Monday, December 31, 2018

Xá tội vong nhân

http://chinhhoiuc.blogspot.com/2018/11/xa-toi-vong-nhan.html
Thứ Tư, 21 tháng 11, 2018

Xá tội vong nhân

* Đây là bài viết được sáng tác khi tôi đi “học tập cải tạo” trở về. Thế cho nên, giọng văn cũng như câu chữ trong bài có mang hơi hướng của một người đã từng trải qua một sự “đổi đời” giữa hai chế độ chính trị tại Việt Nam nói chung và Miền Nam nói riêng. Rất tình cờ, tôi tìm lại được bản thào 6 trang giấy đánh máy đã tàn úa vì thời gian. Tôi đã bỏ thì giờ để đánh lại trên máy vi tính… và đây là một bài viết tưởng chừng như đã đi vào quên lãng.

***



Rằm tháng bảy, ngày Xá tội vong nhân.

Hôm nay là buổi họp mặt hàng năm của những “Người-Đã-Chết”. Tùy theo tín ngưỡng của mình, bạn có nhiều ngôn từ để gọi tên họ: những cô hồn, những linh hồn, những bóng ma và cũng có thể là hư vô, là một cái gì đó không tên sau khi đã biến mất trên mặt đất. Họ thuộc thành phần chung chung, chưa đủ xấu để bị đầy xuống cái thế giới đáng sợ mà con người gọi là Địa Ngục, và cũng chưa đủ tốt để được chuyển lên nơi mà con người hằng mơ ước: Thiên đường.

Sở dĩ có buổi họp mặt hôm nay là để những “Người-Đã-Chết” có một ý niệm tổng quát về cái thế giới mà họ đã ra đi và đã quên hết vì “Bát Cháo Lú” đầu tiên và cuối cùng đã nuôi sống họ trong suốt giai đoạn chờ đợi được phân bổ về một trong ba nơi: Thiên Đường, Địa Ngục và Trái Đất. Tất cả những “Người-Đã-Chết” đều trong trắng: không màu da, không chính kiến, không yêu thương-hờn giận và cũng không tham lam-bạo tàn. Tắt một lời, họ “Không” tất cả những cái “Có” đang chi phối đời sống con người trên trái đất.

Trong buổi họp mặt hôm nay, họ sẽ được giải đáp thỏa đáng mọi thắc mắc để chuẩn bị “Làm Người”. Có thể bạn sẽ gặp nhiều câu hỏi thật ngây ngô, nhưng như đã nói ở trên, những “Người-Đã-Chết” đều trong trắng, hóa ra nều đánh giá họ ‘ngây ngô’ chỉ vì ta đã nhìn họ qua con mắt trần tục, đầy thành kiến của con người.

Buổi họp đặt ra để được thuyết trình về trái đất gồm những câu hỏi do những “Người-Đã-Chết” đặt ra. Cũng cần nói thêm, sở dĩ họ thắc mắc vì trong mẫu “Đơn Làm Người” được phát có quá nhiều chi tiết đòi hỏi phải điền đầy đủ theo thủ tục trước khi trở lại với “Thế Giới Thứ Ba”.

Buổi họp mặt bắt đầu và sau đây là biên bản.

- Tại sao phải chọn một trong hai phái Nam hoặc Nữ ghi trong đơn?
- Đây là một vấn đề tế nhị. Trên nguyên tắc, nó không phải là yếu tố để đánh giá địa vị và quyền lợi trong xã hội loài người. Nó được đặt ra chủ yếu là để tái sinh con người, nhờ đó hôm nay các ngươi mới có cơ hội để trở lại trái đất. Ngoài ra, nó còn có mục đích tô điểm cuộc sống con người thêm phong phú qua dạng Tình Yêu, Tình Dục và Hôn Nhân. Nó phong phú ở hình thức đa dạng của cái được gọi là Hạnh Phúc và Đau Khổ. Nó cũng là một sở hữu và đồng thời là một chỗ dựa an toàn nhất và riêng tư nhất của từng cá nhân giữa muôn vàn khía cạnh của cuộc sống. Con người một khi đã có mặt trên trái đất sẽ luôn tìm kiếm Hạnh Phúc trong suốt cuộc đời. Trong số các ngươi có mặt tại đây hôm nay, kẻ nào làm chủ được trái tim mình chắc chắn sẽ được hưởng một trong hai thứ, Hạnh Phúc hoặc Đau Khổ. Ngược lại, những kẻ không hề biết mình có trái tim sẽ đánh mất một trong những quyền lợi thiêng liêng của con người. Các ngươi sẽ chọn Nam hoặc Nữ với tâm trạng của một người đứng giữa vườn hoa muôn sắc. Hãy nhớ, bất cứ hoa nào các ngươi hái đều phục vụ một nục đích cao đẹp là tô điểm cuộc đời làm người của các ngươi trên trái đất.

- Tại sao phải có mầu da mới được làm người?
- Đó không phải là điều kiện để làm người. Ngươi được làm người trước khi ngươi có mầu da. Trắng, đen, vàng, đỏ… trước tiên chỉ để thích nghi với môi trường sống. Chính con ngưới đã chối bỏ nguyên tắc cơ bản này, hậu quả là họ tự làm khổ nhau vì mầu da trên thân thể. Con người tự đặt cho mình một trật tự theo mầu da nên chính họ tạo ra sự hỗn loạn trong cái trật tự đó trên trái đất. Chừng nào con người xóa bỏ được thành kiến vế mầu da thì cuộc sống của họ sẽ thoải mái hơn để còn thực hiện biết bao điều tốt đẹp cho cuộc sống.

- Trong đơn có mục Quốc Gia, xin giải thích rõ hơn.
- Đó là ngôn ngữ của loài người để gọi mảnh đất họ sinh sống. Nếu chỉ như thế, con người đã được hưởng một cuộc sống thanh bình. Khốn nỗi, họ không hài lòng với giới hạn đó: họ chiếm đất sống của đồng loại. Trên thực tế, chữ “Họ” ở đây chỉ là một thiểu số nổi bật trong đa số thầm lặng. “Họ” có thể là những kẻ có một trọng lượng chất xám trong óc nhiều hơn những người bình thường. Ngược lại, đôi khi chất xám trên đầu “Họ” còn nhẹ hơn những người bình thường, bù vào đó, họ có cơ hội nắm được bạo lực trong tay. Ở trái đất, người ta gọi thành phần này bằng một cái tên rất trang trọng: Lãnh Tụ. Các Lãnh Tụ nắm trong tay bạo lực để mở rộng quốc gia. Loài người gọi hành động đó là Chiến Tranh. Chiến thăng trong Chiến Tranh tức là chiếm đất sống của người khác, sống trên đất của người khác, hay trở thành Lãnh Tụ của những người mà trong thâm tâm phải miễn cưỡng chấp nhận vì không đủ sức mạnh để vùng lên. Ở trái đất đã có hai lần chiến tranh lớn và hiện tại đang ráo riết chuẩn bị cho lần thứ ba, được mệnh danh là Chiến tranh Hạt nhân. Một số trong các ngươi có mặt tại đây hôm nay sẽ bị cuốn hút vào cuộc chiến tranh hủy diệt để rồi lại quay trở về đây nếu không sớm có được một nhận thức đúng đắn về hai chữ Quốc Gia.

- Có thể bỏ trống phần Dân Tộc trong đơn không?
- Không. Dân tộc chính là dấu ấn đóng vào thân phận các ngươi từ khi bắt đầu làm người. Nó nói lên nguồn gốc của ngươi, nó hình thành qua thời gian chung sống gắn bó với những người chung quanh từ đời này qua đời khác. Nó cũng chính là cái mà ngươi có thể tự hào hay tủi nhục. Trên trái đất đã có không ít những dân tộc bị xóa tên và đồng hóa nhưng vẫn có mặt trên trái đất. Con người vẫn có thể sống trong thỏa mãn vật chất dù luôn cảm thầy sự tủi nhục tinh thần. Nếu các ngươi không muốn phải sống như vậy thì đừng nhân danh dân tộc mình mà xóa tên và đồng hóa dân tộc khác.

