Vua Hàm Nghi bị Pháp đày đi Algérie
thuộc Pháp, năm 1888
Ngày 13
tháng 12, 1888
·
1888 – Sau khi bị Thực dân Pháp bắt, Hoàng đế Hàm
Nghi (hình) của triều
Nguyễn bị đưa lên tàu để sang an trí tại Algérie thuộc Pháp.
Hàm Nghi
咸宜
Chân
dung thông dụng của Hoàng đế Hàm Nghi.
Thông tin chung
Tên húy Nguyễn Phúc Ưng Lịch
Nguyễn Phúc Minh
Nguyễn Phúc Minh
Niên hiệu Hàm Nghi (咸宜)
Hàm Nghi (chữ Hán: 咸宜; 3 tháng 8 năm 1872 – 14 tháng 1 năm 1944), tên thật Nguyễn
Phúc Ưng Lịch (阮福膺𧰡), là vị Hoàng đế thứ
tám của nhà Nguyễn, triều
đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam.
Là em trai của vua Kiến Phúc,
năm 1884 Hàm
Nghi được các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi ở tuổi 13.
Kiến Phúc (chữ Hán: 建福, 12 tháng 2 năm 1869 – 31 tháng 7 năm 1884), thụy hiệu đầy đủ]] là Thiệu
Đức Chí Hiếu Uyên Duệ Nghị hoàng đế, tên thật Nguyễn Phúc Ưng Đăng (阮福膺登), là vị Hoàng đế thứ bảy của triều
đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Tôn Thất
Thuyết (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự Đàm Phu (談夫), là quan phụ chính đại
thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều đại nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam.
Sau khi cuộc
phản công tại kinh thành Huế thất bại năm 1885, Tôn Thất
Thuyết đưa ông ra ngoài và phát chiếu Cần Vương chống thực dân Pháp.
Toàn văn Chiếu Cần Vương.
Phong trào Cần Vương nổ ra vào cuối thế kỷ 19 do
đại thần nhà Nguyễn là Tôn Thất Thuyết nhân danh vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi đề
xướng trước nạn xâm lược của thực dân Pháp.
Nhân danh ông, Tôn Thất Thuyết đã phát động
phong trào Cần Vương, kêu gọi văn thân, nghĩa sĩ giúp vua, giúp nước. Phong
trào này kéo dài đến năm 1888 thì
Hàm Nghi bị bắt. Sau đó, ông bị đem an trí ở Alger (thủ đô xứ Algérie) và qua đời tại
đây năm 1943 vì bệnh ung thư dạ dày. Do áp lực của Pháp nên nhà Nguyễn không lập miếu hiệu
cho ông.
Algiers (tiếng Ả Rập: الجزائر, al-Jazā’er; phát âm tiếng tiếng Ả Rập Algérie: دزاير Dzayer, Berber: Dzayer tamaneɣt, tiếng Pháp: Alger)
là thủ đô và
thành phố lớn nhất của Algérie.
Algérie (phiên âm tiếng Việt: An-giê-ri; tiếng Ả Rập: الجزائر Bảng ký hiệu ngữ âm quốc tế [ɛlʤɛˈzɛːʔir], tiếng Berber(Tamazight): Lz̦ayer [ldzæjər]), tên chính thức Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Algérie, là một nước tại Bắc Phi, và
là nước lớn nhất trên lục địa Châu Phi (Sudan lớn hơn nhưng chia làm 2 nước
Sudan và Nam Sudan).
Ngày nay, lịch sử Việt Nam xem
ông cùng với các vua chống Pháp gồm Thành Thái, Duy Tân là
ba vị vua yêu nước trong thời kỳ Pháp thuộc.
Thành Thái (chữ Hán: 成泰, 14 tháng 3 năm 1879 – 20 tháng 3 năm 1954), tên khai sinh là Nguyễn
Phúc Bửu Lân(阮福寶嶙), là vị Hoàng đế thứ
10 của triều đại nhà Nguyễn, tại
vị từ 1889 đến 1907.
