Ngôn ngữ (2/4)
Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Vay mượn từ tiếng Pháp
(Tiếp theo)
Sang đến thời kỳ “một trăm năm đô hộ giặc Tây” (Trịnh Công Sơn, Gia tài của
Mẹ), Việt Nam nói chung và Sài Gòn nói riêng đã trở thành thuộc địa của Pháp. Cũng
vì thế, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống văn hóa, xã hội của
người Việt. Tiếng Pháp được sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Chính phủ Bảo
hộ và trong giảng dạy ở nhà trường, bên cạnh đó là các loại sách báo thâm nhập
đời sống thường ngày của người dân.
Chữ Quốc ngữ, vốn được tạo ra bởi một số nhà truyền giáo Tây phương, đặc biệt
là linh mục Alexandre de Rhodes (tác giả cuốn Từ điển Việt-Bồ-La năm 1651), với
mục đích dùng ký tự Latinh làm nền tảng cho tiếng Việt. “Latinh hóa” chữ Việt
ngày càng được phổ biến để trở thành Quốc ngữ, chịu ảnh hưởng bởi những thuật
ngữ, từ ngữ mới của ngôn ngữ Tây phương, nổi bật nhất là văn hóa Pháp.
Linh mục Alexandre de Rhodes
Khi chiếm được ba tỉnh Nam Bộ, người Pháp đã nắm trong tay một công cụ vô
cùng hữu hiệu để truyền bá văn hoá đồng thời chuyển văn hoá Nho giáo sang văn
hoá Phương Tây. Tờ Gia Định Báo là tờ báo đầu tiên được phát hành bằng chữ Quốc
ngữ vào năm 1865, khẳng định sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc Ngữ như là
chữ viết chính thức của nước Việt Nam sau này.
Đối với người bình dân, việc tiếp nhận tiếng Pháp đến một cách rất tự
nhiên. Người ta có thể nói “Cắt tóc,
thui dê” để chỉ ngày Quốc khánh Pháp 14/7, Quatorze Juliet. Người ta có thể
dùng tiếng Tây “bồi” nhưng lại không cảm thấy xấu hổ vì vốn liếng tiếng Pháp của
mình vốn chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Để tả con cọp, người ta có thể dài
dòng văn tự: “tí ti giôn, tí ti noa, lủy xực me-xừ, lủy xực cả moi”. Diễn nôm
câu này là một chút màu vàng (jaune), một chút màu đen (noir), nó ăn thịt ông
(monsieur), nó ăn thịt cả tôi (moi).
Nhân đây cũng xin nói thêm về những đại danh từ nhân xưng như toa (anh, mày
– toi), moa hay mỏa (tôi, tao – moi), en hay ẻn (cô ấy, chị ấy – elle), lúy hay
lủy (anh ấy, hắn – lui), xừ hay me-xừ (ông, ngài – monsieur)... Học trò trường
Tây, những nhà trí thức khoa bảng hay cả những kẻ tỏ ra “thời thượng” ngày xưa
thường dùng những đại từ này. Cũng vì thế có một câu mang tính cách châm chọc:
“Hôm qua moa đi xe lửa, buồn tiểu quá nên moa phải đái trên đầu toa” (toa ở đây
có 2 nghĩa: toa xe lửa nhưng cũng có ý là toi (anh) trong tiếng Pháp).
Nói thêm về hỏa xa, người Pháp xây dựng đường xe lửa đầu tiên ở Việt Nam tại
Sài Gòn từ năm 1881. Đây là đoạn đường ray (rail) từ Cột cờ Thủ Thiêm đến bến
xe Chợ Lớn, dài 13km. Mãi đến năm 1885 chuyến xe lửa đầu tiên mới được khởi
hành và một năm sau, tuyến đường Sài Gòn-Mỹ Tho dài 71km bắt đầu hoạt động. Sau
đó, mạng lưới đường sắt được xây dựng trên khắp lãnh thổ Việt Nam, dùng kỹ thuật
của Pháp với khổ đường ray 1 mét. Tính đến năm 1975 miền Nam có khoảng 1.240km
đường ray nhưng vì chiến cuộc nên chỉ được sử dụng khoảng 60%.