- Xin có vài lời về những chữ “Thành phần Chính trị”.
- Mục này mới được đặt thêm trong đơn cho phù hợp với tình hình thực tế trên trái đất. Gần đây, những xu hướng chính trị đã xuất hiện trong cuộc sống của con người và đang trở thành một đề tài nóng bỏng. Nó có nguy cơ là nguyên nhân của cuộc chiến tranh thứ ba giữa hai luồng ý thức hệ chính trị: Chủ nghĩa Tư bản và Chủ nhĩa Xã hội. Sự kiện này nằm ngoài dự kiến chung vì nó là sản phẩm của những bộ óc con người được hình thành qua những quy luật của cuộc sống. Xét về mục đích, cả hai chủ nghĩa đều nhân danh hạnh phúc của con người. Để đạt được mục đích này, cả hai đều dùng những phương tiện trái ngược và đối kháng nhau đến độ một mất một còn. Các ngươi có thể đứng ngoài hai khối, nhưng số phận của các ngươi vẫn tùy thuộc vào kết quả cuối cùng của cuộc xung đột. Lới khuyên duy nhất là các ngươi hãy xuống trái đất với hình ảnh thân mật và bình đẳng của buổi họp mặt hôm nay giữa những “Người-Đã-Chết” trước khi lăn lộn vào cuộc đời trần tục. Các ngươi có toàn quyền lựa chọn thành phần chính trị cho mình nhưng hãy nhớ: dù thuộc thành phần nào đi nữa, các ngươi vẫn là Người, đã ra đi từ đây và cuối cùng sẽ trở về đây.

- Tôn giáo là gì?
- Nó là sản phẩm của quá trình phát triển tư tưởng con người. Đừng nghĩ rằng nó đã được hình thành tại đây để biện minh cho sự hiện hữu của thế giới “Người-Đã-Chết”. Nếu tư tưởng đã khai sinh ra ý niệm về tôn giáo thì chính tư tưởng cũng có khả năng hủy diệt tác phẩm của mình. Tư tưởng dùng tôn giáo để lý giải những hiện tượng thần bí và dẫn đắt con người sống theo một quy ước được đặt tên là Thiện. Điều này có thể chấp nhận được vì nó Hướng Thượng và phục vụ cho nhu cầu tinh thần của con người. Thật vô lý khi các lãnh tụ quá khích trong những thời đại trước đã biến tôn giáo thành Mục Đích hoặc đã nhân danh nó để tạo ra những cuộc Thánh Chiến, ngụy trang cho những tham vọng về Quốc Gia, Dân Tộc. Như đã nói ở trên, Chủ Nghĩa và Tôn Giáo đều là sản phẩm của Tư Tưởng, nên cả hai đều phải trải qua những xung đột như sự ma xát của các răng cưa trong một guồng máy. Về Tôn Giáo, các ngươi có toàn quyền lựa chọn, thay đổi hoặc không chọn một tôn giáo nào. Vô Thần cũng chính là tôn giáo, cả hai đều là con đẻ của Tư Tưởng. Hãy nhớ, Tự do Tín ngưỡng không những là quyền Theo hay Không theo một tôn giáo nào mà còn là sự Tôn trọng Tư tưởng của người khác. Đùng nhân danh Tự do Tín ngưỡng để đàn áp và chi phối tư tưởng của người khác.

- Trong mục Nghề Nghiệp có nhiều danh từ khó hiểu. Xin giải thích để chúng tôi dễ chọn hơn.
- Hai chữ Nghề Nghiệp sẽ gắn bó với các ngươi từ giai đoạn trưởng thành đến ngày các ngươi không còn đủ sức để làm việc nữa. Tuy nhiên, thành quả của nó vẫn còn ành hưởng sau khi các ngươi biến mất trên mặt đất. Nếu đã làm người, không thể nào không chọn cho mình ít nhất là một nghề. Chọn ngành y, ngươi phải coi sự đau đớn của người khác như sự đau đớn của chính bản thân mình. Đi dạy học, ngươi phải ý thức được trách nhiệm của mình không phải chỉ là truyền đạt kiến thức cho học trò mà còn trách nhiệm tinh thần đối với chúng. Chọn binh nghiệp, ngươi hãy nhớ vũ khí trong tay luôn luôn là con dao hai lưỡi, phải sáng suốt nhận thức được ranh giới giữa Bảo vệ và Xâm lăng, hai hình thức chiến tranh này thường bị vo tròn, bóp méo vì tham vọng của những kẻ chỉ huy. Là nông dân, ngươi phải biết thương quý đất đai, cây cối như một phần thân xác của ngươi. Là công nhân, ngươi phải nghĩ đến người tiêu thụ sản phẩm được làm ra từ những giọt mồ hôi ngươi đổ ra. Nếu chọn nghề cầm bút, ngươi phải viết ra được những điều mình nghĩ để làm sao chia sẻ được sự thông cảm của người đọc. Hãy thành thật với chính mình nếu muốn thuyết phục người khác. Tóm lại, cuộc sống trên trái đất càng tiến bộ bao nhiêu thì phạm vi của nghề nghiệp càng phong phú bấy nhiêu. Các ngươi hãy làm người với một thái độ dứt khoát: lao động chân tay và trí óc là quyền lợi thiêng liêng của con người, không một bạo lực nào có thể tước đoạt được.

 ***

Tôi tỉnh giấc giữa cơn mưa ngâu tháng bảy, tháng của các cô hồn. Tôi bỗng rùng mình. Không phải là sự rùng mình khi đọc “Văn tế Thập loại Chúng sinh” của Nguyễn Du. Đó là cái rùng mình sau những giây phút vừa được sống trong thế giới của “Người-Đã-Chết”. Đó cũng là cái rùng mình trước thực tại sau một giấc mơ hoang đường.

Ở thế giới vô hình, “Họ” đã nghĩ về trái đất quen thuộc của chúng ta như vậy. Trong khi đó, chúng ta tự cho mình quyền “Xá tội Vong nhân” đối với những “Người-Đã-Chết”. Trong cơn chao đảo của con người trước cuộc sống hiện tại, liệu chúng ta có nên dành một phút để rùng mình tự hỏi:

“Ai sẽ xá tội cho những người còn sống?”

***

Sunday, December 30, 2018

Sự khác biệt gia 2 nền giáo dục Nam Bắc VN



Hai nền giáo dục Nam Bắc VN
Đây là một bài phân tích nhẹ nhàng nhưng sâu sắc và rất thực tiễn của một nhà văn miền Bắc. Hãy cùng đọc để biết thêm nguồn gốc của vũng lầy quê hương.

https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEiY_j82Ys9klFB62l25-M97fzl9g9s3d_i48lYvMYb44H5J98P6QQ3HoQfnoCu1Y_vh1dLC8jaiP_A9R3naJ9PrPtp2kt-5raFCuhIkEFMo295Obs3auiof7PBpsOv7GYIlTejxcZqmoEvC_tGa8xpgrgpMJOvKsOAJzQ9iwRIq6HXtpNpzW5DLtNskeZB6qq8Im4LwhspXFp8odBqc4_sOF_inSt0MNA=s0-d

Tôi vốn là người làm nghề nghiên cứu văn học. Trong cái nghề thuộc loại công tác tư tưởng này, những năm trước 1975, tôi chỉ được phép đọc các sách báo miền Bắc, còn sách vở miền Nam bị coi như thứ quốc cấm.

Có điều, không phải chỉ là sự tò mò, mà chính lương tâm nghề nghiệp buộc tôi không thể bằng lòng với cách làm như vậy.

Tôi cho rằng, muốn hiểu cặn kẽ văn học hiện đại, phải hiểu văn học cổ điển; muốn hiểu văn họcVN phải hiểu văn học thế giới. Thế thì để hiểu văn học miền Bắc làm sao lại lảng tránh việc nghiên cứu văn học miền Nam được.
Đối với giáo dục cũng vậy. Từ sau 30-4-75, tôi vẫn sống ở Hà Nội. Sự tiếp xúc với giáo dục miền Nam (dưới đây viết là GDMN), chỉ dừng ở mức sơ sài bề ngoài.

Tuy nhiên, do việc tìm hiểu chính nền giáo dục miền Bắc (GDMB) ở tôi lâu nay kéo dài trong bế tắc, trong khoảng mươi năm gần đây tôi tìm thấy ở GDMN một điểm đối chiếu.

Lúc cảm nhận được phần nào sự khác biệt giữa hai nền giáo dục Bắc-Nam 1954-1975 cũng là lúc tôi hiểu thêm về nền giáo dục mà từ đó tôi lớn lên và nay tìm cách xét đoán. Tôi không chỉ muốn nêu một số đặc điểm mà còn muốn xếp loại nền giáo dục tôi đã hấp thụ.

Bài viết này có thể được đọc theo chủ đề khác đi một chút: Nhận diện giáo dục Hà Nội từ 1975 về trước qua sự đối chiếu bước đầu với giáo dục Sài Gòn.

KHÁC BIỆT NGAY TỪ HOÀN CẢNH HÌNH THÀNH

Chỗ khác nhau giữa GDMN và GDMB xuất phát trước tiên từ hoàn cảnh xã hội mỗi nền giáo dục đó được đặt vào, từ đó mà nó lớn lên là cái điểm đích mà nó hướng tới phục vụ.