Duy Tân (chữ Hán: 維新; 19 tháng 9 năm 1900 – 26 tháng 12 năm 1945), tên khai sinh là Nguyễn
Phúc Vĩnh San(阮福永珊), là vị Hoàng đế thứ
11 của nhà Nguyễn, ở
ngôi từ năm 1907 đến
năm 1916),
sau vua Thành Thái.
Xuất thân
Hàm Nghi húy là Nguyễn
Phúc Ưng Lịch, khi lên ngôi đổi thành Nguyễn Phúc Minh. Ông là
con thứ năm của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai và bà Phan Thị Nhàn, sinh
ngày 17 tháng 6 năm Tân Mùi,
tức 3 tháng 8 năm 1871(có tài
liệu ghi ông sinh ngày 22 tháng 7 năm 1872) tại Huế. Ông
là em ruột của vua Kiến Phúc Ưng
Đăng và Chánh Mông (hay Ưng Kỷ), tức là vua Đồng Khánh sau này.
Sau khi vua Tự Đức qua
đời vào tháng 7 năm 1883, mặc dù các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết nắm trọn quyền hành trong
việc phế bỏ vua này, truất ngôi vua khác, nhưng họ lại rất bị động trong việc
tìm người trong Hoàng gia có cùng chí hướng để đưa lên ngôi. Trước thời Hàm
Nghi, cả ba vua Dục Đức, Hiệp Hoà và
Kiến Phúc đều lần lượt đi ngược lại đường lối của phái chủ chiến hoặc bị mất
sớm, trở thành những phần tử không thể không bị loại bỏ khỏi việc triều chính
đang rối ren. Vua
Kiến Phúc đột ngột qua đời trong lúc tình hình đang có lợi cho phái chủ chiến
trong triều đình Huế. Sau
khi nhà vua mất, đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Ưng Kỷ lên ngôi, nhưng Nguyễn
Văn Tường và Tôn Thất Thuyết sợ lập một vị vua lớn tuổi sẽ mất quyền hành và
hai ông chủ trương dứt khoát lựa chọn bằng được một vị vua ủng hộ lập trường
chống Pháp nên đã chọn Ưng Lịch. Đây là một người có đủ tư cách về dòng dõi,
nhưng chưa bị cuộc sống giàu sang của kinh thành làm vẩn đục tinh thần tự tôn
dân tộc và quan trọng hơn hết là hai ông có thể định hướng nhà vua về đại cuộc
của đất nước một cách dễ dàng.
Ưng Lịch từ nhỏ sống trong cảnh bần hàn, dân dã với mẹ ruột chứ
không được nuôi dạy tử tế như hai người anh ruột ở trong cung. Khi thấy sứ giả
đến đón, cậu bé Ưng Lịch hoảng sợ và không dám nhận áo mũ người ta dâng lên.
Sáng ngày 12 tháng 6 Giáp Thân, tức
ngày 2 tháng 8 năm 1884, Ưng
Lịch được dìu đi giữa hai hàng thị vệ, tiến vào điện Thái Hòa để
làm lễ lên ngôi hoàng đế, đặt
niên hiệu là Hàm Nghi. Khi đó Ưng Lịch mới 13 tuổi. Người ta nói rằng Hàm Nghi
được lên nối ngôi theo di chúc của vua Kiến Phúc trước đây. Tuy nhiên, trên
thực tế, Hàm Nghi được phái chủ chiến lập lên ngôi. Nhân vật cầm đầu phái chủ
chiến là Tôn Thất Thuyết - Phụ chính đại thần đồng thời là Thương thư bộ Binh.
