Thương thuyền Mary Celeste được phát
hiện trong tình trạng bị bỏ rơi
Ngày 04
tháng 12, 1872
·
1872 – Thương thuyền Mary
Celeste của Hoa Kỳ được phát hiện trong tình trạng bị bỏ rơi, tạo
nên một bí ẩn lớn trong ngành hàng hải.
Mary Celeste
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một
bức hoạ năm 1861 vẽ tàu Amazon (sau đổi tên thành Mary
Celeste) của một họa sĩ chưa xác định.
Phục vụ (Canada)
Tên
gọi: Amazon
Hạ
thủy: 18 tháng 5 năm 1861
Phục vụ (Hoa Kỳ)
Tên gọi: Amazon (1868)
Mary Celeste (1869–85)
Cảng
đăng ký: Chủ yếu ở New York hoặc Boston
Hãng
đóng tàu: Làm lại năm 1872, New York
(không rõ xưởng đóng tàu)
Số
phận: Bị đắm (có chủ ý) ở bờ
biển Haiti, 1885
Đặc điểm khái quát
Dung tải: 198,42 gross ton ban đầu năm 1861
282,28 gross ton
sau khi làm lại năm 1872
Độ dài: 99,3 ft
(30,3 m) ban đầu, 103 ft (31 m) sau khi làm lại
Sườn ngang: 22,5 ft
(6,9 m) ban đầu, 25,7 sau khi làm lại
Độ
sâu: 11,7 ft
(3,6 m) ban đầu, 16,2 ft (4,9 m) sau khi làm lại
Số
boong tàu: 1, ban đầu, 2 sau khi làm lại
Tàu Mary Celeste (hay Marie
Céleste như được đề cập đến bởi Sir Arthur Conan Doyle và những người khác sau ông) là một thương thuyền
hai cột buồm của Mỹ nổi tiếng về việc được phát hiện vào ngày 4 tháng 12 năm
1872 ở Đại Tây Dương, không có người và dường như đã bị bỏ không (thiếu một
thuyền cứu sinh), mặc dù thời tiết lúc đó tốt và thủy thủ đoàn là những người
đi biển rất có kinh nghiệm và năng lực.
Sir Arthur Conan Doyle
Sir Arthur
Conan Doyle (22 tháng 5 năm 1859 – 7 tháng 7 năm 1930) là một nhà văn người Scotland nổi tiếng với tiểu
thuyết trinh thám Sherlock Holmes, tác phẩm được cho là một sáng kiến lớn trong
lĩnh vực tiểu thuyết trinh thám. Các tác phẩm của ông bao
gồm nhiều truyện khoa học giả tưởng, tiểu thuyết lịch sử, kịch lịch sử, tiểu
thuyết, thơ và bút ký.
Tàu Mary Celeste vẫn trong
điều kiện đáp ứng tốt cho một cuộc hành trình trên biển và vẫn đang căng buồm
hướng về phía eo Gibraltar.
Eo biển Gibranta nhìn từ không gian
Eo biển
Gibraltar (tiếng Ả Rập: مضيق جبل طارق; tiếng Tây
Ban Nha: Estrecho de Gibraltar; tiếng Anh: Strait of
Gibraltar) là eo biển phân cách 2 lục địa châu Âu và châu Phi, nối Địa Trung
Hải với Đại Tây
Dương.Có
chiều sâu xấp xỉ 300 m và tại nơi hẹp nhất của mình, chỉ rộng có 14 km,
cho nên nó là một con đường gần nhất giữa châu Âu và châu Phi. Vì thế mà eo biển này đã trở thành một con đường được những
người nhập cư bất hợp pháp của châu Phi chọn để đi vào châu Âu.
Nó đã ở trên biển một tháng cho tới lúc đó
và có thức ăn, nước đủ dùng cho hơn 6 tháng trên boong. Hàng hóa trên tàu gần
như không có hư hại gì và những vật dụng cá nhân của hành khách và thủy thủ
đoàn vẫn ở nguyên vị trí, bao gồm cả những vật có giá trị. Từ thời điểm đó
không có ai nhìn thấy hay nghe được tin tức gì từ thủy thủ đoàn nữa. Sự mất
tích của họ được cho là bí ẩn hàng hải lớn nhất mọi thời đại.