Nhà ga cũng có xuất xứ từ tiếng Pháp gare. Ga là công trình kiến trúc làm
nơi cho tàu hoả, tàu điện hay máy bay đỗ để hành khách lên xuống hoặc để xếp dỡ
hàng hoá. Từ sự vay mượn này ta có thêm những từ ngữ như sân ga, trưởng ga, ga
chính, ga xép… Nhân nói về ga tưởng cũng nên nhắc lại động từ bẻ ghi
(aiguiller) tức là điều khiển ghi (aiguille) cho xe lửa chuyển sang đường khác.
Trong tiếng Việt, bẻ ghi còn có nghĩa bóng là thay đổi đề tài, chuyển từ chuyện
mình không thích sang một đề tài khác.
Xe lửa ngày xưa
Có những từ ngữ xuất xứ từ tiếng Pháp nhưng vì lâu ngày dùng quen nên người
ta cứ tưởng chúng là những từ “thuần Việt”. Chẳng hạn như cao su (caoutchouc),
một loại cây công nghiệp được người Pháp du nhập vào Việt Nam qua hình thức những
đồn điền tại miền Nam. Ngôn ngữ tiếng Việt rất linh động trong cách dùng từ ngữ
cao su qua các biến thể như giờ cao su (giờ giấc co dãn, không đúng giờ), kẹo
cao su (chewing-gum), bao cao su (còn gọi là “áo mưa” dùng để tránh thai hoặc
tránh các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục)…
Nhà băng (banque) là một chữ quen dùng trong ngôn ngữ hàng ngày còn xà bông
cũng là loại chữ dùng lâu ngày thành quen nên ít người để ý xuất xứ của nó là từ
tiếng Pháp, savon. Ở miền Bắc, xà bông được cải biên thành xà phòng, là chất
dùng để giặt rửa, chế tạo bằng cách cho một chất kiềm tác dụng với một chất
béo. Nổi tiếng ở Sài Gòn xưa có xà bông Cô Ba của Trương Văn Bền, dùng dầu dừa
làm nguyên liệu chính.
Chúng ta thấy ngôn ngữ Việt vay mượn từ tiếng Pháp trong rất nhiều lãnh vực.
Về ẩm thực, tiếng Việt thường mượn cả cách phát âm đến tên của các món ăn có xuất
xứ từ phương Tây. Vào nhà hàng, người phục vụ đưa ra mơ-nuy (thực đơn – menu)
trong đó có những món như bít-tết (chữ bifteck của Pháp lại mượn từ nguyên thủy
tiếng Anh – beefsteak), những thức uống như bia (rượu bia – bière, được chế biến
từ cây hốt bố hay còn gọi là hoa bia – houblon), rượu vang (rượu nho – vin)…
Về thịt thì có xúc-xích (saucisse), pa-tê (paté), giăm-bông (jambon), thịt
phi-lê (thịt thăn, thịt lườn – filet). Các món ăn thì có ra-gu (ragout), cà-ri
(curry)… Khi ăn xong, khách xộp còn cho người phục vụ tiền puộc-boa (tiền thưởng
– pourboire). Ngày nay từ boa hay bo được dùng phổ biến với ý nghĩa cho tiền
thưởng, hay còn gọi là tiền phong bao hoặc tiền phục vụ.
Từ rất lâu, ở Sài Gòn xuất hiện các loại bánh mì theo kiểu Pháp, miền Bắc lại
gọi là bánh tây với hàm ý du nhập từ Pháp. Có nhiều loại bánh đặc biệt như bánh
mì ba-ghét (loại bánh mì nhỏ, dài – baguette),
bánh pa-tê-sô (một loại bánh nhân thịt, ăn lúc nóng vừa dòn vừa ngon –
pathé chaud), bánh croát-xăng (hay còn gọi là bánh sừng bò – croissant).
Bánh “pathé chaud”
Người Sài Gòn thường ăn sáng với bánh mì kèm theo nhiều kiểu chế biến trứng
gà như ốp-la (trứng chỉ chiên một mặt và để nguyên lòng đỏ – oeuf sur le plat),
trứng ốp-lết (trứng tráng – omelette) hoặc trứng la-cóc (trứng chụng nước sôi,
khi ăn có người lại thích thêm một chút muối tiêu – oeuf à la coque).