Thời gian tại kinh
thành Huế
Sau khi vua Kiến Phúc mất tháng 7-1884, triều đình tôn Hàm Nghi
lên ngôi. Khâm sứ Pierre Paul Rheinart thấy
Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tự tiện lập vua, không hỏi ý kiến đúng như
đã giao kết nên gửi quân vào Huế bắt
Triều đình nhà Nguyễn phải xin phép. Rheinart gửi công hàm cho triều đình Huế
rằng:
“
|
“Nam triều có lập ai lên làm vua, thì phải xin phép nước Pháp
mới được”.
|
”
|
Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phải làm tờ xin phép
bằng chữ Nôm nhưng viên Khâm sứ không chịu, bắt
làm bằng chữ Hán. Hai
ông phải viết lại, viên Khâm sứ mới chịu và sau đó đi cửa chính vào điện làm lễ
phong vương cho vua Hàm Nghi. Công việc đầu tiên mà vua Hàm Nghi phải thủ vai,
dưới sự hướng dẫn của Tôn Thất Thuyết là tổ chức đón phái đoàn Pháp từ Tòa khâm
sứ ở bờ Nam sông Hương sang điện Thái Hoà làm
lễ tôn vương cho nhà vua. Đây là thắng lợi mà phe chủ chiến của triều đình Huế
đã đạt được trong việc bảo vệ ngai vàng của Hàm Nghi; còn đối với người Pháp
thì sau những yêu sách, đòi hỏi bất thành, họ đành phải nhân nhượng để tránh
thêm những rắc rối mới bằng cách chấp nhận một sự việc đã rồi.
Lúc 9 giờ sáng ngày 17 tháng
8 năm 1884, phái đoàn Pháp gồm Đại tá Guerrier, Khâm sứ
Rheinart, Thuyền trưởng Wallarrmé cùng 185 sĩ quan binh lính kéo sang Hoàng
thành Huế. Guerrier buộc triều đình Huế phải để toàn bộ quân Pháp tiến vào Ngọ
Môn bằng lối giữa, là lối chỉ dành cho vua đi, nhưng Tôn Thất Thuyết nhất định
cự tuyệt. Cuối cùng chỉ có 3 sứ giả được vào cổng chính, còn lại các thành phần
khác thì đi cổng hai bên. Cả triều đình Huế và phái đoàn Pháp đều mang tâm
trạng không vừa lòng nhau, nhưng buổi lễ thọ phong cuối cùng cũng kết thúc êm
thấm. Lúc phái đoàn Pháp cáo từ, Tôn Thất thuyết đã ngầm cho quân lính đóng cửa
chính ở Ngọ Môn lại nên đoàn Pháp phải theo hai lối cửa bên để về. Nhìn nhận về
sự kiện này, Marcel Gaultier đã
viết:
Năm sau 1885, Thống tướng de Courcy được chính phủ Pháp cử sang Việt Nam để
phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ. Tướng de Courcy muốn vào yết kiến vua Hàm Nghi
nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của mình, 500 người, đi vào cửa chánh là
cửa dành riêng cho đại khách. Triều đình Huế xin để quân lính đi cửa hai bên,
chỉ có các bậc tướng lĩnh là đi cửa chánh cho đúng nghi thức triều đình, nhưng
de Courcy nhất định không chịu.
Phong trào Cần
Vương
Đêm 22 rạng 23 tháng 5 âm lịch (tức
5, 6 tháng 7 năm 1885), Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết, vì thấy người Pháp khinh
mạn vua mình như vậy, nên quyết định ra tay trước: đem quân tấn công trại binh
của Pháp ở đồn Mang Cá. Đến sáng thì quân Pháp phản công, quân triều Nguyễn
thua chạy, rời bỏ Kinh thành Huế. Tôn Thất Thuyết vào cung báo lại việc giao
chiến trong đêm và mời vị hoàng đế trẻ Hàm Nghi cùng Tam cung lên đường. Nghe
chuyện phải rời khỏi thành, vua Hàm Nghi đã thảng thốt nói:
Vua Hàm Nghi ngồi trong kiệu bị chao đảo liên tục, đầu bị va đập
nhiều lần vào thành kiệu rất đau, sau cùng nhà vua phải xuống nằm trên võng cho
lính cáng. Nguyễn Văn Tường cho người rước vua Hàm Nghi tới thành Quảng Trị để
lánh nạn.
Quảng
Trị là một
tỉnh ven biển thuộc vùng cực Bắc Trung Bộ Việt Nam.