Ngay từ những năm 1948 – 50, nền giáo dục tự phát trước tiên đã hình thành ở các vùng hồi trước gọi là vùng tự do; không chỉ Việt Bắc, những vùng tự do này tồn tại ở cả Nam bộ, rồi nam và trung Trung bộ, rồi tập trung và có ý nghĩa nhất với tương lai giáo dục là những quan niệm, những cách hình thành, các trường sở… về sau.

Cái mà ta gọi là giáo dục miền Bắc chỉ là sự kéo dài của lối phát triển giáo dục trong chiến tranh.

Nhờ có tinh thần yêu nước và những bài bản đã học được trong các nhà trường Pháp thuộc, nên ban đầu, nền giáo dục này có tạo được một số hiệu quả nào đó.

Việc kéo nhau lên Việt Bắc lúc đầu ai cũng nghĩ là chỉ một hai năm. Sống tạm bợ ít ngày cần gì. Nhưng rồi đường lối trường kỳ kháng chiến tiếp thu được từ Trung quốc được quán triệt khiến mọi mặt hoạt động được đặt lại trong đó có công tác giáo dục. Làm theo ý chí hơn khả năng thực tế. Quan niệm giáo dục chưa hình thành cũng phải làm.

Giáo dục chiến tranh, do dó, luôn luôn là một nền giáo dục dở dang chắp vá, mà lại vẫn phải khoác cho mình cái chức danh lớn lao của một nền giáo dục mới mẻ, cách mạng .

Trong khi ở khu vực kháng chiến hình thành nền giáo dục như trên thì, ngay từ trước 1954, một nền giáo dục do người Pháp mở từ trước cũng đã tồn tại ở Hà Nội, Hải Phòng, Huế, và rõ nhất là ở Sài Gòn, và sau này chuyển giao, phát triển trở thành giáo dục miền Nam.

Đối tượng của những so sánh đối chiếu dưới đây là hai thực thể quá khác nhau, còn phải nghiên cứu công phu, ý kiến của chúng tôi chỉ mới là những phác thảo sơ bộ.

CHUẨN VÀ PHI CHUẨN

Đáng lẽ khi hòa bình lập lại những người kháng chiến đã trở về Hà Nội cái tinh thần giáo dục phi tiêu chuẩn hôm qua cần phải vượt qua, thì — như một thói quen và kết quả của một hiểu biết thiển cận — nó lại ăn sâu vào mọi mặt, chi phối cách hình thành và những định hướng lớn của GDMB

Nói quá lên thì có thể bảo, như một cơ thể, GDMB thuộc loại tiên thiên bất túc, tức sinh ra đã không đủ các bộ phận cần thiết, sinh ra đã bất thành nhân dạng.

Phương châm ở đây là làm lấy được, tức là chưa đủ điều kiện, nhưng thấy cần, vẫn cứ làm — rồi để yên lòng nhau, sẽ viện ra đủ lý lẽ để chống chế, để lấp liếm và xa hơn nữa, sẵn sàng tự ca tụng.

Ví dụ một trường đại học trước tiên phải có đủ bộ phận giảng viên đảm nhiệm việc giảng dạy theo những quy định quốc tế. Ở các nước gọi là đang phát triển, một trường đại học chỉ được thành lập khi có một bộ phận nòng cốt là những giáo sư đã học tập ở những Sorbone, Oxford hoặc những trường tương tự… trở về.

Đâu người ta cũng hướng tới những yêu cầu này để noi theo, nay chưa làm được thì mai làm. GDMN cũng theo, GDMB thì không.

Trên danh nghĩa đại học VN cũng có những người gọi là giáo sư hay tiến sĩ đấy, nhưng đó là ta phong với nhau để làm việc, chứ thực tế thấp hơn hẳn chuẩn mực quốc tế “một cái đầu”.

Rộng hơn câu chuyện giáo viên là chuyện cơ sở vật chất và không khí học thuật của một trường đại học.

Rồi rộng hơn câu chuyện của riêng ngành đại học là chuyện của mọi cấp học.

Tính phi chuẩn bao trùm trong mọi lĩnh vực, từ trường sở, sách giáo khoa, cách cho điểm, cách tổ chức thi cử…, cho tới chất lượng dạy và học.

Sau mấy chục năm chiến tranh, cái sự làm lấy được làm theo ý chí đã thành chuẩn mực duy nhất, nó chi phối tất cả, khiến giáo dục VN có cách tồn tại, cách vận hành riêng chẳng giống ai. Các trường mới lập ra phải theo trường cũ, sau giải phóng thì miền Bắc buộc miền Nam phải theo.

Tạm ví một cách thô thiển: như trong khi người ta đi thì mình phải bò phải lết, vậy mà vẫn tự hào rằng mình cũng đang đi, chứ đâu có đứng yên.

KHÁC BIỆT TRONG QUAN NIỆM

Về bộ máy giáo dục

Có dịp tìm hiểu lại nền giáo dục trước 1945 và nền giáo dục ở Sài Gòn trước 75, tôi nhận ra một sự thật — hồi đó, bản thân giáo dục là một hệ thống quyền lực. Nó có nguyên tắc tổ chức riêng và những con người riêng của nó.

Nhà thơ Chế Lan Viên có lần nói với Nguyễn Khải và Nguyễn Khải về kể lại cho tôi một nhận xét. Ông Chế bảo, ở xã hội cũ, một viên tri huyện tuy vậy vẫn phải nể nhà sư trụ trì mấy ngôi chùa lớn, hay các vị đỗ đạt cao nay không làm gì chỉ về mở trường trong vùng.

Còn các chức danh đốc học, giáo thụ, huấn đạo – các học quan tương ứng với tỉnh, phủ, huyện — là người do triều đình cử, chứ không phải do chính quyền địa phương cử, hoặc nếu địa phương cử thì triều đình cũng phải duyệt.

Tôi cảm thấy điều này được GDMN tiếp tục. Nền giáo dục ở đây do những người thành thạo chuyên môn quyết định.

Còn ở miền Bắc thì hoàn toàn ngược lại.

Nhiều vị sư do địa phương phân công vào chùa hoạt động, hoặc sau khi vào chùa, lấy việc cộng tác với chính quyền làm niềm vinh dự, nghĩa là trong hệ thống sai bảo của chính quyền theo nghĩa đen.

Còn người phụ trách giáo dục các cấp hoàn toàn do Ủy ban cử sang. Cả những hiệu trưởng cũng vậy, phải do Ủy ban thông qua.

Bộ máy tổ chức cán bộ địa phương thường hoạt động theo nguyên tắc là ai tài giỏi cho đi phụ trách các ngành chính trị kinh tế. Còn văn hóa giáo dục sẽ phân công cho những người kém thế lực và kém năng lực.

Đánh đấm ở chiến trường hay vật lộn với sản xuất với thị trường mới khó, chứ việc quản mấy ông thầy với đám học trò ranh, ai làm chẳng được – người ta hiểu vậy.

Một người bạn già có hiểu nhiều về giáo dục ở thời Việt Nam dân chủ cộng hòa kể với tôi là Bộ trưởng Bộ giáo dục trong chính phủ liên hiệp thành lập 2-1946 là Đặng Thai Mai. Nhưng về sau, do sinh viên trường đại học Đông dương đề xuất thắc mắc, Đặng Thai Mai chỉ tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm, nên phải thay bẳng Nguyễn Văn Huyên có bằng tiến sĩ Sorbone Đại học số một của Pháp.

Việc chọn người tham gia chính phủ thời kỳ 1945-46 có thể có nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng tôi tin chắc rằng thời ấy việc cử Bộ trưởng Bộ giáo dục buộc phải tuân theo nhiều chuẩn mực nghiêm khắc, chứ không phải à uôm hoặc phe cánh chạy chọt, như hiện nay.

Vả chăng vấn đề không phải chỉ riêng ông bộ trưởng, mà là mọi cấp quan chức của giáo dục.

Một trong những chuyện vui vui xảy ra với nền giáo dục hôm nay là chỉ thị của Bộ gíáo dục khoảng cuối 2013 cho các tỉnh, khuyên cơ quan chính quyền tỉnh nên cẩn thận và ráo riết trong việc kiểm soát các tin tức tiêu cực từ các cuộc thi.

Nó là bằng chứng cho thấy giáo dục đã nát như thế nào và người ta cố tình che giấu như thế nào.

Nhưng nó cũng tố cáo sự phụ thuộc hoàn toàn của nhà trường vào nhà cầm quyền. Giáo dục trở thành việc nhà của địa phương rồi, người ta cho biết cái gì thì dân được biết cái đó.