Số phận thủy thủ đoàn của con tàu đã và
đang là chủ đề của nhiều cuộc bàn luận. Các giả thuyết được đưa ra khá nhiều:
từ hơi cồn đến động đất ngầm dưới biển, vòi rồng, tới những giải thích 'siêu
nhiên' gồm sự sống ngoài hành tinh, vật thể bay không xác định (UFO), quái vật
biển, và hiện tượng tam giác quỷ Bermuda, mặc dù Mary Celestekhông biết có đi qua
vùng tam giác Bermuda hay không.
Tam giác
Bermuda (Tam giác Béc-mu-đa), còn gọi là Tam
giác Quỷ, là một vùng biển nằm về phía tây Đại Tây Dương và đã trở thành nổi tiếng nhờ vào nhiều
vụ việc được coi là bí ẩn mà trong đó tàu thủy, máy bay hay thủy thủ đoàn
được cho là biến mất không có dấu tích. Cho đến ngày nay vẫn còn có một số biến
cố chưa được giải thích dứt khoát và vì thế đã trở thành cơ sở cho nhiều tác
phẩm văn học và phim. Suốt 70 năm qua, ở dưới đáy vùng này vẫn còn hàng trăm xác
máy bay và tàu thủy và đến nay ta chỉ tìm lại được khoảng 10% số xác máy bay và
tàu thủy.
Mary Celeste thường được miêu tả như con tàu ma điển hình nhất,
vì nó được phát hiện bị bỏ hoang mà không có lời giải thích thỏa đáng nào, và
tên của nó cũng được sử dụng như từ đồng nghĩa với các trường hợp tàu
ma khác.
Chiếc tàu và sự bỏ
rơi
Mary Celeste là một chiếc thuyền buồm dài 103-foot (31 mét), 282-tấn. Nó
được đóng với cái tên Amazon tại Spencer's Island, Nova
Scotia, năm 1861, chiếc tàu chở hàng lớn đầu tiên được đóng tại vùng này của
Nova Scotia.
Nova Scotia là một tỉnh bang thuộc vùng miền đông
của Canada. Đây là một bán đảo nằm nhô ra
ngoài Đại Tây Dương với một diện tích khoảng 55.000 km².
Thuyền trưởng đầu tiên của con tàu chết ngay từ đầu chuyến đi
đầu tiên của nó. Mọi người cho rằng con tàu này không may mắn vì nhiều chuyến
đi không thành công và nó đã bị đổi chủ nhiều lần. Trong chuyến hải trình đầu
tiên của nó năm 1862, nó đã bị hư hại nặng sau 1 cuộc va chạm tàu. Khi đang
được sửa chữa ở bến cảng, nó phát cháy. Năm 1863, nó vượt Đại Tây Dương lần đầu
tiên và ở eo biển Manche, nó va vào 1 chiếc tàu khác làm chiếc này bị chìm.
Chiếc "Amazon" cũng bị hư hại nặng. Bốn năm sau đó, vào năm 1867, nó
mắc cạn ở đảo Cape Breton, ngoài khơi bờ biển Canada. Con tàu hầu như bị tàn
phá và phải được đóng lại. Một cơn bão đã hất nó lên bãi biển Vịnh Glace, Nova Scotia đầu
năm 1869, và sau đó nó được bán cho một người chủ Mỹ, người này đổi tên con tàu
thành Mary Celeste năm 1869.
Ngày 5 tháng
11 năm 1872, dưới
sự chỉ huy của Thuyền trưởng Benjamin Briggs, chiếc
tàu với hàng hóa là cồn công nghiệp[1][2] của
Meissner Ackermann & Coin đi từ Staten Island, New York[3] tới Genoa, Ý.
Bản đồ Liguria có hình Genova
Genova (tên trong phương ngôn Genova: Zena)
là một thành phố và cảng biển ở phía bắc của Ý, thủ phủ của tỉnh Genova và của miền Liguria.