Đây là tỉnh có Khu phi quân sự vĩ tuyến 17, là giới tuyến chia cắt hai miền Bắc
- Nam Việt Nam, do đó cũng là một chiến trường ác liệt nhất trong suốt 20 năm của
cuộc Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975)
Chiều ngày 6 tháng 7 thì
cả đoàn mới tới Quảng Trị. Nhưng sau đó ông lại ra trình diện với quân Pháp.
Tướng de Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường hai tháng phải tìm cách để rước vua
về. Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước vua về nhưng ông Tôn Thất
Thuyết cản thư không cho vua biết. Hết hạn hai tháng, cả gia đình Nguyễn Văn
Tường bị de Courcy đày ra Côn Đảo, sau
đó đưa tới đảo Tahiti ở Thái Bình Dương. Một thời gian sau Nguyễn Văn
Tường qua đời, xác được đưa về Việt Nam. Ngày 9 tháng 7, dưới
áp lực của Tôn Thất Thuyết, vua Hàm Nghi đành từ biệt Tam cung, lên đường đi
Tân Sở.
Quảng Bình (các tên gọi cũ khu vực này gồm: Bố Chính, Tân Bình, Lâm Bình, Tiên Bình, Tây Bình)
là một tỉnh duyên hải thuộc
vùng Bắc Trung Bộ Việt Nam. Quảng Bình nằm ở nơi hẹp
nhất theo chiều Đông-Tây của dải đất hình chữ Scủa Việt Nam (50 km theo đường ngắn nhất
tính từ biên giới Lào ra biển Đông).
Vua Hàm Nghi đã phải chịu nhiều khổ ải vì phải luồn lách giữa
núi rừng hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, giữa muôn vàn thiếu thốn, bệnh tật,
đói khát và sự hiểm nguy về tính mạng luôn đe dọa. Tại
Tân Sở, vua Hàm Nghi tuyên hịch Cần Vương kêu gọi sĩ phu và dân chúng nổi dậy
chống Pháp giành độc lập. Sự ủng hộ, che chở giúp đỡ và tham gia nhiệt tình của
đồng bào các địa phương từ Quảng Trị qua tới đất Lào cũng
như trong vùng Hà Tĩnh, Quảng
Bình đã cho Hàm Nghi thấy được vai trò của bản thân mình nên nhà vua đã không
còn cảm thấy bị cưỡng ép như trước.
"Nhà vua bị những gian lao mà luyện thành người nhẫn nại
và đón cuộc phong trần bằng thái độ rất thản nhiên".
Dân chúng nổi dậy rất đông, nhưng vì rải rác các nơi nên lực
lượng không mạnh. Nhà vua đã hai lần xuống dụ Cần vương trong đó có một lần gửi
thư cầu viện cho Tổng đốc Vân-Quý của triều Mãn Thanh và
rất nhiều chỉ dụ khác tới các quan lại, lãnh tụ của phong trào chống
Pháp. Tên của ông ta đã trở thành ngọn cờ của nền độc lập quốc gia...
Từ Bắc chí Nam, đâu đâu dân chúng cũng nổi lên theo lời gọi của ông vua xuất
hạnh.
Trong suốt thời gian kháng chiến của vua Hàm Nghi, vua anh Đồng Khánh và 3 bà Thái hậu liên tục gửi thư kêu gọi vua trở về
nhưng ông khẳng khái từ chối. Toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Paul Bert cũng
đã định lập Hàm Nghi làm vua 4 tỉnh Thanh Nghệ Tĩnh Bình nhưng cũng không
thành.
Paul Bert (17/11/1833 – 11/11/1886, ở Việt Nam có khi viết
là Pôn Be) là một nhà động vật học, sinh lý học, và chính trị gia người Pháp.
Nhà vua thường nói mình ưa chết trong rừng hơn là trở về làm vua
mà ở trong vòng cương tỏa của người. Tại
căn cứ địa lãnh đạo phong trào Cần Vương, vua Hàm Nghi được Tôn Thất Thuyết cử
con là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp hộ giá bảo vệ, cùng đề
đốc Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân chia nhau phòng thủ và tấn công lực lượng Pháp
trong vùng.