Món không thể thiếu trong bữa ăn sáng là cà phê (café). Cà phê phải được lọc
từ cái phin (filtre à café) mới đúng điệu. Người miền Bắc ít uống cà phê nên
sau năm 1975 vào Sài Gòn nhiều người đã mô tả cái phin cà phê một cách rất “gợi
hình”: “cái nồi ngồi trên cái cốc”.
Ngôn ngữ về trang phục cũng chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tiếng Pháp. Bình
thường hàng ngày người ta mặc áo sơ-mi (chemise), cổ tay có cài khuy măng-sét
(manchette). Khi đi tiệc tùng hoặc hội họp thì mặc áo vét (vest) hay bộ
vét-tông (veston) kèm theo chiếc cà-vạt (cravate) trên cổ áo sơ mi. Trời hơi lạnh có thể mặc bên trong áo vét một
chiếc gi-lê (gilet) và hai tay mang găng (gants) cho ấm.
Ngay cả quần áo lót bên trong cũng mượn từ tiếng Pháp. Phụ nữ trên thì mang
xú-chiêng (nịt ngực – soutien-gorge) dưới thì có xì-líp (slip). Nam giới thì mặc
áo may-ô (maillot) bên trong áo sơ-mi. Mặc quần thì phải có xanh-tuya (dây nịt
– ceinture) và khi trời nóng thì mặc quần sóc (quần ngắn, tiếng Pháp là short
được mượn từ tiếng Anh shorts).
Trang phục có thể được may từ các loại cô-tông (vải bông – coton) hoặc bằng
len (làm từ lông cừu – laine). Trên đầu có mũ phớt (feutre, một loại mũ dạ), mũ
be-rê (béret, một loại mũ nồi)… dưới chân là đôi dép săng-đan (sandales), sau
này người Sài Gòn lại chế thêm dép sa-bô (sabot nguyên thủy tiếng Pháp là guốc).
Mũ phớt
Đi lính cho Tây thì được phát đôi giày săng-đá (giày của lính – soldat). Loại
lính nhảy dù, biệt kích (ngày nay là đặc công) gọi là còm-măng-đô (commando). Một
đoàn xe quân sự có hộ tống được gọi là công-voa (convoi, trông cứ như con voi
trong tiếng Việt!). Thuật ngữ quân sự chỉ những công sự xây đắp thành khối vững
chắc, dùng để phòng ngự, cố thủ một nơi nào đó được gọi là lô-cốt có xuất xứ từ
blockhaus. Ngày nay, chữ lô cốt còn được dùng chỉ những nơi đào đường, thường
được rào chắn, vây kín mặt đường, cản trở lưu thông.
Xưa kia cảnh sát được gọi qua nhiều tên: mã-tà (xuất xứ từ tiếng Pháp
matraque, có nghĩa là dùi cui), sen đầm (gendarme), phú-lít (police), ông cò
(commissaire)… Lực lượng thuế quan (ngày nay gọi là hải quan) được gọi là đoan
(douane), lính đoan còn có nhiệm vụ đi bắt rượu lậu là một mặt hàng quốc cấm thời
Pháp thuộc.
Nông phẩm thì có đậu cô-ve (còn gọi tắt là đậu ve – haricot vert), đậu
pơ-tí-poa (đậu Hòa Lan có hột tròn màu xanh – petits-pois), bắp sú (bắp cải –
chou), súp-lơ (bông cải – chou-fleur), xà lách (salade), cải xoong (còn gọi là
xà lách xoong – cresson), cà-rốt (carotte), ác-ti-sô (artichaut)…
Tiếng Tây cũng đi vào âm nhạc. Từ điệu valse, tango… đến đàn piano (dương cầm),
violon (vĩ cầm), kèn harmonica (khẩu cầm)... Ở các đăng-xinh (khiêu vũ trường –
dancing) luôn có ọc-két (ban nhạc – orchestre) chơi nhạc và xuất hiện một nghề
mới gọi là ca-ve (gái nhẩy – cavalière). Ngày nay người ta dùng từ ngữ ca-ve với
ý chỉ tất cả những cô gái làm tiền, khác hẳn với ý nghĩa nguyên thủy của nó.