Ngoài thủy thủ đoàn bảy người, trên tàu còn có thuyền trưởng và
hai hành khách khác: vợ thuyền trưởng, Sarah E. Briggs (nhũ danh Cobb), và cô
con gái hai tuổi, Sophia Matilda, đưa tổng số lên 10 người.
Ngày 4 tháng
12 năm 1872 (một
số báo cáo đưa ra thời điểm ngày 5 tháng
12, vì ở thế kỷ 19 chưa
có múi giờ tiêu chuẩn) chiếc Mary
Celeste được chiếc Dei Gratia, dưới sự chỉ huy của Thuyền
trưởng David Reed Morehouse, người có quen biết Thuyền trưởng Briggs, nhìn
thấy. Chiếc Dei Gratia đã rời cảng New York chỉ sau
chiếc Mary Celeste bảy ngày. Thủy thủ đoàn trên chiếc Dei
Gratia quan sát nó trong hai giờ và kết luận rằng nó đang trôi dạt, dù
chiếc tàu không phát đi tín hiệu cầu cứu. Oliver Deveau, Thuyền phó thứ nhất
chiếc Dei Gratia, dẫn một đội thủy thủ đi thuyền nhỏ sang Mary
Celeste. Ông phát hiện chiếc tàu đã bị từ bỏ, dù nói chung nó vẫn ở
tình trạng tốt.
Dù Deveau đã báo cáo rằng "cả con tàu hoàn toàn lộn xộn và
ẩm ướt." Chỉ có một chiếc bơm đang hoạt động, với rất nhiều nước giữa các
tầng và có khoảng ba feet rưỡi nước trong khoang. Tất cả buồm vẫn được giương
lên và vẫn còn tốt. Hàng hóa vẫn còn nguyên. Còn đủ lương thực cho 6 tháng nữa
và còn nhiều nước ngọt. Tất cả đồ dùng cá nhân của thủy thủ đoàn (áo quần, giày
ống, tẩu thuốc...) đều còn trên tàu. Có một số đồ chơi của trẻ con trên giường
của thuyền trưởng. Còn đồ ăn đồ uống trên bàn trong phòng. Cửa sập phía trước
và buồng lái đều mở toang, mặc dù cửa hầm bị đóng kín. Chiếc đồng hồ không chạy
và la bàn đã bị phá huỷ. Kính lục phân và đồng hồ hàng hải bị
lấy đi, cho thấy khả năng con tàu đã bị bỏ rơi có chủ ý.
Kính lục phân là một dụng cụ phản chiếu trong ngành
hàng hải để đo độ của một góc giữa hai vật trông thấy. Dụng cụ này được
sử dụng lần đầu năm 1730 bởi John Hadley (1682–1744) và Thomas Godfrey (1704–1749) nhưng
nguyên lý này cũng được Isaac Newton (1643–1727) xưa hơn
nữa ghi nhận.
Chiếc thuyền cứu sinh duy
nhất còn lại dường như đã được hạ thủy có chủ định chứ không phải bị cướp đi. Có
2 vết cắt sâu ở mũi tàu, gần đường mớn nước. Có 1 vết chém sâu dọc thành tàu,
vết do rìu chém. Trên boong tàu có những vệt máu khô sẫm, và trên thanh kiếm
của thuyền trưởng ở trong phòng cũng có vết máu.
Số hàng 1701 thùng cồn còn
nguyên vẹn, dù khi số hàng được hạ xuống tại Genoa, chín thùng được thấy đã
rỗng không. Số lương thực và nước uống dự trữ cho sáu tháng đã biến mất. Tất cả
giấy tờ của tàu ngoại trừ nhật ký hàng hải của
thuyền trưởng đã mất. Nhật ký hàng hải được ghi lần cuối ngày 24 tháng
11 tại địa điểm cách 1000 km về phía tây Açores nhưng
con tàu đã chạy theo 1 đường thẳng. Ghi chép tìm được cho thấy con tàu đã tới
đảo Santa Maria tại
Azores ngày 25 tháng 11.