Tháng 9 năm 1888, suất
đội Nguyễn Đình Tình phản bội ra đầu thú với Pháp tại đồn Đồng Cá. Nguyễn Đình
Tình lại dụ được Trương Quang Ngọc về đầu thú. Sau đó Nguyễn Đình Tình và
Trương Quang Ngọc tình nguyện với Pháp đem quân đi vây bắt vua Hàm Nghi. Đêm
khuya 26 tháng 9 năm 1888, vua
Hàm Nghi bị bắt khi đang ngủ, Tôn Thất Thiệp bị đâm chết. Khi đó, ông mới 17
tuổi, chống Pháp được ba năm. Nhà vua đã chỉ thẳng vào mặt Trương Quang Ngọc mà
nói rằng:
"Mi giết ta đi còn
hơn là mi mang ta ra nộp cho Tây".
Từ đêm hôm đó ở bờ khe Tá Bào, huyện Tuyên Hóa (nay là huyện
Minh Hóa) tỉnh Quảng Bình, Trương Quang Ngọc mang vua Hàm Nghi về các đồn Thanh
Lạng, Đồng Ca rồi sang Quảng Khê và đến đồn Thuận Bài vào chiều ngày 14 tháng
11 năm 1888. Quân Pháp tổ chức chào đón vua rất long trọng
nhưng vua đã tỏ ra không hiểu, không nhận mình là Hàm Nghi. Viên trung uý chỉ
huy quân đội Bonnefoy đã chuyển bức thư của Tôn Thất Đàm gửi cho vua Hàm Nghi xem nhưng nhà
vua ném lá thư xuống bàn và làm như không có can hệ gì đến mình. Viên đề đốc
Thanh Thuỷ là Nguyễn Hữu Viết được Pháp cử tới để thăm hỏi và nhận mặt thì nhà
vua giả như không hay biết. Nhưng khi người Pháp đem thầy học cũ là Nguyễn
Nhuận đến xem thì nhà vua vô tình đứng dậy vái chào. Đến lúc đó thì người Pháp
mới yên trí đó là vua Hàm Nghi. Từ Thuận Bài, người Pháp chuyển vua Hàm Nghi
qua Bố Trạch rồi vào Đồng Hới và tới cửa Thuận An
ngày 22 tháng 11 năm 1888.
Lúc này, triều đình Huế đã biết tin Hàm Nghi bị bắt, vua Đồng
Khánh sai quan lại Thừa Thiên và bộ binh ra đón để đưa về Huế. Nhưng người Pháp
sợ dân tình sẽ bị kích động khi thấy mặt vị vua kháng chiến nên Pháp đã báo cho
Viện Cơ mật rằng vua Hàm Nghi lúc này tính tình khác thường, về kinh e có điều
bất tiện, cần phải đưa đi tĩnh dưỡng nơi khác một thời gian. Kỳ thực người Pháp
đã có quyết định dứt khoát với vị vua kháng chiến này là đày sang xứ Algérie ở Bắc Phi.
Rheinart đã báo cho ông biết là Thái hậu đang ốm nặng, nếu nhà vua muốn thăm
hỏi thì sẽ cho rước về gặp mặt. Nghe vậy, vua Hàm Nghi đáp: "Tôi
thân đã tù, nước đã mất, còn dám nghĩ gì đến cha mẹ, anh em nữa", rồi
ông cáo từ về phòng riêng.
Lưu vong
Wedding of Emperor Hàm
Nghi in Algeria
Đám cưới cựu hoàng Hàm Nghi
Vào 4 giờ sáng ngày 25 tháng
11 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống tàu đi vào Lăng Cô. Trước
phút rời xa quê hương, nhà vua nhìn lên bờ, không nén được cảm xúc vì nỗi niềm
riêng và vận nước nên đã oà khóc..
Từ Sài Gòn, ngày 13 tháng
12 năm 1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống chiếc tàu mang tên
"Biên Hoà" vượt đại dương đi Bắc Phi. Do không quen đi trên biển, nhà
vua bị say sóng liên miên nhưng vẫn không hề thốt ra một lời kêu ca, oán thán.
