Nghĩa tử là nghĩa tận (2/2): Nghĩa trang Mạc Đĩnh
Chi
Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
Sài Gòn xưa nổi đình nổi đám nhất trong thế giới của người chết là Nghĩa
trang Mạc Đĩnh Chi. Nghĩa trang rộng khoảng 7,5 hecta và được coi là nơi an nghỉ
của giới ‘quý tộc’ Sài Gòn trước khi thành phố đổi tên. Nơi đây nhiều nhân vật
nổi tiếng một thời như Tổng thống Ngô Đình Diệm, Đại tướng Lê Văn Tỵ "đã từng"
yên nghỉ.
Tôi dùng chữ "đã từng" vì tưởng như thế là yên thân với ‘mồ yên mả
đẹp’ nhưng có ai ngờ lại phải bốc mộ đi dời để biến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
thành công viên Lê Văn Tám ngày nay.
Nghĩa trang MĐC và bức tường rào phía đường Hiền Vương (nay là Võ Thị Sáu)
Nhân đây cũng nên nói qua về nhân vật được ca tụng là ‘tuổi trẻ anh hùng’,
‘ngọn đuốc sống’ Lê Văn Tám theo sách giáo khoa hiện đang sử dụng trong hệ thống
giáo dục ngày nay.
Ngày 19/10/1945 (?), cậu bé Lê Văn Tám (16 tuổi) đã tẩm xăng
vào người rồi xông vào đốt kho xăng Thị Nghè Simon Piétri (?) của thực dân Pháp
cách đấy mấy chục mét.
Về câu chuyện anh hùng này, Phan Huy Lê, giáo sư sử học Đại học Quốc gia Hà
Nội, trong bài viết Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám đã kể lại theo lời dặn
của Giáo sư Trần Huy Liệu khi đó đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên
truyền trong Chính phủ lâm thời:
“Nhân vụ kho xăng của địch ở Thị Nghè bị đốt cháy vào khoảng tháng 10/1945
và được loan tin rộng rãi trên báo chí trong nước và đài phát thanh của Pháp,
đài BBC của Anh; nhưng không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho xăng
nên tôi [tức GS Trần Huy Liệu – chú thích của NNC] đã "dựng" lên câu
chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào người rồi xông vào đốt kho xăng địch
cách đấy mấy chục mét”.
Đài BBC đưa tin và hôm sau bình luận: “Một cậu bé tẩm xăng
vào người rồi tự đốt cháy thì sẽ gục ngay tại chỗ, hay nhiều lắm là chỉ lảo đảo
được mấy bước, không thể chạy được mấy chục mét đến kho xăng”. Ông Liệu chắc đã
phải tự trách mình vì thiếu cân nhắc về logic nên có chỗ chưa hợp lý.
Thời Nam Bộ kháng chiến, có rất nhiều tấm gương hy sinh vì Tổ quốc cho nên
‘dựng’ chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng
Gióng (Phù Đổng Thiên Vương), còn việc đặt tên Lê Văn Tám có lẽ vì họ Lê Văn rất
phổ biến và Tám là nghĩ đến Cách mạng tháng Tám (?).
Ông Liệu giữ chức Bộ trưởng Bộ Thông tin tuyên truyền trong Chính phủ lâm
thời từ ngày 28/8/1945 đến ngày 1/1/1946, rồi Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Cổ động
trong Chính phủ liên hiệp lâm thời từ ngày 1/1/1946 cho đến khi thành lập Chính
phủ liên hiệp kháng chiến tại kỳ họp Quốc hội ngày 2/3/1946. Ông Liệu là một
con người rất trung thực, không muốn để lại một sự ngộ nhận trong lịch sử do
mình tạo nên trong một bối cảnh và yêu cầu bức xúc của cuộc kháng chiến.
Theo GS Lê, ông Liệu đã căn dặn: “Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là
nhà sử học, nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa. Trong câu chuyện,
GS còn tiên lượng là biết đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn
Tám hay có người lại tự nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng.
Đây chính là điều lắng đọng sâu nhất trong tâm trí mà tôi [tức GS Lê – chú
thích của NNC] coi là trách nhiệm đối với GS Trần Huy Liệu đã quá cố và đối với
lịch sử”.
Nói đi thì cũng phải nói lại. Trong loạt bài viết trên báo Sài Gòn Giải
phóng có nêu một số nguồn tham khảo cho biết Lê Văn Tám là một nhân vật có thật.
Theo nhà văn Trần Trọng Tân, với tư liệu Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định
kháng chiến (1945 - 1975) của Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh (1994) thì có
thể khẳng định kho đạn Thị Nghè đã bị nổ hai lần vào ngày 17-10-1945 và ngày
8-4-1946. Vụ nổ ngày 17-10-1945 gắn liền với Cây đuốc sống Lê Văn Tám là có thực.