Vị trí của các đảo trong quần đảo
Açores (phát âm tiếng Bồ Đào Nha: [ɐˈsoɾɨʃ]), tên chính thức Vùng Tự trị Açores (Região Autónoma dos Açores), là một trong hai vùng tự trị của Bồ Đào Nha, là một quần đảo bao gồm chín đảo núi lửa nằm ở bắc Đại Tây Dương, cách Bồ Đào Nha lục địa khoảng
1.360 km (850 mi) về phía tây, cách Lisboa 1.643 km (1.021 mi) về phía
tây, cách bờ biển châu Phi 1.507 km (936 mi) và cách Newfoundland, Canada1.925 km (1.196 mi) về phía đông nam.
Thủy thủ đoàn chiếc Dei Gratia được chia làm
hai để điều khiển chiếc Mary Celeste tới Gibraltar, nơi,
trong một phiên tòa, họ đã được vị thẩm phán ca ngợi về lòng can đảm và trình
độ nghề nghiệp. Tuy nhiên, viên chức Tòa án của Bộ hải quân Frederick Solly Flood đã
chuyển những phiên tòa từ vụ cứu hộ đơn giản thành một phiên tòa thật sự xét xử
thủy thủ đoàn chiếc Dei Gratia, mà Flood cho rằng đã có hành động
phản phúc. Cuối cùng, phiên tòa đã trao thưởng cho thủy thủ đoàn, nhưng số tiền
ít hơn nhiều so với số đáng ra phải có, để "trừng phạt" vì cái gọi là
sai sót của họ mà phiên tòa không thể chứng minh.
Số phận thủy thủ
đoàn và hành khách
Không một ai trong số thủy thủ đoàn và hành khách trên
chiếc Mary Celeste được tìm thấy. Số phận của họ có thể không
bao giờ được biết.
Đầu năm 1873 có báo cáo rằng hai chiếc thuyền cứu sinh đã cập bến
tại Tây Ban Nha, trên một chiếc có một xác người và một lá
cờ Mỹ, trên chiếc kia có năm xác. Từng có giả thuyết cho rằng đó là xác của các
thủy thủ chiếc Mary Celeste. Điều này chưa từng được xác nhận bởi
nhân dạng của các xác chết chưa từng được điều tra.
Số phận con tàu
Con tàu tiếp tục được nhiều chủ sử dụng tiếp trong 12 năm nữa
trước khi được chất hàng là giày ống và thức ăn cho mèo trong chuyến đi cuối
cùng với vị thuyền trưởng đang muốn đánh chìm nó, rõ ràng là để đòi tiền bảo
hiểm.
Haiti (phát âm /ˈheɪtiː/; tiếng Pháp Haïti, phát âm: [a.iti]; tiếng Haiti: Ayiti), tên chính thức Cộng
hòa Haiti ([République
d'Haïti] lỗi: {{lang}}: văn bản có thẻ đánh dấu in xiên
(trợ giúp); [Repiblik Ayiti] lỗi: {{lang}}: văn bản có
thẻ đánh dấu in xiên (trợ giúp), Tiếng Việt: Cộng hòa Ha-i-ti[5]), là một quốc gia ở vùng biển Ca-ri-bê nói tiếng Creole Haiti- và tiếng Pháp.
Những tuyên bố khám phá xác tàu đã được đưa ra ngày 9 tháng 8 năm 2001, bởi
một đội thám hiểm do tác giả Clive Cussler đứng
đầu (đại diện National
Underwater and Marine Agency) và nhà quay phim Canada John Davis (chủ
tịch ECO-NOVA Productions of
Canada), nhưng một cuộc phân tích tại Canada đã bác bỏ tuyên bố này. Scott St.
George thuộc Geological Survey của Canada và Phòng thí nghiệm thuộc Tree-Ring
Research tại Đại học Arizona đã phân tích những mẫu do NUMA cung cấp và tuyên
bố là xác tàu Mary Celeste, và phát hiện gỗ đó được lấy từ những cây vẫn con
sống ít nhất một thập kỷ sau khi con tàu đã đắm, như được trích dẫn trên tờ The
London Independent ngày 23 tháng
1 năm 2005.[4]
Suy đoán về Mary
Celeste
Hàng chục giả thuyết đã được đưa ra giải thích số phận bí ẩn của
thủy thủ đoàn và hành khách trên tàu, từ thông thường tới quái dị.