Một kỷ niệm nữa có liên quan tới việc giáo dục phụ thuộc chính trị một cách thô thiển. Những năm 55 – 58, tôi học cấp II Chu Văn An. Trường ở ngay cạnh Chủ tịch phủ. Hễ có các vị quan khách nước ngoài tới thăm, xe đưa từ sân bay Gia Lâm về Ba Đình, là bọn tôi được lệnh bỏ học, ra đứng đường để hoan nghênh các vị khách quý.

Ở các địa phương việc huy động thầy trò vào các công việc gọi là công ích, là công tác chính trị của địa phương, càng phổ biến.

Người ta tự coi mình đương nhiên có quyền can thiệp vào mọi việc của nhà trường. Còn những việc như thế, làm hại đến chất lượng giáo dục ra sao, thì không ai cần biết.

Những nguyên tắc căn bản của giáo dục

Mấy năm gần đây hoạt động của GDMN được nhắc nhở nhiều trên báo chí, nhất là trên mạng.

Nhờ thế, bọn tôi có thêm dịp để nghĩ lại về nền giáo dục mà đến nay ít được biết tới.

Trong một bài mang tên Nền giáo dục ở miền Nam 1954-75, một nhà giáo dục đồng thời trước đây là một quan chức trong nghề (như trên đã nói, quan chức giáo dục ở miền Nam khác hẳn quan chức miền Bắc), ông Nguyễn Thanh Liêm, đã nhắc lại những nguyên tắc căn bản của nền giáo mới là nhân bản – khai phóng- dân tộc những nguyên tắc này đã ghi trong Hiến pháp VNCH 1967.

Đối chiếu với giáo dục miền Bắc, sơ bộ tôi thấy đại khái thấy hai nguyên tắc đầu cũng thường được Hà Nội nhắc tới, nhưng được giải thích khác đi, và nguyên tắc thứ ba thì hoàn toàn người làm GDMB không có một ý niệm gì hết.

Về tính dân tộc

Ta hãy đọc lại cách giải thích của các nhà giáo miền Nam. Ở đây, bảo đảm tính dân tộc, phát triển tinh thần quốc gia của học sinh có nghĩa
giúp học sinh hiểu biết hoàn cảnh xã hội, môi trường sống, và lối sống của người dân; giúp học sinh hiểu biết lịch sử nước nhà, yêu thương xứ sở mình, ca ngợi tinh thần đoàn kết, tranh đấu của người dân trong việc chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc; giúp học sinh học tiếng Việt và sử dụng tiếng Việt một cách có hiệu quả; giúp học sinh nhận biết nét đẹp của quê hương xứ sở, những tài nguyên phong phú của quốc gia, những phẩm hạnh truyền thống của dân tộc; giúp học sinh bảo tồn những truyền thống tốt đẹp, những phong tục giá trị của quốc gia; giúp học sinh có tinh thần tự tin, tự lực, và tự lập.

Các nhà giáo miền Bắc, trên đại thể, cũng nói thế. Nhưng điểm nhấn thì khác. Trong cách giải thích của người làm giáo dục Hà Nội, tính dân tộc trước tiên là việc dân mình tự làm lấy giáo dục của mình. Chúng tôi thường tự hào đây là một nền giáo dục riêng của người Việt, một nền giáo dục không có dây dưa gì nhiều với nền giáo dục mà thế kỷ trước, người Pháp đã mang lại. Chúng tôi làm lấy và đôi khi cố ý làm ngược với những bài bản thời thuộc địa.

Đây là cách hiểu về tính dân tộc mà giới văn hóa tư tưởng đề xuất và được coi là tư tưởng chỉ đạo. Thì cũng là cách hiểu trong giáo dục.

Một khía cạnh khác trong cách hiểu về tính dân tộc của miền Bắc. Không phải là những người làm giáo dục không biết chỗ yếu kém vốn có. Để tự trấn an, người ta biện hộ rằng trong cái vẻ luộm thuộm nhếch nhác, hình như GDMB đang trở lại với nền giáo dục của ông cha ta ngày xưa thời trung đại, chỉ cốt phát huy tinh thần hiếu học của con người.

Dân tộc trong trường hợp này, dân tộc đồng nghĩa với “ta về ta tắm ao ta”, từ chối những đổi mới hiện đại.

Cũng chính là những lý do được viện dẫn khi, trong đời sống văn hóa, người ta kéo nhau trở lại với các phong tục cổ hủ và khuếch trương mê tín đến một mức độ người xưa không thể tưởng tượng.

Trong khi đó, như vừa dẫn ở trên, tính dân tộc được các nhà GDMN hiểu là phải hướng về một thứ dân tộc hiện đại.

Về tính nhân bản

Trên giấy tờ văn bản, chẳng bao giờ giới văn hóa giáo dục miền Bắc phủ nhận tính nhân bản, tuy là trong thực tế người ta rất ngại nói tới.

Phần thì xã hội ở đây đã xem đấu tranh giai cấp là động lực phát triển; phần nữa thì đang trong thời chiến tranh, không thể nói nhiều đến tình người, nó xâm hại ý chí chiến đấu.

Khi cần phải nói chuyện với thế giới, các nhà tư tưởng miền Bắc cũng công nhận nhân đạo chủ nghĩa là lý tưởng tốt đẹp và giáo dục phải có nhiệm vụ hướng tới.

Nhưng trong thực tế, cách lý giải nghĩa về chủ nghĩa nhân đạo thường giản đơn và cổ lỗ. Lại thường giải nghĩa rất mới: “chủ nghĩa nhân đạo cao nhất là chủ nghĩa nhân đạo chiến đấu chống lại mọi áp bức bất công”.

Trong bài Đế quốc Mỹ phải là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta của Chế Lan Viên, người ta còn thấy những câu thơ mà có lẽ con người ở các xã hội khác không sao hiểu nổi:

—Miền Nam ta ơi

Cái hầm chông là điều nhân đạo nhất

– Ngọn súng trường ta ơi ngọn súng rất nhân tình

Giới giáo dục miền Bắc cũng theo sự chỉ đạo đó.

Cách giải thích về nhân bản của các nhà giáo miền Nam ngược hẳn. Theo tôi hiểu , nó gần với cách hiểu của phạm trù này ở các xã hội hiện đại.

Hãy thử đọc một số sách thuộc tủ sách giáo dục của nhà xuất bản cũng tên là Trẻ, in ra ở Sài Gòn khoảng mấy năm sau 1970.

Lúc này, một nhóm các nhà giáo dục, có lẽ mới đi học Anh Mỹ về, lập nhóm và đã công bố nhiều tài liệu mới viết có, vừa được dịch có.

Khi bàn về mục đích giáo dục, Nguyễn Hòa Lạc viết:
Mục đích tối thượng của giáo dục là làm thế nào giúp con người đạt được nhân cách, các bản ngã đích thực của mình, hầu có thể sống trọn kiếp nhân sinh […] nghĩa là giúp họ thể hiện được con người của mình trong ý nghĩa “con người là một hiện hữu tại thế, một hữu thể có lý trí và tự do, vừa suy tư vừa hành động”.
(Lê Thanh Hoàng Dân- Trần Hữu Đức..Các vấn đề giáo dục nxb Trẻ,1970 tr 209)

Cách hiểu như thế này cố nhiên không bao giờ được đề lên như mục đích của GDMB. Với các nhà giáo Hà Nội, nhất là vào thời kỳ sau khi Hà Nội được tiếp quản từ tay người Pháp (10-1954), không làm gì có những con người chung chung. Mỗi con người đều thuộc về một giai cấp do đó họ phải sự chỉ đạo của các đảng phái đại diện giai cấp của họ. Cách hiểu của GDMN:
chấp nhận có sự khác biệt giữa các cá nhân, nhưng không chấp nhận việc sử dụng sự khác biệt đó để đánh giá con người, và không chấp nhận sự kỳ thị hay phân biệt giàu nghèo, địa phương, tôn giáo, chủng tộc… Với triết lý nhân bản, mọi người có giá trị như nhau và đều có quyền được hưởng những cơ hội đồng đều về giáo dục. http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/

dù có được coi là đúng đi nữa, cũng không bao giờ được ứng dụng. Mà trong thực tế, lại làm ngược.

Trước sau, với nền GDMB, chấp nhận nhân bản theo nghĩa hiện đại, và đặt vấn đề tôn trọng cá tính của mỗi cá nhân, bao giờ cũng là một chuyện quá phiền phức, giá có công nhận là đúng nữa thì hoàn cảnh hiện thời không cho phép người ta tuân thủ.

