu vong.
Bản ý của Nguyễn Huệ vẫn muốn tôn phò nhà Lê, nhưng Chiêu Thống
lại không muốn sống chung với Tây Sơn nên sang cầu viện nhà Thanh (1788). Nhà Thanh phát binh đánh Đại Việt. Trước tình thế
đó, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, tức là vua Quang Trung mang quân đánh tan quân Thanh (1789),
Chiêu Thống bỏ chạy theo về Trung Quốc.
Dù sau đó Lê Duy Kỳ cố xin viện binh lần nữa nhưng bằng chính
sách ngoại giao khéo léo, nhà Tây Sơn đã tránh được cuộc đụng đầu khác với nhà
Thanh. Vua Thanh không phát binh nữa, phân tán các bầy tôi nhà Lê, tách khỏi
Duy Kỳ để cô lập dần.
Nhà Hậu Lê chính thức mất năm 1789, trước sau tồn tại 355 năm,
chỉ có 6 năm gián đoạn, là triều đại phong kiến dài nhất trong lịch sử Việt Nam (không tính Hồng Bàng).
Nhận định
Sau khi nhà Lê sơ bị nhà Mạc cướp ngôi, vấn đề chính thống và
ngụy triều nổ ra trong cuộc đấu tranh giữa các tập đoàn và khi thế nam - bắc
này chưa chấm dứt hẳn thì thế nam - bắc khác lại hình thành. Cũng như
thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc, khi nhà Hán suy, các chư hầu nổi dậy đều lấy danh nghĩa giúp nhà Hán;
tại nước Đại Việt khi đó cả Trịnh và Nguyễn đều danh nghĩa chống Mạc để giúp
nhà Lê.
Các vua Lê vẫn có ngôi, có hiệu, có tên trong sử sách, nhưng chỉ
ngồi làm vì. Trịnh và Nguyễn cùng giương cờ "Phù Lê diệt Mạc", Tây
Sơn giương cờ "Phù Lê diệt Trịnh". Giáo sư sử học Văn Tạo trong tạp
chí "Nghiên cứu lịch sử" có bài viết "Nhà Mạc và vấn đề ngụy
triều", trong đó nêu rõ:
Mạc là ngụy công khai, Trịnh và Nguyễn là ngụy giấu mặt.
Việc vua Chiêu Thống đã lên ngôi thay vua Cảnh Hưng năm 1786
nhưng Nguyễn Ánh, với danh nghĩa "phò Lê", song vẫn
nhất định dùng niên hiệu Cảnh Hưng đến tận năm 1801 đủ cho thấy trong lòng Ánh
có nhà Lê hay không.
Việc Nguyễn Ánh gửi gạo ra bắc giúp quân Thanh thực ra là muốn
thêm người đánh Tây Sơn chứ không thực bụng giúp nhà Lê. Nói tóm lại nhà Lê là
chính thống trong thời điểm đó nhưng bị các thế lực phong kiến khác chi phối.
Về nguyên nhân sụp đổ của nhà Lê là do Lê Chiêu Thống cầu viện quân Thanh khiến lòng người dân
bấy giờ chán ghét hơn trước và sụp đổ là lẽ tất yếu của lịch sử, dù cho sau này
nhiều thế lực khác nổi dậy đòi khôi phục nhà Lê cũng đều thất bại.
Các
vua nhà Lê trung hưng
Chính
trị (1558-1571)
Hồng
Phúc (1572-1573)
Khánh Tuy Phúc Huệ Hoằng
Định (1601-1619)
Đức
Long (1629-1634) Ngọc
Dương
Hoà (1634-1643) Lăng
Thịnh
Đức (1653-1657)
Vĩnh
Thọ (1658-1661)
Vạn
Khánh (1662) Quần
Ngọc Lăng
Thông Cương Nghị Quả
Thịnh Lăng
Trung Chính Ôn Nhu
Hoà Lạc Khâm Minh Văn
Tứ Doãn Cung Khắc
Nhượng
Mục hoàng đế
Anh
Quả Huy Nhu Đức
Nguyên (1674-1675)
Phúc
An Lăng
Đôn
Khoát Khoan Dụ (Lê Duy Hiệp) Chính Hoà (1680-1705)
Vĩ
Độ Huy Cung Phú
Lăng
Chương
hoàng đế
Ôn Giản Từ Tường Bảo Thái
(1720-1729)
Khoan Huệ Tôn Mẫu Cổ Đô
Lăng,
Hòa hoàng đế sau
chuyển sang
Kim
Thạch Lăng
Nhu Tốn Cẩn Khác
Trần Tiềm Giản hoàng đế
Khải Túy Minh Mẫn (Lê Duy Chấn)
Khoan Hồng Uyên Duệ
Huy hoàng đế
(Lê
Duy Kỳ)
Các vua được truy tôn
No comments:
Post a Comment