Những giả thuyết kỳ lạ nhất dựa trên số lượng cồn trên tàu.
Briggs chưa bao giờ chở loại hàng hóa nguy hiểm như vậy và không tin tưởng nó.
Chín barrel thiếu có thể đã tạo ra một đám hơi trong khoang tàu. Nhà sử học
Conrad Byers tin rằng Thuyền trưởng Briggs đã ra lệnh mở khoang tàu. Một đám khói
hơi mạnh thoát ra và sau đó là hơi nước. Thuyền trưởng Briggs tin rằng chiếc
tàu sắp nổ và ra lệnh cho mọi người lên xuồng cứu sinh. Trong khi vội vã, ông
đã không kịp nối thuyền cứu sinh với tàu bằng một sợi dây chắc chắn. Gió nổi
lên và thổi tàu đi xa khỏi họ. Những người trên xuồng cứu sinh hoặc đã chết
đuối hoặc đã trôi dạt trên biển và chết vì đói khát và ánh nắng.
Một giả thuyết tinh vi hơn dựa trên lập luận này được nhà sử học
người Đức Eigel Wiese đưa ra năm 2005. Theo ý kiến của ông, các nhà khoa học
tại Đại học London đã tạo
ra một mô hình khoang tàu theo tỷ lệ để xem xét giả thuyết đám khói bốc lửa sau
khi cồn bay hơi. Sử dụng butane làm nhiên liệu và thùng giấy để chứa, khoang
tàu được đóng kín và sau đó hơi được đánh lửa. Lực nổ thổi cánh cửa khoang mở
tung và làm rung động mô hình theo tỷ lệ, bằng cỡ một chiếc quan tài. Ethanol
cháy ở nhiệt độ khá thấp với điểm cháy 13 °C hay 55.4 °F. Chỉ cần một
tia lửa nhỏ, ví dụ như từ hai vật kim loại cọ xát vào nhau. Không thùng chứa
bằng giấy nào bị hư hại, cũng không có vết cháy xém nào. Giả thuyết này có thể
giải thích số lượng hàng vẫn còn nguyên vẹn và vết gãy trên xà tàu, có thể do
một trong những cánh cửa khoang hàng. Đám cháy hơi cồn này trong khoang có thể
đã khá lớn và có thể đủ để khiến thủy thủ đoàn hoảng sợ để rời tàu nhưng nó
không đủ mạnh để để lại dấu vết. Một sợi thừng sờn kéo dưới nước phía sau tàu
có thể là bằng chứng cho thấy thủy thủ đoàn vẫn nối dây với tàu hy vọng đám
cháy sẽ qua. Con tàu bị bỏ lại khi vẫn căng tất cả các buồm và một cơn bão đã
được ghi nhận chỉ một thời gian ngắn sau đó. Có thể sợi dây nối với xuồng cứu
sinh đã đứt vì lực kéo quá mạnh. Một con thuyền nhỏ trong bão không thể so sánh
được với Mary Celeste.
Một số người đưa ra giả thuyết cho rằng cồn chính là nguyên nhân
dẫn tới sự biến mất của thủy thủ đoàn, nhưng với lý do khác. Họ tin rằng thủy
thủ trên tàu Mary Celeste đã vào khoang và uống số lượng cồn
chứa trong đó, phản bội và giết hại Thuyền trưởng Briggs và sau đó đã đánh cắp
một xuồng cứu sinh.
Các giả thuyết khác đưa ra nguyên nhân về một vụ nổi loạn trong
thủy thủ đoàn, giết hại vị thuyền trưởng khắc nghiệt Briggs cùng gia đình ông
rồi sau đó bỏ trốn trên một chiếc thuyền cứu sinh. Tuy nhiên, không hề có bằng
chứng cho thấy Thuyền trưởng Briggs là tuýp người có thể khiến thủy thủ đoàn
của mình nổi loạn. Thuyền phó Albert
Richardson và những thủy thủ còn lại đều có lý lịch tốt.