Vào khoảng những năm 1960, có cả một cuộc vận động chống chủ nghĩa cá nhân.

Thế thì làm sao có thể tính chuyện nghiên cứu về con người cá nhân, và giúp lớp trẻ thực hiện bản thể cá nhân vốn có trong họ được!

Cái luận điểm từng được thống nhất nêu ra trong các văn bản miền Nam
Triết lý nhân bản chủ trương con người có địa vị quan trọng trong thế gian này; lấy con người làm gốc, lấy cuộc sống của con người trong cuộc đời này làm căn bản; xem con người như một cứu cánh chứ không phải như một phương tiện hay công cụ phục vụ cho mục tiêu của bất cứ cá nhân, đảng phái, hay tổ chức nào khác. (Giáo dục Việt Nam Cộng hòa http://vi.wikipedia.org/wiki/

phải được coi là xa lạ và nếu có ai nghĩ vậy thì cần phê phán.

Chúng tôi không dẫn lại đây các văn kiện có tính chỉ đạo đối với GDMB trong đó việc đào tạo con người thành những công cụ đắc lực cho cuộc chiến đấu trước mắt được nhấn mạnh. Chỉ xin lưu ý một điểm, đó không phải là phát minh của các nhà chỉ đạo GDMB nói chung mà còn là nguyên lý chỉ đạo giáo dục ở một nước mà miền Bắc lấy làm mẫu như giáo dục Nga xô viết.

Trong cuốn Các vấn đề giáo dục thuộc tủ sách giáo dục nxb Trẻ đã nói, có một phần lớn điểm sơ lược về giáo dục nước ngoài, cả phương Đông lẫn phương Tây, chắc là do kê cứu các sách nghiên cứu của Anh Mỹ và Pháp mà viết lại. Phần viết về giáo dục Nga kết lại như sau:
–Xét chung thì nền giáo dục ở Nga rất thực tiễn và khoa học, nhưng nó chỉ là thứ giáo dục một chiều, nhăm biến con người thành một công cụ sản xuất [và ở VN là chiến đấu – VTN] tới mức tối đa. Một khi con người đã trở thành công cụ của guồng máy cộng sản thì mất hết nhân tính. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng giáo dục xô viết tuy thực tiễn và hữu hiệu nhưng lại phi nhân tính. (Sđd tr. 228)

Có thể mượn để nói về GDMB.

Về tính khai phóng

Trong mấy chữ gọi là nguyên tắc căn bản trong các tài liệu GDMN, đối với bọn Hà Nội chúng tôi, chữ khai phóng là hơi lạ.

Mở Hán Việt tân từ điển của Nguyễn Quốc Hùng ( Khai trí S.1975), thấy ghi khai phóng tức mở mang và buông thả, ý nói làm cho tốt đẹp hơn; không kìm giữ, mà trái lại, muốn giúp đỡ cho tiến xa hơn.

Thoạt đầu tôi thấy là trong một mức độ nào đó, khai phóng có vẻ gần với khái niệm hiện đại tiên tiến của miền Bắc, mấy chữ này thường dùng cả trong kinh tế lẫn giáo dục.

Về sau đặt khai phóng vào cái nền chung của các nguyên tắc căn bản của GDMN, tôi mới hiểu khai phóng gần với khái niệm cơ bản của nhân học hiện đại là tự do – và do đó quá mới mẻ với chúng tôi.

Trong cuốn Chân dung những nhà cải cách giáo dục tiêu biểu trên thế giới, do tổ chức Unesco bảo trợ biên soạn và chi phí xuất bản (bản dịch tiếng Việt của nxb Thế giới, H. 2004), phần viết về Thái Nguyên Bồi (1868-1940), có đoạn dẫn lại mấy ý của vị Hiệu trưởng sáng lập Đại học Bắc Kinh có liên quan tới phương hướng phát triển giáo dục của nước Trung Hoa thế kỷ XX.
Chúng ta phải được tự do tư tưởng và tự do ngôn luận và không để cho một trường phái triết học hay bất kỳ một loại hình tôn giáo nào giam hãm tư tưởng chúng ta. Trái lại chúng ta phải hướng tới những tư tưởng cao cả mang tính nhân loại, những tư tưởng sẽ tồn tại mãi, bất kể không gian và thời gian. Đó là nền giáo dục xứng đáng với tên gọi nền giáo dục toàn cầu.(sđ d tr138 )
Giáo dục giúp cho thế hệ trẻ có cơ hội phát triển trí lực và hoàn thiện tính cách cá nhân, đóng góp cho nền văn minh nhân loại. Bởi vậy giáo dục không hể trở thành công cụ đặc biệt giúp cho những kẻ muốn thao túng xã hội theo đuổi những mục đích xấu xa. Việc dạy dỗ tại nhà trường phải hoàn tòan trao cho các nhà giáo độc lập không bị ảnh hưởng bởi bất cứ đảng phái chính trị hay tôn giáo nào (sđ d tr 143).

Tinh thần khai phóng như vậy đã trở thành một khía cạnh chủ yếu của quan niệm nhân bản như trên đã nói.

Tinh thần khai phóng này cũng chi phối cách các nhà GDMN hiểu khác đi về tính dân tộc, so với nội dung được GDMB chấp nhận.

Các nhà GDMN từng hào hứng nói về xu thế hội nhập đến rất sớm của mình. Cách nói của Nguyễn Thanh Liêm:
Tinh thần dân tộc không nhất thiết phải bảo thủ, không nhất thiết phải đóng cửa. Ngược lại, giáo dục phải mở rộng, tiếp nhận những kiến thức khoa học kỹ thuật tân tiến trên thế giới, tiếp nhận tinh thần dân chủ, phát triển xã hội, giá trị văn hóa nhân loại để góp phần vào việc hiện đại hóa quốc gia và xã hội, làm cho xã hội tiến bộ tiếp cận với văn minh thế giới. http://hocthenao.vn/2013/10/16/nen-giao-duc-o-mien-nam-1954-1975-trich-nguyen-thanh-liem/

là theo tinh thần khai phóng vừa nói.

Với GDMB, nói dân tộc là để từ chối khai phóng. Còn với GDMN, chính là cần khai phóng thì mới giải quyết vấn đề dân tộc một cách triệt để.

Nhìn theo cách nào thì khai phóng mà các nhà giáo dục ở Sài Gòn đã nói cũng bao hàm một ý nghĩa mà GDMB không thể chấp nhận được. Thậm chí phải nói là GDMB đã làm ngược lại.

Hẳn là không xa sự thật lắm nếu kết luận trong khi giáo dục thế giới và GDMN là khai phóng thì GDMB là khép kín. Trong khi GDMB chỉ hướng tới các mục đích trước mắt – một tinh thần thiển cận sát mặt đất–, thì tinh thần khai phóng mà GDMN muốn xây dựng bao giờ cũng giúp cho người ta hướng tới tương lai.

Trong cuốn Các vấn đề giáo dục đã nói, ở tr 204 tập I, tôi còn thấy các tác giả dẫn lại một câu của Kant:
Mục đích của giáo dục là huấn luyện trẻ không phải chỉ nhằm vào sự thành công của chúng trong tình trạng xã hội hiện tại mà nhằm một tình trạng có thể tốt đẹp hơn, hợp với một quan niệm lý tưởng của nhân loại (sđ d tr 204).

GD MN nhằm vào những mục đích như thế mà GDMB thì không.

ĐOẠN KẾT

Giống như xã hội nơi đây, sự phát triển giáo dục ở miền Bắc đi theo một cái mạch phải nói là không bình thường.

Nếu GDMN tiếp nối cái mạch giáo dục của nhiều nước trên thế giới và trực tiếp là nền giáo dục VN trước 1945 thì GDMB, xét theo cả chặng đường dài năm sáu chục năm, trong khi cố tìm cốt cách riêng của mình, hóa ra lại chẳng tuân theo quy luật nào cả.

Nếu GDMN được triển khai theo một đường hướng khoa học của thế giới hiện đại thì GDMB lại có những khía cạnh như trở lại thời tiền hiện đại.

Cần nói thêm là trong khi phải làm giáo dục một cách mò mẫm, những người làm giáo dục ở miền Bắc trước 1975 đã luôn luôn tự nhủ rằng chúng ta đang làm một cuộc cách mạng trong giáo dục và giáo dục ta đang là một nền giáo dục tiên tiến.

Đó là một ý nguyện chính đáng.

Trong chiến tranh, Hà Nội hoàn toàn khép kín. Muốn thì cũng muốn lắm, nhưng trong hoàn cảnh đóng cửa cách ly với thế giới, làm gì có chuyện hội nhập theo đúng nghĩa của nó.