Người phương Tây dùng nhiều sữa và các sản phẩm của sữa nên đã đưa vào ngôn
ngữ tiếng Việt những từ ngữ như bơ (beurre), pho-mát (fromage), kem (crème)...
Nổi tiếng ở Sài Gòn có hai nhãn hiệu sữa Ông Thọ (Longevity) và Con Chim
(Nestlé) như đã nói ở phần trên.
Có người cắc cớ thắc mắc, đàn ông mà lại là ông già thì làm sao có sữa? Xin
thưa, hình tượng “Ông Thọ chống gậy” trên hộp sữa chỉ muốn nói lên tuổi thọ
(longévité) của người dùng sữa. Trường hợp của Nestlé cũng vậy. Con Chim thì
làm gì có sữa? Thực ra thì logo của Nestlé là một tổ chim (gồm chim mẹ và 2
chim con) nhưng người Việt mình cứ gọi là sữa Con Chim cho tiện.
Logo của Nestlé
Cũng vì thế mới có nhiều câu chuyện khôi hài về sữa Con Chim. Chú Ba Tàu,
chủ tiệm “chạp phô”, giải thích vì sao sữa Con Chim lại bán với giá mắc hơn những
sữa khác: “Sữa con bò vì có nhiều vú nên rẻ, sữa mẹ chỉ có 2 vú nên đắt nhưng
Con Chim nhỏ chút xíu, vắt được 1 lon sữa là quý lắm thì phải mắc tiền nhất chớ!”.
Các ông lại giải thích một cách hóm hỉnh khi các bà thắc mắc Con Chim làm
gì có sữa: “Tại mấy bà không để ý đấy thôi, con chim khi hứng chí cũng tiết ra
một thứ sữa màu trắng đục, đó không phải là sữa thì là gì?”.
Thế mạnh của Nestlé là các sản phẩm sữa bò khác như Núi Trắng (Lait
Mont-Blanc) và sữa bột Guigoz. Ngày xưa, những gia đình trung lưu đều nuôi con
bằng sữa bột Guigoz. Tôi vẫn còn nhớ cảm giác khi ăn vụng một thìa Guigoz của
em út: vừa bùi, vừa béo, những hạt sữa nhỏ ly ty như tan ngay trong miệng.
Sữa bột Guigoz được chứa trong một cái lon bằng nhôm, cao 15cm, có sọc
ngang, bên trong lại có sẵn thìa để giúp người pha dễ đo lường. Khi dùng hết bột,
các bà nội trợ không vứt lon như những loại sữa khác vì lon Guigoz có nắp đậy rất
kín nên được “tái sử dụng” trong việc đựng đường, muối, tiêu, bột ngọt…
Lon Guigoz
Những người thiết kế lon Guigoz chắc hẳn chưa bao giờ nghĩ cái lon lại có
nhiều công dụng sau khi sữa bột ở bên trong đã dùng hết. Lon Guigoz đã theo
chân những tù nhân cải tạo như một vật “bất ly thân”. Những người “tưởng đi học
có 10 ngày” mang theo lon Guigoz để đựng các vật dụng linh tinh như bàn chải, kem
đánh răng, vài loại thuốc cảm cúm, nhức đầu để phòng khi cần đến.
Lon Guigoz thường được chúng tôi gọi tắt là “lon gô”. Học tập càng lâu lon
gô càng tỏ ra “đa năng, đa hiệu”. Muốn múc nước từ giếng lên thì dùng gô làm
gàu, buổi sáng thức dậy dùng gô làm ly đựng nước súc miệng, nhưng gô còn tỏ ra
đặc biệt hữu ích khi dùng như một cái nồi để nấu nước, thổi cơm, luộc măng (lấy
ở trên rừng), luộc rau, luộc khoai mỳ (“chôm chỉa” khi đi “tăng gia sản xuất”)…
nghĩa là làm được tất cả mọi công việc bếp núc.
