Quân Minh và nghĩa quân Lam Sơn tổ chức Hội
thề Đông Quan, kết quả tái lập Đại Việt
Ngày 10
tháng 12, 1427
(Chuyện lịch sử nước nhà đã 591 năm. Không có phần tiếng
Anh, tiếng Pháp.
Bây giờ cần phải dấu để còn tiến tới:
“Bên này biên giới là nhà, bên kia biên giới cũng là quê hương”)
Hội thề Đông Quan
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hội thề Đông Quan là tên gọi của một sự kiện diễn ra ngày 22 tháng 11
năm Đinh Mùi (tức ngày 10 tháng 12 năm
1427), giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi và
chủ tướng quân Minh là Vương
Thông
Lê Thái Tổ (chữ Hán: 黎太祖; 10 tháng 9, 1385 – 5 tháng 10, 1433), tên thật là Lê Lợi (黎利), là vị hoàng đế đầu tiên
của nhà Hậu Lê – triều đại lâu dài nhất
trong lịch sử Việt Nam. Ông trị vì từ năm 1428 đến khi qua đời, và sử dụng niên hiệu Thuận
Thiên (順天).
(Vương Thông (tiếng Trung: 王通, ?-1452) là một tướng nhà Minh từng là tổng binh quân Minh tại Đại Việt.)
Hai bên lập lời thề rằng sau sự kiện này, bên
quân Minh do Vương Thông làm chủ tướng lập tức dẫn quân trở về nước, còn nghĩa
quân Lam Sơn không được hãm hại quân Minh. Sau sự kiện này, cả hai bên đều làm
đúng theo lời thề, nước Đại Việt lập lại hòa bình sau 20 năm bị quân Minh đô
hộ.
Hoàn cảnh
Năm 1426, nghĩa quân Lam Sơn chiếm được vùng đất đai
rộng lớn từ Thanh Hóa trở vào phía nam, bao vây, cô lập 2 thành lớn là thành
Nghệ An và thành Tây Đô (Thanh Hóa). Tháng 8, năm 1426, Lê Lợi sai 3 cánh quân
tiến ra bắc, 3 cánh quân này thắng trận liên tiếp. Viên tướng giữ thành Đông Quan là
Trần Trí cầu viện binh, 2 tướng Lý An, Phương Chính từ Nghệ An đem quân về cứu
Đông Quan.
Thăng Long (chữ Hán: 昇龍) là kinh đô của
nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung hưng (1010 - 1788). Trong dân dã thì địa danh tên Nôm Kẻ Chợ được
dùng phổ biến nên thư tịch Tây phương về Hà Nội trước thế kỷ 19 hay dùng Cachao hay Kecho.
Vua nhà Minh sai Vương Thông đem 5 vạn quân sang tiếp viện, hội
quân ở Đông Quan hơn 10 vạn quân. Tháng 10, năm 1426 Vương Thông bị đánh bại
ở trận Tốt Động-Chúc Động, Vương Thông rút vào Đông Quan
cố thủ. Vương Thông thế cùng, muốn hòa, sau đó lại thay đổi ý định, đào hào,
đắp lũy, gọi thêm viện binh.
Nghĩa quân Lam Sơn tiến quân ra Bắc
Trận
Tốt Động – Chúc Động là
trận đánh diễn ra trong các ngày 5-7 tháng 10 năm Bính Ngọ (1426), giữa nghĩa
quân Lam Sơn với
quân nhà Minh đóng ở Đông Quan (tức là Thăng Long, Hà Nội). Đây là một chiến thắng quân sự lớn của
nghĩa quân Lam Sơn và được nhắc đến trong Bình Ngô
đại cáo.
Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm;
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Năm 1427, vua nhà Minh sai Liễu
Thăng đem 10 vạn quân, Mộc Thạnh 5
vạn quân chia làm 2 đường cứu viện Vương Thông. Cánh quân Liễu Thăng bị đánh
bại,
Liễu Thăng Thạch, tương truyền sau khi Liễu
Thăng bị Lê Sát chém cụt đầu đã hóa đá nơi đây
Liễu
Thăng (柳升 hoặc 柳昇, ?-1427), tự Tử Tiêm (子漸), là một võ tướng nhà Minh, thống
lĩnh đạo quân sang cứu viện cho đạo quân viễn chinh của nhà Minh tại Đại Việt
trước đây, nhưng sau đó bị nghĩa quân Lam Sơn phục kích và tử trận
trong trận Chi Lăng năm 1427.
(Mộc
Thạnh (tiếng Trung: 沐晟, 1368-1439), tự Cảnh Mậu (景茂), là một đại thần của nhà Minh được
giao nhiệm vụ cai quản khu vực Vân Nam từ
năm 1398, sau khi anh trai là Mộc Xuân chết cùng năm này. Thạnh là người từng
đem quân hợp cùng Trương Phụ sang đánh nước Đại Ngu của
cha con Hồ Quý Ly cũng
như đánh bại Giản Định đế và Trùng Quang đế sau đó. Lần cuối cùng đưa
quân sang cứu Vương Thông năm 1427 bị quân Đại Việt do Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả chỉ
huy đánh bại tại cửa ải Lê Hoa, tỉnh Lào Cai ngày
nay.)
Mộc Thạnh sợ hãi bỏ chạy. Vương Thông thế cùng phải mang thư đến
nghĩa quân Lam Sơn xin cầu hòa. Tổng binh Vương Thông và nội quan Sơn Thọ nhà
Minh sai viên thiên hộ họ Hạ mang thư đến giảng hoà, xin mở cho đường về. Lê
Lợi chấp nhận, lại gởi tặng thổ sản và hải sản.
Vương Thông xin giảng hòa nhưng vẫn do dự chưa quyết, đem hết
quân trong thành ra đánh. Nghĩa quân Lam Sơn đặt phục binh rồi vờ thua chạy,
quân Minh đuổi theo, tới ở phục binh, bị đánh tan. Vương Thông ngã ngựa, suýt
bị bắt, nghĩa quân tiến quân đến cửa Nam thành, đắp bờ lũy chống giữ. Lê Lợi
thân đốc các tướng đem quân đắp lũy từ phường Yên Hoa thẳng tới cửa Bắc thành
Đông Quan. Quân Minh chỉ dám ở trong thành không dám ra.
Vương Thông và Sơn Thọ bị vây cùng quẫn, lại xin hòa. Quốc dân
đã bị cực khổ về sự quân Minh cai trị tàn ngược, xin cho đánh gấp, giết cho
bằng hết. Lê Lợi đáp:
“
|
Việc dùng binh lấy sự toàn quân là hơn cả. Nay hãy để cho lũ
Vương Thông về nói với vua Minh, trả lại đất cho nước ta, không còn trở lại
xâm lấn, thì ta còn cầu gì hơn nữa, hà tất phải giết hết, để kết mối thù với
nước lớn.
|
”
|
Rồi Lê Lợi cho hòa giải, lệnh cho lộ Bắc Giang và Lạng Giang, tu
sửa đường sá để quân Minh về nước, sai Nguyễn Trãi soạn tờ biểu, lấy lời Trần Cảo là dòng dõi vua Trần, xin được làm
vua.
Nguyễn
Trãi (chữ Hán: 阮廌, 1380 – 19 tháng 9 năm 1442), hiệu là Ức Trai (抑齋), là một nhà chính trị, nhà thơ dưới
thời nhà Hồ và nhà Lê sơ Việt Nam.
(Trần
Cảo (chữ Hán: 陳暠) là một vị vua bù nhìn do thủ lĩnh nghĩa
quân Lam Sơn là Lê Lợi lập
vào cuối thời kỳ Việt Nam nội thuộc triều đại nhà Minh.)
Nghĩa quân đưa thư trả lời Vương Thông, dùng Lê Quốc Trinh và Lê
Nhữ Trì làm con tin.
Thái giám nhà Minh là Sơn Thọ, Mã Kỳ đến dinh Bồ Đề làm con tin;
Lê Lợi sai con trưởng Lê Tư Tề và Lưu Nhân Chú vào thành Đông Đô làm con tin.