Cuộc sống trì trệ kéo dài.

Đối chiếu với những điều bọn tôi được dạy bảo từ nhà trường phổ thông và sau này từng coi là phương hướng suy nghĩ, với các tài liệu mới đọc được, càng thấy trong khi khác biệt với GDMN, thì GDMB cũng khác nhiều so với thế giới. Đủ hiểu tại sao sau khi đào tạo trong nước, ra tiếp xúc với xã hội hiện đại, cánh học sinh sinh viên miền Bắc bọn tôi thường ú ớ, lạc lõng, trong khi những người được GDMN đào tạo thì hội nhập rất tự nhiên và hiệu quả.

Mươi năm gần đây, tình hình có chút đổi khác, nhưng là chỉ đổi khác trên bề mặt. Cựa quậy mấy thì nền giáo dục này cũng không khác được so với chính mình. Nó đã cạn kiệt năng lực tự cải hóa. Ngay cả những người trong bộ máy quyền lực cũng đều tính chuyện cho con em mình qua nhiểu nước phương Tây, nhất là sang Mỹ để học. Nhưng họ chỉ lo được cho gia đình riêng của họ thôi. Ở trong nước, những bài bản của miền Bắc cũ được tân trang lại chút ít vẫn ngự trị trong toàn bộ nền giáo dục, và trong thâm tâm, nhiều người đã bắt đầu nghĩ rằng hình như có một bãi lầy đã được tạo ra và chúng ta không bao giờ ra thoát.

Vương Trí Nhàn


Ông sinh ngày 15 tháng 11 năm 1942 tại Hà Nội. Quê quán của ông là xã Đông Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.

Ông tốt nghiệp Đại học Sư phạm, hệ 3 năm vào năm 1964, sau đó gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam cho đến đầu năm 1979. Trong quân đội ông có nhiệm vụ chính là dạy học và về sau làm báo. Ông từng giáp mặt với thực tế chiến trường như B5, B4.

Giáo dục VNCH: sự tiếc nuối vô bờ bến:


Saturday, December 29, 2018

Hành trình ngôn ngữ Xưa & Nay: (4/4)

A Bê Xê hay A Bờ Cờ?

Trước tiên, xin xác định, hành trình ngôn ngữ tiếng Việt có cột mốc thời gian Xưa và Nay được căn cứ  vào thời điểm Trước và Sau 1975 giữa bối cảnh cuộc chiến hai miền Nam-Bắc. Qua loạt bài về hành trình ngôn ngữ, tác giả có tham vọng phản ảnh những giai đoạn lịch sử Việt Nam qua những thay đổi về ngôn từ trong cuộc sống hàng ngày.
***
Ngày xưa, ngay từ thời niên thiếu, tôi đã nghe câu nói:
"ABC
Không có nhà
Đi ở thuê"

Tôi không bàn đến việc không có nhà nên phải đi ở nhà thuê mà chỉ đề cập đến cách đọc những mẫu tự ABC. Câu trên phải đọc là “A, Bê, Xê” cho hợp vần với “Đi ở thuê”. Sẽ là điều trái cẳng ngỗng khi đọc là “A, Bờ, Cờ”, hoàn toàn không hợp với vần của câu thứ ba: “A, Bờ, Cờ - Không có nhà – Đi ở thuê”!

Như vậy, ta có 2 cách phát âm các mẫu tự, cách nào cũng đúng nhưng còn tùy thuộc vào ngữ cảnh. Có điều, dù đọc theo trường phái "A, Bê, Xê" hay "A, Bờ, Cờ" chỉ khác nhau ở các phụ âm như B, C, D… còn những nguyên âm như A, O, E, I, Y… hoàn toàn không có sự khác biệt.

Ngược dòng lịch sử, Giáo sư Hoàng Xuân Hãn (1908–1996) là một trong những người có công lớn trong việc truyền bá quốc ngữ qua Phong trào Bình dân Học vụ trước giai đoạn tản cư vào cuối năm 1946.

Trong bài viết "Nhớ lại Hội truyền bá Quốc Ngữ, nhân kỷ niệm 50 năm" đăng trên tập san Đoàn Kết (số 405-406, tháng 9 và 10 năm 1988, xuất bản tại Paris), Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn có nhắc đến “những chữ dễ viết cho những ngón tay chưa từng cầm bút... Vì lẽ đó tôi đã bắt đầu sách bằng hai chữ I, Tờ”.

Trong cuốn "I, Tờ" Giáo sư Hãn đã đưa ra cách phát âm các mẫu tự B, C, D, Đ... bằng Bờ, Cờ, Dờ, Đờ... và các phụ âm kép NG, PH, TH, TR là Ngờ, Phờ, Thờ, Trờ... Chẳng hạn, để đánh vần chữ Ba, theo Giáo sư Hãn, sẽ là "Bờ A Ba". Cách đánh vần này sẽ dễ dàng hơn "Bê A Ba". Trong trường hợp phụ âm kép như chữ Thơ sẽ đánh vần là "Thờ Ơ Thơ" thay vì "Tê Hát Ơ Thơ".

Nói chung, phương pháp đánh vần của Giáo sư Hãn rất đơn giản nhưng lại rất thích hợp, nhất là đối với những người lớn tuổi muốn học chữ quốc ngữ. Bên cạnh đó là những vần thơ giúp người học dễ nhớ như:

I Tờ hai móc giống nhau,
I ngắn có chấm, Tờ dài có ngang

O tròn như quả trứng gà,
Ô thời đội nón, Ơ thời có râu

Huyền ngang, Sắc dọc, Nặng tròn,
Hỏi lom khom đứng, Ngã thời nằm ngang

Vào thập niên 50 lại có bài hát Cô Tú của Long Châu khá phổ biến vào thời đó để cổ xúy cho việc học chữ quốc ngữ với những lời ca như sau:

Ai về chợ huyện là huyện Thanh Vân,
Hỏi thăm, hỏi thăm Cô Tú đánh vần được chưa?
Đánh vần năm ngoái, năm xưa,
Năm nay quên hết nên chưa biết gì.

Lưng trời tiếng sáo vu vi,
Vẳng nghe ai học chữ i, chữ tờ.
Sách i tờ phát không cho học,
Liệu cô mình đã đọc được chưa?

Đôi bên bác mẹ cùng già,
Lấy cô hay chữ để mà cậy trông.
Mùa hè cho chí mùa đông,
Ruộng vườn thóc lúa tính thông cô chẳng nhầm.

Nụ tầm xuân còn đương phong nhuỵ,
Xin cô mình đừng phí ngày xanh.
Bình dân Học vụ lập thành,
Cô nên tới đó học hành cho thông

Từ đó, ta có cách dạy đánh vần chữ quốc ngữ theo phương pháp "I Tờ", một thuật ngữ gắn liền với Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn. Ông là một học giả đa tài trong nhiều lãnh vực: giáo sư toán học, kỹ sư, nhà sử học, nhà ngôn ngữ học, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục. Ông cũng là người soạn thảo và ban hành Chương trình Trung học Việt Nam đầu tiên (*).


Học giả Hoàng Xuân Hãn (1908-1996)

Ở Việt Nam ngày nay, chữ “I Tờ” khá phổ biến nhưng không còn mang ý nghĩa ban đầu của Giáo sư Hãn. "I Tờ" hoặc "I Tờ Rít" là một tĩnh từ chỉ sự dốt nát kiểu "lớp ba trường làng" hay không chuyên môn như trong câu: “Về computer thì tôi rất… I Tờ”. Với một số người, thậm chí "I Tờ" còn là cách đọc của chữ tắt IT (information technology – công nghệ thông tin) nên câu thí dụ vừa nêu còn có thể đổi là: “Về I Tờ thì tôi rất… I Tờ” hoặc “Về Ai Ti thì tôi rất… I Tờ”. Tiếng Việt ngày nay càng ngày càng rắc rối!

Nhân nói về công nghệ thông tin, xin bàn thêm một chút về ký hiệu @, tiếng Anh gọi là “At sign” (dấu At). Khởi thủy, @ thường được dùng trong thương mại và kế toán để chỉ đơn giá “each at”. Chẳng hạn như “10 apples @ 10 pennies” (10 apples each at 10 pennies – 10 quả táo, mỗi quả 10 xu).

Bill Gates, chủ tịch tập đoàn Microsoft, xuất bản một cuốn sách mang tựa đề trong có ký hiệu @ rất ‘thời thượng’ vào thời kỳ bùng nổ Internet: “Business @ the Speed of Thought” (tạm dịch là Kinh doanh theo tốc độ của tư duy).