Một giả thuyết khác cho rằng con tàu đã gặp một vòi rồng, một
cơn bão kiểu lốc xoáy với
một đám mây hình phễu trên biển. Trong trường hợp đó, vùng nước xung quanh tàu
có thể, khi bị hút lên trên, tạo cảm tưởng rằng chiếc Mary Celeste đang đắm. Điều
này có thể giải thích tại sao chiếcMary Celeste lại ướt nhẹp khi
thủy thủ đoàn chiếc Dei Gratia tìm thấy nó, và một sự sợ hãi
ghê gớm của mọi người có thể giải thích vết trầy trên rầm và chiếc la bàn hỏng
được tìm thấy, cũng như chiếc thuyền cứu sinh đã mất. Một giả thuyết khác cho
rằng một trận động đất trên biển đã khiến thủy thủ đoàn
hoảng sợ rời bỏ con tàu. Tuy nhiên, những người đi biển nói chung đồng ý rằng
việc rời bỏ con tàu chỉ là một biện pháp cuối cùng.
Một giả thuyết khác cho rằng một trường hợp nhiễm độc ergot đã
xảy ra do nguyên nhân từ những chiếc bánh mì trên tàu và có thể đã khiến tất cả
những người trên boong tự lao mình xuống biển.
Brian Hicks và Stanley Spicer trong những cuốn sách gần đây đã
nêu lên một giả thuyết hoàn toàn hợp lý rằng Thuyền trưởng Briggs đã mở cửa
khoang để thông gió khi thời tiết biển đang yên tĩnh. Đám hơi cồn độc hại từ
trong khoang có thể đã đầu độc vị thuyền trưởng và thủy thủ đoàn tới mức họ
phải rời bỏ tàu để lên xuồng, chỉ nối với tàu bằng một sợi dây không đủ chắc.
Nếu sợi dây đứt khi thời tiết thay đổi và do gió thì sẽ dễ dàng giải thích được
sự rời bỏ bí ẩn và đột ngột khỏi con tàu với các cánh cửa khoang, cửa sổ mở
tung.
Giấy tờ của Abel Fosdyk
Hơn 40 năm sau khi chiếc Mary Celeste được tìm
thấy, những giấy tờ và tài liệu thuộc về một người đã chết, có trình độ tên là
Abel Fosdyk tuyên bố rằng ông ta đã là một hành khách bí mật trên tàu. Fosdyk
cho rằng một ngày, sau một cuộc tranh cãi vui với một thủy thủ về khoảng cách
một người có thể bơi được với quần áo trên người, Thuyền trưởng Briggs và thủy
thủ đoàn đã nhảy xuống biển, trong khi vợ Thuyền trưởng Briggs và con gái,
Fosdyk, cùng hai thủy thủ khác đứng trên một boong đặc biệt để quan sát cuộc
vui. Bỗng nhiên, cá mập lao
tới tấn công những người ở dưới nước. Những thủy thủ trên tàu chạy lên boong để
quan sát rõ hơn, khiến nó đổ sập và hất tất cả xuống biển. Fosdyk, rơi lên một
mảnh ván, là người duy nhất sống sót. Không thể lên được tàu, ông đã trôi dạt
nhiều ngày trên biển và cuối cùng dạt tới bờ biển Châu Phi. Sợ
hãi vì những gì đã trải qua, ông không bao giờ kể lại cho bất kỳ ai. Câu chuyện
của Fosdyk chưa bao giờ được chứng minh, và nhiều điều không chính xác (như
việc Fosdyk miêu tả các thủy thủ là người Anh) cho thấy đây có thể là chuyện
giả mạo.
Câu chuyện trong
văn hóa đại chúng
Những con tàu vô chủ rất thường thấy ở thế kỷ 19 và không phải hoàn
toàn không được biết tới ở thế kỷ 20 (ví dụ chiếc SS San Demetrio) nhưng
tác phẩm của Solly Flood và sau đó là của Arthur Conan Doyle đã tạo ra một huyền thoại
về Mary Celeste. Năm 1884 Doyle
xuất bản một câu chuyện có tựa đề "J.