Chiều chủ nhật, 13 tháng
1 năm 1889, Hàm
Nghi đến thủ đô Alger của Algérie. Lúc này ông vừa bước qua tuổi 18. Mười ngày
đầu, Hàm Nghi tạm trú tại L'hôtel de la Régence (Tòa nhiếp chính). Sau đó, ông
được chuyển về ở Villa des Pins (Biết thự Rừng thông) thuộc làng El Biar, cách
Alger 5 cây số.
Ngày 24 tháng
1, Toàn quyền Tirman của Algérie tiếp kiến và mời Hàm Nghi ăn cơm
gia đình. Ít ngày sau, qua Toàn quyền Tirman, cựu hoàng nhận được tin mẹ là bà
Phan Thị Nhàn; vợ thứ của Kiên Thái Vương; đã mất vào ngày 21 tháng 1 năm 1889 tại Huế.
Trong mười tháng tiếp đó, Hàm Nghi nhất định không chịu
học tiếng Pháp vì ông cho đó là thứ tiếng của dân
tộc xâm lược nước mình và vẫn dùng khăn lượt, áo dài theo nếp cũ ở quê hương.
Mọi việc giao thiệp đều qua thông ngôn Trần Bình Thanh. Nhưng về sau, thấy
người Pháp ở Algérie thân thiện, khác với người Pháp ở Việt Nam, nên từ tháng
11 năm 1889 ông bắt đầu học tiếng Pháp. Vài năm sau, Hàm Nghi có thể nói và
viết tiếng Pháp rất sõi.
Hàm Nghi cũng giao du cùng những trí thức Pháp nổi tiếng.
Năm 1899, ông
có sang thăm Paris và đến xem một triển lãm của danh họa Paul
Gauguin, về sau khi vẽ tranh Hàm Nghi cũng chịu ảnh hưởng bởi phong
cách của Gauguin.
Eugène Henri Paul Gauguin (7 tháng 6 năm 1848 – 8 tháng 5 năm 1903) là họa sĩ hàng đầu của trào lưu hậu ấn tượng.
Hơn 100 năm sau, bức tranh Déclin du jour (Chiều
tà) của cựu hoàng phát hiện được dưới nghệ danh Xuân Tử khi bán đấu giá ở Paris ngày
24 tháng 11 năm 2010 bán được với giá 8.800 euro.
Đối với người Việt thì Kỳ Đồng, tức Nguyễn Văn Cẩm từng lui tới thăm cựu
hoàng. Cũng chính vì đó mà người Pháp sinh nghi rồi ra lệnh trục xuất Kỳ Đồng
về Việt Nam.
(Kỳ Đồng(奇童) tên thật là Nguyễn
Văn Cẩm (阮文錦, 8 tháng 10 năm 1875 - 1929), người làng Trung Lập (theo cuốn
Danh nhân Thái Bình thì quê ông là làng Ngọc Đình), phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng
Yên, nay là xã Văn Cẩm huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình. Ông vốn có tư chất thông
minh từ nhỏ lại được cha, là nhà nho giỏi, dạy dỗ. Ông
được chính phủ Pháp cấp học bổng sang
học Trường trung học Alger, tốt nghiệp tú tài khoa học và văn chương. Ông có lẽ
là Người Việt đầu tiên đỗ tú tài Pháp.)
Đời tư
Năm 1904, Hàm Nghi đính hôn với cô Marcelle Laloe (sinh năm 1894, mất
năm 1974), con gái của ông Laloe chánh án tòa Thượng phẩm Alger. Đám cưới của
họ trở thành một sự kiện văn hóa của thủ đô Alger. Hàm Nghi cùng bà Marcelle
Laloe có ba người con:
Nguyễn Phúc Như Mai lúc trẻ.
Ảnh TL của Nguyễn Đắc Xuân.
Nguyễn Phúc
Như Mai (1905 – 1999) là con gái trưởng của Hoàng đế Hàm Nghi, nhà Nguyễn với vợ
là bà Marcelle Laloë.