Nhu cầu về máy tính đòi hỏi cần phải có một ký tự đặc biệt để tách biệt tên người sử dụng máy tính với tên miền trong hệ thống mạng nên vào năm 1972, chuyên gia lập trình Ray Tomlison chọn ký hiệu @ để biểu thị địa chỉ trên e-mail, chẳng hạn như abc@yahoo.com...

Trong khi các mẫu tự trong hệ thống chữ La Tinh ABC khi phát âm mỗi nước đọc một khác thì ký hiệu @ mỗi quốc gia đọc một kiểu! Người Đức gọi @ là “affenschwanz hay apenstaartje” (đuôi khỉ), Ý gọi là “chiocciola” (ốc sên), Hungari là “kukak” (con sâu), dân Nga gọi là “sobaka (собака)” (con chó), sang đến Hy Lạp trở thành con vịt “papaki”, Thổ Nhĩ Kỳ lại biến thành “bông hồng”, …

Việt Nam cũng không phải là ngoại lệ. Người ta gọi @ bằng nhiều tên: “a móc”, “a vòng”, “a còng”… Gần đây lại còn có những tên như “a đuôi” hoặc… “lỗ tai heo”! Theo cách gọi này, khi có ai hỏi địa chỉ e-mail, bạn có thể tỉnh bơ trả lời: “Địa chỉ e-mail của tớ là Nguyễn Văn Nhậu, lỗ tai heo, da-hu chấm com”.

 
Chân dung Julian Paul Assange,
người sáng lập WikiLeaks, được tạo hình bằng dấu @

Trong khi miền Bắc trung thành với cách đọc "A, Bờ, Cờ" từ thời Bình dân Học vụ thì ở miền Nam, từ năm 1954 đến 1975, khi trẻ bước vào lớp Năm (tương đương với lớp 1 ngày nay) được dạy đánh vần các mẫu tự ABC theo cách phát âm A, Bê, Xê. Sự thay đổi sau năm 1975 được mệnh danh là cải cách hoặc cải tiến giáo dục.

Thế nhưng, sau 1975, khi bắt đầu học toán, các em làm quen với một hình chữ nhật có 4 góc ABCD lại được thầy cô đọc là A, Bê, Xê, Dê chứ không còn là A, Bờ, Cờ, Dờ như cách đọc ở lớp vỡ lòng. Nếu phụ huynh thắc mắc, thầy cô trả lời rất đơn giản: “Trên hướng dẫn như thế!”.

Bản thân tôi đã được nghe cháu ngoại đọc báo và không thể hiểu nổi "Bộ Lờ Đờ Tờ Bờ Xờ Hờ" là cái gì. Mãi cho đến lúc nhìn vào mặt chữ in trên tờ báo mới giật mình vì đó là những chữ viết tắt: Bộ LĐ-TB-XH (Bộ Lao động – Thương binh – Xã hội)! Các bậc ông bà, cha mẹ không dám sửa vì con cháu luôn có điệp khúc: “Cô giáo bảo thế!”.


Cuộc vận động TDĐKXDĐSVHƠKDC là gì?

Về ngôn ngữ, ngoài xã hội cũng ‘loạn’ không kém gì môi trường giáo dục. Chẳng hạn như khi nhóm G7, G20 nhóm họp, đài truyền hình trung ương (VTV) đưa tin qua tên gọi các nhóm này là "Gờ Bảy", "Gờ Hai Mươi"… trong thi đó bản tin của đài Sài Gòn (HTV) vẫn trung thành với cách phát âm cũ: "Giê Bảy", "Giê Hai Mươi"!

Xem quảng cáo trên TV về việc cài đặt GPRS trên điện thoại di động thì phát thanh viên miền Bắc đọc là "Gờ Pờ Rờ Ét" còn trong Nam lại phát âm là "Giê Pê Rờ Ét"… (Nếu trung thành với cách phát âm cũ ABC thì phải là "Giê Pê E Rờ Ét" chứ). Xem đá bóng thì có đội "Mờ U" ở miền Bắc và "Em U" ở trong Nam... dù đó chỉ là một đội Manchester United (MU) tận bên Anh!  

Trên đây là chuyện đọc, nhưng chuyện viết cũng nhiêu khê không kém. Ngày nay, người ta có khuynh hướng biến chữ Y thành I. Theo cách này, công ty sẽ thành công ti, kỹ thuật biến thành kĩ thuật nhưng không biết đến bao giờ ta sẽ có Ti I tế thay cho Ty Y tế?  Tại miền Nam ngày xưa cũng có hiện tượng đổi Y thành I, nhưng trong trường hợp nữ ca sĩ Thanh Thúy chắc chẳng ai nỡ nhẫn tâm đổi tên người đẹp thành "Thanh Thúi"!

Xem ra cách viết đúng chính tả vẫn còn là một vấn đề nhức nhối đối với các nhà ngôn ngữ học. Năm 1927, những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc cho các lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu được bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các Dân tộc bị Áp bức xuất bản thành sách với tên gọi là Đường Kách Mệnh.

Đường Kách Mệnh giới thiệu tính chất và kinh nghiệm các cuộc cách mạng Mỹ (1776), cách mạng Pháp (1789), Cách mạng tháng Mười Nga (1917) và khẳng định chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là triệt để. Trong phạm vi ngôn ngữ, chúng ta chỉ thắc mắc tại sao viết Kách mệnh mà không phải là Cách mệnh hay Cách mạng?

Có người giải thích vào thời điểm thập niên 20, hệ thống chính tả của Việt Nam còn đang trong thời kỳ sơ khai, chưa có những quy định chặt chẽ nên người viết có thể tùy tiện như trường hợp Kách mệnh hoặc Nhân zân, thay vì Nhân dân, hay Giải fóng thay vì Giải phóng…


Đường Kách Mệnh

Tuy nhiên, mặc dù ngày nay tiếng Việt đã được hoàn thiện phần nào nhưng đâu đó vẫn còn những trường hợp tùy tiện trong cách viết. Chẳng hạn như tên của một số địa phương, vẫn chưa có sự thống nhất. Tại miền Nam, tỉnh Đắc Lắc lại còn có tên Dak Lak và Đắc Nông lại biến thành Đắk Nông. Miền thượng du Bắc Việt, tỉnh Bắc Cạn được viết theo ‘kiểu mới’ là Bắc Kạn.

Không biết đến bao giờ Bình Ca (một địa danh với chiến công hiển hách trên dòng sông Lô thời kháng chiến trong bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ… "Văn Kao") sẽ được đổi thành Bình Ka? Nếu cái đà đổi C thành K vẫn tiếp diễn thì một ngày nào đó Củ Chi, ‘đất thép thành đồng’, sẽ có tên mới là Kủ Chi; Cần Thơ ‘gạo trắng nước trong’ sẽ mang tên Kần Thơ và Cao Bằng mạn ngược sẽ biến thành Kao Bằng!

Phải chăng vì C và K, nếu phát âm theo cách A, Bờ, Cờ, chỉ có một cách đọc duy nhất là Cờ cho cả hai mẫu tự nên ta có thể viết tùy tiện?

===

Chú thích:

(*): Hoàng Xuân Hãn sinh năm 1908, quê làng Yên Hồ, huyện La Sơn, nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Đó cũng là lý do ngày nay tại Hà Tĩnh có trường trung học mang tên ông.

Năm 1926, ông đậu bằng Thành Chung, rồi ra Hà Nội học trung học ở trường Bưởi. Sau đó một năm, ông lại chuyển sang học chuyên Toán ở Lycée Albert Sarraut. Năm 1928, ông đỗ thủ khoa kỳ thi tú tài toàn phần và được nhận học bổng của chính phủ Đông Dương sang Pháp học dự bị để thi vào các trường lớn.

Năm 1930, ông đỗ vào trường École Normale Supérieure và Trường Bách khoa Paris. Ông chọn học trường Bách Khoa. Trong thời gian này ông bắt đầu soạn cuốn Danh từ khoa học.

Năm 1932-1934: Ông vào học École Nationale des Ponts et Chaussées (Trường Cầu đường Paris). Năm 1934: Trở về Việt Nam, 4 tháng sau đó sang Pháp. Từ năm 1934 đến năm 1936 trở lại Pháp; đậu cử nhân toán 1935, và thạc sĩ toán 1936 tại khoa Toán trường Đại học Sorbonne (Licence des Sciences mathématiques Sorbonne).

Từ năm 1936 đến năm 1939, ông trở về Việt Nam dạy các lớp đệ nhất ban toán trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An). Trong thời gian này ông hoàn tất cuốn Danh từ Khoa học. Từ năm 1939 đến năm 1944, vì chiến tranh trường Bưởi phải rời vào Thanh Hóa. Tại đây, ông tìm thấy những tư liệu lịch sử về La Sơn Phu Tử và vua Quang Trung và những tấm bia nói về sự nghiệp của Lý Thường Kiệt.