Habakuk Jephson's Statement", một phần của cuốn sách The
Captain of the Polestar. Câu chuyện của Doyle dựa theo đúng sự
kiện nguyên bản nhưng thêm nhiều chi tiết hư cấu và
gọi chiếc tàu là Marie Céleste. Đa số những chi tiết hư cấu, và cả
cái tên không chính xác, đã trở thành gần như sự thực trong văn hóa đại chúng
về vụ việc, và thậm chí còn được nhiều tờ báo coi là sự thật. Chúng miêu tả
những tách trà vẫn còn ấm và bữa sáng đang được chuẩn bị khi con tàu được phát
hiện; các chi tiết này đều xuất phát từ câu chuyện của Doyle. Thực tế, lần cuối
cùng nhật ký hàng hải trên tàu được ghi đã từ mười một ngày trước khi nó được
phát hiện.
Câu chuyện hư cấu đã được chuyển thể thành một bộ phim Anh sản
xuất năm 1935 với tên gọi The
Mystery of the Marie Celeste (cũng được gọi là Phantom
Ship), với diễn viên Bela
Lugosi.
Bela Lugosi in The Devil Bat (1940)
Béla Ferenc Dezső Blaskó (20 tháng 10 năm 1882 - 16 tháng 8 năm 1956), được biết đến nhiều hơn với nghệ danh Bela
Lugosi, là một diễn viên người Hungary nổi tiếng với vai Bá tước Dracula trong bộ phim ban đầu năm 1931 và với các
vai diễn khác trong nhiều phim kinh dị.
Ngày 27 tháng
12 năm 1955 chương
trình radio Suspense đã
đưa ra một lời tường thuật hư cấu về sự mất tích bí hiểm, theo đó thủy thủ đoàn
đã rời tàu khi họ cập bờ tại một doi cát ở cửa một con sông châu Phi.
Cuốn sách năm 1956, The Wreck of the Mary
Deare, của Hammond Innes, cũng lấy cảm hứng từ câu chuyện tàu Mary
Celeste.
Nhiều tập trong loạt phim truyền hình Star Trek đã dùng lại câu
chuyện tàu Mary Celeste về một con tàu được tìm thấy mà không
có bất kỳ người nào trên boong.
Tập The Chase (1965)
thuộc loạt phim Doctor Who cho rằng khi những Dalek, vốn có khả năng đi xuyên thời
gian, xuất hiện, các thủy thủ đã hoảng sợ tới mức phải nhảy ra khỏi tàu.
Năm 1973, tác giả viễn tưởng khoa học Philip José Farmer đã
viết một tiểu thuyết, The Other Log Of Phileas Fogg, trong đó hai
nhân vật nổi tiếng nhất của Jules Verne là Phileas Fogg và Captain Nemo đã
chiến đấu với nhau trong một cảnh trên boong tàu Mary Celeste.
Truyện The Langoliers trong
tập Four Past Midnight của Stephen
King cũng đề cập tới tàu Mary Celeste.
Stephen King, tháng 2 năm 2007
Stephen King (sinh ngày 21 tháng 9 năm 1947) là nhà văn người Mỹ thiên về thể loại
kinh dị hoặc giả tưởng rất được tán thưởng khắp thế giới, đặc biệt với mô-típ
biến đổi những tình huống căng thẳng bình thường thành hiện tượng khiếp đảm.
Al Stewart, trong bài hát "Life in Dark
Water" thuộc album Time Passages, có đề
cập tới Marie Celeste, có lẽ để ngụ ý rằng một con tàu khác (tàu
ngầm) cũng đã bị rời bỏ.
Bộ phim kinh dị năm 1990, làm
lại theo phim Night of
the Living Dead, một tấm biển ngoài cánh cửa trước của ngôi nhà trang trại viết
"M. Celeste." Đạo diễn Tom Savini nói trong phần bình luận DVD rằng
đây ám chỉ Mary Celeste. Các chi tiết khác, gồm cả các cảnh khói
vẫn đang bốc lên từ điếu thuốc trong gạt tàn và thức ăn vẫn đang được nấu trên
bếp, nhưng tất cả mọi người đã biến mất.
Một tập năm 1996 của
loạt phim The Real
Adventures of Jonny Quest với tựa đề "In the
Wake of the Mary Celeste" cũng đề cập tới con tàu.