Chúng tôi ở trong một căn cứ cũ của Sư đoàn 25 tại Trảng Lớn (Tây Ninh) nên
có cái may là còn rất nhiều vỏ đạn 105 ly. Người cải tạo săn nhặt những vỏ đạn
về và chế thành một cái lò “dã chiến” và lon gô để vào trong lò vừa khít, tưởng
như 2 nhà thiết kế vỏ đạn và lon gô đã ăn ý với nhau “từng centimét” ngay từ
khâu thiết kế ban đầu! Ai chưa có lon gô thì nhắn gia đình tìm để đựng đồ ăn mỗi
khi được vào trại “thăm nuôi”.
Sau 30/4/75 lon gô trở nên hữu dụng vì công nhân, sinh viên, học sinh dùng
lon gô để đựng cơm và thức ăn cho bữa trưa. Người Sài Gòn thường đeo một cái
túi đựng lon gô khi đi làm, một hình ảnh không thể nào quên của “thời điêu
linh” sau 1975. Tình cờ tôi bắt gặp trang web (http://www.teslogos.com/ancienne_boite_de_lait_guigoz_collector_collection.html)
của Pháp quảng cáo bán lon sữa Guigoz cho những người sưu tầm, giá lên tới 15
euro cho một lon Guigoz xưa, dĩ nhiên là chỉ có lon không, không có sữa!
Sữa bột Guigoz
Người Pháp khi đến Việt Nam mang theo cả chiếc ô-tô (xe hơi – auto,
automobile). Xe xưa thì khởi động bằng cách quay ma-ni-ven (manivelle) đặt ở đầu
xe, sau này tân tiến hơn có bộ phận đề-ma-rơ (khởi động – démarreur). Sau khi đề
(demarrer), xe sẽ nổ máy, sốp-phơ (người lái xe - chauffeur) sẽ cầm lấy vô-lăng
(bánh lái – volant) để điều khiển xe… Về cơ khí thì người Sài Gòn dùng các từ
ngữ như cờ-lê (chìa vặn – clé), mỏ-lết (molete), đinh vít (vis), tuốc-nơ-vít
(cái vặn vít – tournevis), công-tơ (thiết bị đồng hồ – compteur), công tắc (cầu
dao – contact)…
Bây giờ nói qua chuyện xe đạp cũng có nhiều điều lý thú. Chiếc xe đạp trong
ngôn ngữ Việt mượn rất nhiều từ tiếng Pháp. Trước hết, phía trước có
guy-đông (thanh tay lái – guidon), dưới
chân có pê-đan (bàn đạp – pedale), săm (ruột bánh xe – chambre à air) và phía
sau là bọc-ba-ga (để chở hàng hóa – porte-bagages).
Chi tiết các bộ phận trong xe đạp cũng… Tây rặc. Có dây sên (dây xích –
chaine), có líp (bộ phận của xe đạp gồm hai vành tròn kim loại lồng vào nhau,
chỉ quay tự do được theo một chiều – roue libre), rồi phanh (thắng – frein) ở cả
bánh trước lẫn bánh sau. Thêm vào đó còn có các bộ phận bảo vệ như gạc-đờ-bu
(thanh chắn bùn – garde-boue) và gạc-đờ-sên (thanh che dây xích –
garde-chaine).
Mỗi chiếc xe đạp xưa còn trang bị một ống bơm (pompe) để phòng khi lốp xe
xuống hơi. Bên cạnh đó người ta gắn một chiếc đy-na-mô (dynamo – bộ phận phát
điện làm sáng đèn để đi vào ban đêm). Tôi còn nhớ khi tháo tung một cái dynamo
cũ thấy có một cục man châm gắn vào một trục để khi trục quay sẽ sinh ra điện.
Hồi xửa hồi xưa, đi xe đạp không đèn vào ban đêm rất dễ bị phú-lít thổi phạt
nên nếu xe không đèn, người lái phải cầm bó nhang thay đèn! Sài Gòn xưa có các
nhãn hiệu xe đạp mổi tiếng như Peugoet, Mercier, Marila, Follis, Sterling… Đó
là những chiếc xe đã tạo nên nền “văn minh xe đạp” của những thế hệ trước và một
nền “văn hóa xe đạp” còn lưu lại trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Sài Gòn
xưa.