Nguyễn Phúc Như Lý, tức Bá tước phu nhân xứ
De la Besse (1908 – 2005), là con gái thứ của Hoàng đế Hàm Nghi, nhà Nguyễn với vợ là bà
Marcelle Laloë.
Nguyễn Phúc Minh Đức lúc về
già. Ảnh TL của Nguyễn Đắc Xuân.
Hoàng tử Minh Đức, tức Jean Ung Lich Ham Nghi d’Annam (6 tháng 7 năm 1910 - 1990). Ông kết hôn với
Renée-Paule Bonnaud, tức Renée-Paule Minh Đức (8 tháng 10 năm 1918) vào ngày 14 tháng 12 năm 1945 hai người không có hậu
duệ.
Công chúa Như Mai tốt nghiệp kỹ sư canh nông. Công chúa Như Luân
tốt nghiệp tiến sĩ y khoa và lập gia đình với Công tước François Barthomivat de
la Besse.
Ngày 14 tháng
1 năm 1944, Hàm
Nghi qua đời vì bệnh ung thư dạ dày tại biệt thự Gia Long,
thủ đô Alger. Ông được chôn cất ở Thonac (quận
Sarlat-la-Canéda), vùng Nouvelle-Aquitaine, nước Pháp.
Nouvelle-Aquitaine (tiếng Pháp: [nuvɛl akitɛn]; tiếng Occitan: Nòva Aquitània; tiếng Basque: Akitania Berria) là vùng hành chính lớn nhất của Pháp, nằm tại miền
tây nam của đất nước. Vùng này được lập ra trong cải cách lãnh thổ các vùng của
Pháp vào năm 2014 thông qua hợp nhất ba vùng cũ Aquitaine, Limousin và Poitou-Charentes.
Trên mộ của vua Hàm Nghi và một số tài liệu ghi ông mất
năm 1944. Ông
ra đi mang theo nỗi hờn vong quốc không bao giờ nguôi ngoai trong tâm trí.
Vinh danh
Vì có tư tưởng chống Pháp, vua Hàm Nghi, cùng với các vua Thành
Thái, Duy Tân, được xem là 3 vị vua yêu nước của Việt Nam thời Pháp thuộc. Đến
thời điểm tháng 05 năm 2014, hài cốt vua Hàm Nghi ở Làng THONAC (Pháp). Năm
2009, Bài vị và di ảnh Vua Hàm Nghi được hội đồng Nguyễn Phúc Tộc đưa về thờ
tại Thế Tổ Miếu (Hoàng thành Huế).
Niên hiệu của
ông (Hàm Nghi) được đặt cho một con đường trung tâm ở Quận 1, Thành phố Hồ Chí
Minh. Tại Thành phố Hà Nội có tên đường Hàm Nghi thuộc phường Mỹ Đình 1,
quận Nam Từ Liêm. Tại Thành phố Hải Phòng có
tên đường Hàm Nghi ở phường Trại Chuối, quận Hồng Bàng. Tại Thành phố Đà Nẵng
có tên đường Hàm Nghi tại quận Hải châu. Tại Thành phố Huế có tên đường Hàm
Nghi ở phường Phước Vĩnh. Tại thành phố Móng Cái, phố
Hàm Nghi kéo dài từ phố Duy Tân đến phố Trần Nhật Duật.
Năm 1955, trường Trung học Thành Nội được dời về trường Quốc Tử Giám
triều Nguyễn ở Huế và đổi tên thành trường Trung học Hàm Nghi. Trường bị giải
thể năm 1975 để rồi 30 năm sau vào ngày 4 tháng 9 năm 2005 ngôi trường này
chính thức được khai giảng trở lại với sự đóng góp rất lớn của cựu học sinh
Trường Hàm Nghi trước 1975. Tại thành phố Đà Nẵng có trường Tiểu học Hàm Nghi
và tại quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh có trường Trung học Hàm Nghi. Thành
phố Huế có trường Trung học Hàm Nghi.
No comments:
Post a Comment