Bài hát "Sinking", từ album La Peste 2000 Alabama 3 nói
về một con tàu bị bỏ rơi ngoài biển sau khi thuyền trưởng tàu chết vì dùng
thuốc quá liều. Trong bài hát, những lời cuối của thuyền trưởng là: Cẩn
thận, đừng nhìn vào Mary Celeste, this quest of ours is
cursed.
Trong truyện ngắn And I Only Am Escaped to Tell Thee của
Roger Zelazny, một thủy thủ đã thoát khỏi con tàu Flying
Dutchman bị nguyền rủa để rồi lại được Mary Celeste cứu
lên.
Dean Koontz viết cuốn sách, Phantoms giải thích
sự biến mất đồng loạt của mọi người tương tự Mary Celeste. Trong
cuốn sách ‘Kẻ thù Cũ’ là nguyên nhân. Nó sống dưới đáy biển và chủ yếu ăn sinh
vật biển, mỗi lần gặp một con tàu nó ăn thịt toàn bộ thủy thủ và hành khách
trên boong.
Trong Babylon 5 một
con tàu chở hàng tên gọi Marie Celeste được nhắc đến trong
phần âm thanh nền. Đặc biệt, đó là con tàu chở Thomas (aka Jinxo) đi trong
phần Grail.
Mary Celeste xuất hiện trong Vampire Hunter D:
Raiser of Gales của Hideyuki Kikuchi. D
trốn khỏi một nhà tù đa chiều, gây ra sự xé rách chuỗi
liên tục không thời gian. Điều này khiến nhiều người biến mất khỏi
lịch sử trước khi chuỗi không thời gian hồi phục, thủy thủ đoàn Mary
Celeste trong số này.
Tiểu thuyết năm 1973 của Thomas Pynchon, "Gravity's
Rainbow", có đề cập một đoạn ngắn tới Mary-Celeste--dù viết là
Marie-Celeste--so sánh nó với các đường hầm Mittelwerke: "Dù được tìm thấy
trong tình trạng trôi dạt và ghê rợn, nhiều dấu hiệu cho thấy con người vừa có
mặt tại đó, đây không phải là con tàu huyền thoại Marie-Celeste--nó không thể
ngăn nắp như vậy..."
Biểu thời gian
·
1861 - Amazon được đóng
·
1869 - Amazon đổi tên thành Mary
Celeste
·
1872 - Chạy từ Thành phố New York tới Genoa, Ý ngày 7 tháng 11
·
1872 - Nhật ký hàng hải thuyền trưởng được ghi lần cuối ngày 24
tháng 11
·
1872 - Bảng tin trên tàu được ghi lần cuối ngày 25 tháng 11
·
1872 - Chiếc tàu được tìm thấy trong tình trạng bị từ bỏ ngày 4
tháng 12
·
1885 - Tàu đắm trên bãi đá ngầm khi thuộc quyền chỉ huy của thuyền
trưởng Parker ngày 3 tháng 1
·
2001 - Xác tàu được tìm thấy tại Haiti (bị nghi ngờ)
Bảng kê
Thủy thủ đoàn và hành khách được liệt kê trong Nhật ký hàng hải
gồm:
Thủy thủ
đoàn
Tên Chức vụ Quốc tịch Tuổi
Benjamin S. Briggs Thuyền trưởng Mỹ 37
Albert C Richardson Thuyền
phó Mỹ 28
Andrew Gilling Thuyền
phó thứ hai Đan Mạch 25
Edward W Head Phục vụ
& Đầu bếp Mỹ 23
Volkert Lorenson Thủy
thủ Đức 29
Arian Martens Thủy
thủ Đức 35
Boy Lorenson Thủy
thủ Đức 23
Gottlieb Gondeschall Thủy thủ Đức 23
Hành
khách
Tên Địa vị Tuổi
Sarah Elizabeth Briggs Vợ thuyền
trưởng 30
Sophia Matilda Briggs Con gái 2
Thuyền trưởng Benjamin Briggs
Thuyền phó thứ nhất Albert
Richardson
Sarah Briggs
Sophia Briggs
No comments:
Post a Comment