Xe đạp Mercier ngày xưa
có gắn ống bơm, dynamo và cả lon Guigoz
(Còn tiếp)
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống
lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
***
14 Comments on Multiply
cobasg wrote on Mar 23
Hay quá! vậy là Xà Bông Cô Ba phải gọi là Savon Coba
phantran53 wrote on Mar 23
Nhớ quá chừng... hiiiiiiiiiii cảm ơn tác giả rất nhiều! Chúc hai ngày cuối
tuần thật vui vẻ thoãi mái nghe. Thân mến.
chackadao wrote on Mar 23
ngon ngu vay muon khong co gi la xau. VNam la thuoc dia, mot dan toc bi
tri, khong phai la cai noi van van hoa thi ngon ngu vay muon la chuyen binh
thuong.
nam64 wrote on Mar 24, edited on Mar 24
chackadao said “ngon ngu vay muon thi co gi la xau. VNam la thuoc dia, mot
dan toc bi tri, khong phai la cai noi van van hoa thi ngon ngu vay muon la
chuyen binh thuong”
Tại sao mày cứ ngậm phân đi phun tùm lum nhà người ta quài vậy, sao mày
không về cái xứ tàu (?) của mày mà mày phun vào tổ tiên của mày.
nam64 wrote on Mar 24
Xin lổi anh... Ròm bực cái thằng chắccàchótàu này quá. Đã tự nhủ, hổng thèm
để ý tới phân từ trong mõm của nó phun ra, nhưng đọc Entry của anh mà lại thấy
còm của nó làm bực mình, phải dòm coi nó viết gì.
nam64 wrote on Mar 24
Em đã đem link 4 Entry từ nhà anh về bên em rồi. Khi rảnh em sẽ gom lại tất
cả và làm ra một cái file PDF.
thahuong82 wrote on Mar 24
Sưu tầm anh Chính viết rất dí dỏm và chỉ những người có tuổi mới cảm nhận
được những danh từ đã Việt Nam hoá xuất xứ từ đâu, tôi nghĩ mình cũng chẳng vay
mượn ai vì vay mượn là phải có hòan trả, cứ cho là thấy hay, thấy tiện là xaì
thành tiếng mình, như tiếng Anh &Mỹ chỉ xài 2 chữ OK là diễn tả được hết ý
ngày nay có thể nói nước nào cũng dùng chữ OK để diễn tả sự: đồng ý, nhất trí,
chấp thuận, hoàn tất......
nam64 wrote on Mar 26
Ròm đã gom 2 Entry vào một
Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Những chữ vay mượn
Attachment: Ngôn ngữ Sài Gòn xưa Những chữ vay mượn.pdf
nguyenngocchinh wrote on Mar 26
Thanks Nam Ròm. "Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Những chữ vay mượn" còn 1
entry nữa về tiếng Mỹ, sẽ post vào tuần tới.
nam64 wrote on Mar 27
nguyenngocchinh said “Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Những chữ vay mượn" còn 1
entry nữa về tiếng Mỹ, sẽ post vào tuần tới.”
Chờ anh cho ra lò, em sẽ đem về làm tiếp ra pdf.file há hehehehe.
Làm pdf cũng đơn giản và lẹ thôi anh ơi. Cách em làm rất là đơn giản không
màu mè cho nhanh. Nếu siêng mà màu mè thêm hình ảnh xưa vào chi tiết của bài viết,
em nghĩ chắc sống động và hay lắm. Vì cần thời gian, hứng và siêng thì làm pdf
file màu mè mới đã hehehehehe
thahuong82 wrote on Mar 26
Hoan Hô Nam Ròm một phát, như thế tiện lợi cất giử, buồn buồn gải h.....
đem ra đọc.
nam64 wrote on Mar 27
thahuong82 said “buồn buồn gải h.....đem ra đọc”
Hahaha
thahuong82 wrote on Mar 27
Nhìn chiếc xe đạp "đuyara"... thuở đó thèm chảy nước dải, mơ ưóc
vượt quá tầm tay đối với những em học trò nghèo!
No comments:
Post a Comment