Kho đạn hay kho xăng gần cầu Thị Nghè trong thời gian 1945-1946 đã từng bị
cháy đến hai lần? Lần đầu xảy ra vào ngày 17-10-1945, khi đó thiếu niên Lê Văn
Tám, dưới sự chỉ đạo của Lê Văn Châu, đã đột nhập vào kho đạn, mang theo diêm
và xăng. Khi rút lui, Lê Văn Tám bị dính xăng và bốc cháy như một cây đuốc sống.
Biểu tượng ‘ngọn đuốc sống Lê Văn Tám’ đã được quảng bá rộng rãi, đi sâu
vào tâm thức của mọi người, tiêu biểu cho tinh thần hi sinh anh dũng, ý chí xả
thân vì nước của quân dân trong buổi đầu của Nam kỳ Kháng chiến chống thực dân
Pháp. Một số đường phố, trường học, công viên hiện nay đã mang tên Lê Văn Tám
nhưng tiếc thay vẫn còn nhiều nghi vấn, không biết đó là hư cấu vì mục đích
tuyên truyền hay chuyện có thật.
Bức tượng về ‘ngọn đuốc sống’ trong công viên Lê Văn Tám, nơi trước đây là
Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi
Cũng tại Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, tiền thân của công viên Lê Văn Tám ngày
nay, vốn được coi dành riêng cho quân đội Sài Gòn, có đến hàng trăm ngôi mộ chiến
sĩ tình báo ‘cách mạng’, ‘binh vận’ từng đóng vai quan chức, quân nhân tư bản của
chế độ Sài Gòn. Khi nằm xuống, họ vẫn mang cái ‘vỏ’ cũ... Thế là dù cách mạng
hay phản cách mạng, những người đã nằm xuống đều có chung ‘thân phận’. Đó là
thân phận của người chết.
Tổng thống Ngô Đình Diệm chết trong thiết vận xa M113
Sau khi bị lực lượng đảo chính giết vào tháng 11/1963, hai anh em Ngô Đình
Diệm, Ngô Đình Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Áo quan của ông Diệm
hình hộp, áo quan của ông Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ này
giải thích, người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc
hạng tốt dành cho ông Diệm, còn chiếc hạng vừa dành cho ông Nhu.
Mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu khá đặc biệt, chỉ có tấm đan bê tông
đặt bên trên cao hơn mặt đất vài chục phân. Suốt từng ấy năm cho đến 1975, hai
ngôi mộ nằm lọt thỏm, đìu hiu giữa nghĩa trang bộn bề những ngôi mộ kiên cố.
Quan tài của ông Diệm nằm bên phải, của ông Nhu bên trái trước khi được
chôn
Những kẻ cơ hội quay lưng với gia đình họ Ngô đã đành, những người thân cũng
ngại đến thăm viếng vì sợ chính quyền thời đó dòm ngó. Năm 1964, bà Phạm Thị
Thân, thân mẫu của hai ông mất, đám tang thậm chí còn không người đưa tiễn!
Hai ông Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu được chôn trong kim tĩnh (hộp bê tông
dày và kín) rất khô ráo. Khi cải lên, thi thể của cả hai chỉ khô lại chứ không
tan rữa, vẫn có thể nhận ra từng người. Đầu hai người đều quấn băng trắng in dấu
máu đen từ những vết thương trước khi chết. Khi băng được mở, vết máu vẫn còn cứng.
Sau gáy ông Nhu có một vết thương khá lớn, có thể do va đập.
Trong thời gian di dời, có một người phụ nữ tên là Hạnh từ Huế vào, xưng là
cháu, nhận thi hài hai ông Diệm-Nhu và được đem đi cải táng tại nghĩa trang Lái
Thiêu (Bình Hòa, Thuận An, Bình Dương). Mộ ông Ngô Đình Cẩn (được chôn tại nghĩa
trang sân bay Tân Sơn Nhất sau khi bị xử bắn vào năm 1965), và mộ bà thân mẫu
Phạm Thị Thân cũng được quy tụ về Lái thiêu.
Trong khu đất rộng hàng nghìn hecta với những rặng cây lớn xanh và mát, mộ
gia đình họ Ngô nằm cùng một dãy. Mộ bà Luxia Phạm Thị Thân nằm ở giữa, mộ hai
ông Diệm, Nhu hai bên nhưng trên bia chỉ khắc Gioan Baotixita Huynh (ông anh)
và Giacobe Đệ (ông em). Cách mộ ông Nhu một quãng là mộ ông Cẩn, trên bia có khắc
Jean Baptiste Cẩn.