Năm 1942, ông cho xuất bản Danh từ khoa học. Năm 1943, Đại học Khoa học được thành lập tại Hà Nội, Hoàng Xuân Hãn được mời dạy môn cơ học. Tháng 4 năm 1945, vua Bảo Đại mời ông vào Huế để tham khảo ý kiền về việc thành lập chính phủ độc lập đầu tiên của Việt Nam. Ngày 17/4/1945, ông tham dự nội các Trần Trọng Kim với chức vụ Bộ trưởng Giáo dục - Mỹ thuật.

Từ ngày 20/4 đến ngày 20/6/1945, với chức bộ trưởng, ông đã thiết lập và ban hành chương trình giáo dục bằng chữ Quốc ngữ ở các trường học. Áp dụng việc học và thi Tú tài bằng tiếng Việt, dùng tiếng Việt trong những công văn chính thức. Chính phủ Trần Trọng Kim tại chức được 4 tháng.

Sau ngày chính phủ Trần Trọng Kim từ nhiệm, ông trở về dạy và viết sách toán bằng tiếng Việt, cùng cứu vãn những sách cũ, sách cổ bị đưa bán làm giấy lộn khắp đường phố Hà Nội.

Ông sang Paris năm 1951 và ở luôn bên Pháp. Trong thời kỳ 1951-1954 ông đã giúp Thư viện Quốc gia Pháp và các thư viện Dòng Tên ở Ý và Tòa Thánh Vatican làm thư mục về sách Việt. Ông vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu, viết các bài gửi các báo Sử Địa (Sài Gòn, 1966-1974), tập san Khoa học - Xã hội (Paris, 1976-1987), Đoàn Kết (Paris, 1976-1981), Diễn Đàn (Paris 1991-1994).

Ngày 21/7/1992, ông thành lập tại Pháp một hội văn hóa có tên là Hội Văn hóa Giáo dục Cam Tuyền do ông làm chủ tịch. Hội có tôn chỉ và mục đích bảo vệ và phát huy văn hóa, giáo dục; nhất là bảo tồn văn hóa cổ Việt Nam tại Pháp và ở các quốc gia Tây phương. Ngoài ra, tại Paris ông đã hoàn tất công trình lớn về Đoạn trường tân thanh có tên "Nghiên cứu về Kiều" từ hơn 50 năm nay.

Ông mất lúc 7 giờ 45 ngày 10/3/1996 tại bệnh viện Orsay, Paris. Thi hài ông được hỏa táng chiều ngày 14/3/1996 tại nghĩa trang L'Orme des Moineaux, Les Ulis, Pháp.

***

(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 10: Thời xuống lỗ)

Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:

Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả bắt đầu viết chương cuối cùng mang tên… Thời xuống lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!

***

8 Comments on Multiply

thomnx wrote on Apr 9, '11
Ở miền Bắc, thời tôi đi học các con chữ ABC cscs thầy cũng dạy đọc là A bê xê chứ không phải A bờ cờ. Hình như cách đọc A bờ cờ mới phổ biến gần đây thôi.

thomnx wrote on Apr 9, '11
“Không biết đến bao giờ Bình Ca (một địa danh với chiến công hiển hách trên dòng sông Lô thời kháng chiến trong bài hát nổi tiếng của nhạc sĩ… Văn Kao) sẽ được đổi thành Bình Ka? Nếu cái đà đổi C thành K vẫn tiếp diễn thì một ngày nào đó Củ Chi, ‘đất thép thành đồng’, sẽ có tên mới là Kủ Chi; Cần Thơ ‘gạo trắng nước trong’ sẽ mang tên Kần Thơ và Cao Bằng mạn ngược sẽ biến thành Kao Bằng!”
HÓM!!!

sgphuongnam wrote on Apr 9, '11
sau 1975 csVn đã bắt đầu thay đổi ngôn ngữ và văn hóa VN, mục đích đê tiện của họ là muốn tiêu diệt hoàn toàn tất cả những gì mà họ nghĩ là thuộc về VNCH. Họ quên rằng đó là ngôn ngữ và văn hóa VN từ lâu đời chứ không phải thụôc về một Chế độ nào. Thí dụ như "Nhà Bảo sanh" họ đổi thành "Xưởng đẻ", "Nữ Quân Nhân" đổi thành "chiến sĩ gái", và lối đọc mẫu tự A bê xê thành a bờ cờ ....v...v..
Buồn thay cho một đất nước bị ảnh hưởng bởi giới Lãnh đạo không có trình độ...

nguyenngocchinh wrote on Apr 18, '11
Sau khi post bài này trên Multiply, tác giả nhận được e-mail của anh Ngô Trí Thịnh, một người bạn ngày xưa cùng dậy tại Trường Sinh ngữ Quân đội Sài Gòn. Nguyên văn như sau:

“Bạn Chính thân,
Bài viết về “A Bê Xê” hay “A Bờ Cờ” đã đưa tôi trở lại một thời đa số người VN được khuyến khích tham gia phong trào Bình Dân Học Vụ để chống nạn mù chữ. Thật cảm động thấy hình ảnh của các ông bà hầu hết tại miền quê bất kể tuổi tác đã hăng hái tụ tập tại các nơi công cộng đền miếu đình chùa ê a tập đánh vần. Lúc đó tôi mới 10 tuổi đang là một học trò lớp Nhì Năm Thứ Nhất nhưng đã có thể cảm nhận được niềm hân hoan của những người này, lần đầu trong cuộc đời họ đã nhận ra được ý nghĩa của những dòng chữ mà từ bao lâu họ đã không có một hiểu biết nào.
Đó là vào giai đoạn lịch sử quan trọng của Đất Nước vào những năm đầu thập niên 40 khi quân đội Nhật chiếm đóng nước ta, chấm dứt thời kỳ Pháp thuộc, thiết lập chính phủ Trần Trọng Kim rồi chuyển qua nhà nước do Việt Minh cầm đầu sau kết thúc Thế Chiến II.
Nhờ chi tiết do bạn ghi về tác giả phương pháp giản dị hóa cách đánh vần chữ quốc ngữ của Học Giả Hoàng Xuân Hãn trong dịp này nên tôi không còn thắc mắc về công lao đóng góp của ông trong nỗ lực chống nạn mù chữ cho dân Việt Nam. Vào buổi giao thời lúc đó, mọi người ngơ ngác trước những đổi thay đến chóng mặt về mọi phương diện nên không kịp nhận định hư thực về những gì xẩy ra và cứ cho là tất cả đều khởi đầu từ "mùa thu cách mạng"!
Dĩ nhiên, còn nhiều ngộ nhận sẽ được sáng tỏ với thời gian và cái gì thuộc về Cesar phải được trả về Cesar.
Thân chào bạn và mong được đọc thêm các bút ký khác của bạn.
Thịnhngô
Một dân LSNQD

andropause wrote on Apr 20, '11
Cái gì lập đi lập lại cũng thành thói quen anh ạ ! Thí dụ như em vốn học kiểu a, bê, xê nhưng nghe bờ, cờ hoài cũng ảnh hưởng ít nhiều. Cụ thể nhất là chữ gmail đa số sẽ đọc là gờ meo! Đọc j meo hay giê meo thấy hơi khó hiểu!

linalol wrote on Apr 21, '11
a bờ cờ là đọc phiên âm. A bê xê đọc tên gọi của mẫu tự. Cám ơn bài viết của bạn.

kinhkhatran wrote on Jun 18, edited on Jun 18
Hồi trước 1975 vào lớp mẫu giáo được cô dạy một bài hát rất hay về hai mươi bốn chữ cái. Xin phép được chia sẻ lại nơi đây để nhớ lại thời thơ ấu.
A.. B.. C là ba chữ đầu,
Ớ Ờ Ơ là chữ có râu.
Ô Ê kia đầu có nón che,
Học cho thông em chớ ngủ nhè...
.......
Dĩ nhiên hồi đó được dạy đọc là A Bê Xê.
Riêng chữ KHỔ. Vâng, tuy hồi đó có khổ thật nhưng ai cũng ca hát (Ca Hát ô khổ hỏi khổ). Còn bây giờ Kh đọc là "khờ" ----- "khờ" ... nên khổ !!!

linalol wrote on Jun 18
kinhkhatran said “Riêng chữ KHỔ. Vâng, tuy hồi đó có khổ thật nhưng ai cũng ca hát (Ca Hát ô khổ hỏi khổ). Còn bây giờ Kh đọc là "khờ" ----- "khờ" ... nên khổ !!!”

Hihi..