Mộ ông Ngô Đình Diệm (trên bia khắc tên ‘Gioan Baotixita Huynh’)
Mộ ông Ngô Đình Nhu (trên bia khắc tên ‘Giacobe Đệ’)
Mộ bà Luxia Phạm Thị Thân (nằm giữa mộ hai người con, Huynh và Đệ)
Mộ ông Ngô Đình Cẩn
(trên bia chỉ đề Jean Baptiste Cẩn)
Tại Mạc Đĩnh Chi, ngoài mộ hai ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu còn có mộ
thân phụ của các ông Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, một số tướng lĩnh cao nhất,
dòng dõi hoàng tộc nhà Nguyễn, cùng hàng nghìn nhân vật tên tuổi trong chính
quyền. Trước năm 1975, một số người vì muốn thân nhân đã khuất được danh giá, bản
thân được chút tiếng tăm, phải cố chạy chọt giành lấy một khoảnh đất trong Nghĩa
trang Mạc Đĩnh Chi.
Một người từng cải táng mộ thân nhân tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi vào năm
1983 là bà Thanh Triều. Bà có chồng là sĩ quan VNCH và cháu là Hồng Ngọc (vợ của
ca sĩ Elvis Phương) chôn tại đây. Chồng bà bị tử nạn khi máy bay rơi trên đường
từ Đà Nẵng về Đà Lạt năm 1973. Còn cô cháu Hồng Ngọc mất năm 1970 do tai nạn giao
thông.
Bà Triều nhớ lại: "Tôi nhận được thông báo di dời nghĩa trang Mạc Đĩnh
Chi vào đầu tháng 5/1983. Thời gian di dời là 3 tháng. Nói thật, tôi thấy bàng
hoàng, vì khi chôn thì xác định rằng chôn vĩnh viễn. Nhưng sau, suy nghĩ cạn
lý, tôi thấy việc này không đừng được. Nghe đâu mấy ổng trước [chính phủ Sài
Gòn – chú thích của NNC] đã nhiều lần định làm rồi, nhưng cứ nán lại vì sợ đụng
ông nọ, ông kia".
Bà Triều thuê đội bốc mộ cải táng. Khi cải lên, do chôn trong kim tĩnh, lại
chôn trong vùng đất cao và khô, nên cả hai thi hài vẫn giữ nguyên hình dạng. Bà
cho đem đi thiêu cả hai. Từ đó đến giờ, bà gửi tro cốt chồng tại chùa Phổ
Quang. Bà vẫn thường xuyên lên chùa, hương hỏa cho chồng.
Còn phần tro cốt của Hồng Ngọc đã được ca sĩ Elvis Phương mang ra nước
ngoài để tiện việc thờ cúng. Không biết có chính xác hay không, theo nhiều người
kể lại, trên mộ của Hồng Ngọc tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi hồi đó, Elvis Phương
có khắc dòng chữ “Ngọc chết rồi Phương chơi với ai?”.
Ca sĩ Elvis Phương trước năm 1975
Trước 75, Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, còn được gọi qua tên Đất thánh Tây, là
một khu đất bao bọc bởi bức tường vôi màu vàng cũ kỹ nằm ngay giữa trung tâm sầm
uất của Sài Gòn xưa. Vì là nghĩa trang của giới quý tộc nên một khoảnh đất nhỏ
trong Mạc Đĩnh Chi có giá bằng cả một gia tài của một người sống giữa đất Sài
Gòn.
Mộ bia tại đây thường là những tấm đá cẩm thạch, đá hoa cương bóng lộn với
dòng chữ R.I.P (rest in peace), có những câu đậm mùi triết lý “Hãy nhớ mình là
cát bụi và sẽ trở về với cát bụi” hoặc “Người sẽ chết tưởng nhớ người đã chết”...
Nghĩa tử là nghĩa tận, ‘người sẽ chết’ đã lo cho ‘người đã chết’ bằng những mộ
phần hào nhoáng trị giá gấp trăm, thậm chí gấp nghìn lần, những căn nhà ọp ẹp dựng
trên bờ kinh nước đen Nhiêu Lộc.
Truy lùng VC tại nghĩa trang MĐC vào Tết Mậu Thân 1968
Công bằng mà nói, việc biến nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi thành công viên Lê Văn
Tám - dù có đụng chạm đến quyền lợi của một số người có thân nhân nằm trong đó
- vẫn là một việc phải làm khi đất đai tại trung tâm thành phố ngày càng thu hẹp,
dân số ngày càng gia tăng.
Chắc hẳn những người đã an nghỉ tại Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi cũng rộng lòng
thông cảm cho lớp hậu duệ ngày nay!
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người – Chương 4: Thời quân ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống
lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
***
No comments:
Post a Comment