(Lê
Tư Tề (chữ Hán: 黎思齊; ? – 1438), hay Quận Ai vương (郡哀王), là hoàng tử nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Ông đã cùng cha là Lê Thái Tổ tham gia khởi nghĩa Lam Sơn đánh đuổi quân Minh, làm đến
chức Tư đồ, thành lập Triều đại nhà Lê Sơ.)
(Lưu
Nhân Chú (chữ Hán: 劉仁澍, ?-1433), hay Lê Nhân Chú, là
công thần khai quốc nhà Lê sơ trong lịch sử Việt Nam, người xã An Thuận Thượng, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam)
Hội thề Đông Quan
Ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi, tức 10 tháng
12 năm 1427, Lê
Lợi, Trần Nguyên Hãn, Lưu Nhân Chú, Phạm Vấn, Lê
Ngân, Phạm Văn Xảo, Bùi Bị, Trịnh Khả, Nguyễn Chích, Nguyễn Lý, Phạm Bôi, Lê Văn An, Bế Khắc Thiệu, Ma Luân cùng
các tướng nhà Minh: Tổng binh Thành Sơn hầu Vương Thông, Tham tướng Mã Anh, Thái giám Sơn Thọ, Mã Kỳ,
Vinh Xương hầu Trấn Trí, An bình hầu Lý An, Đô ty Phương Chính, Chưởng đô ty sự
Trần Tuyền, Trần Hựu, Giám sát ngự sử Chu Kỳ Hậu, Cấp sự trung Quách Vĩnh
Thanh, Hữu bố chính sứ Dặc Khiêm, Tả hữu tham chính là Hồng Bỉnh Lương, Lục
Trinh và Lục Quảng Bình, Án sát sứ Dương Thời Tập và Thiêm sự Quách Đoan làm
hội thề ở cửa Nam thành Đông Đô.
Tượng Trần Nguyên Hãn ở thành phố Hồ Chí Minh,
Việt Nam
Trần Nguyên Hãn (chữ Hán: 陳元扞, 1390 - 1429) là nhà quân
sự Đại Việt thời Lê sơ. Ông là người thuộc dòng
dõi nhà Trần, nổi bật với việc tham
gia khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống sự đô
hộ của đế quốc
Minh.
Vương Thông hẹn rằng đến ngày 12 tháng 12 thì đem quân về nước
và sai người đem tờ trình xin trả lại đất đai cho nghĩa quân. Lê Lợi sai giải
vây thành Đông Quan, kéo quân lui về, lại sai giải vây cho 3 thành: Tây Đô, Cổ Lộng và Chí Linh;
truyền cho nghĩa quân hộ tống các tướng trong 3 thành trên dẫn quân về thành
Đông Quan, để cùng về Trung Quốc.
Thành nhà Hồ (hay còn gọi là thành Tây Đô, thành
An Tôn, thành Tây Kinh hay thành Tây Giai)
là kinh đô nước Đại Ngu (quốc hiệu Việt Nam thời nhà Hồ), nằm trên địa phận nay
thuộc tỉnh Thanh Hóa.
Chí Linh (hay Linh Sơn) là một ngọn núi thuộc huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa. Chí Linh là một ngọn núi
cao, hiểm yếu bậc nhất ở thượng du sông Chu (nay thuộc xã Giao An, giữa Lang
Chánh và Thường Xuân).
Ngày 29, tháng 11 năm Đinh Mùi, Lê Lợi sai Lê Thiếu Dĩnh, Lê Cảnh Quang đem
tờ biểu cầu phong của Trần Cảo, cùng các vật phẩm theo viên chỉ huy do Vương
Thông sai, sang triều Minh.
Các tướng sĩ, người dân căm tức sự tàn ngược của quân Minh, bảo
vua đem giết đi, Lê Lợi đáp rằng:
“
|
"Trả thù báo oán là thường tình của mọi người, nhưng
không thích giết người là bản tâm của bậc nhân đức. Vả lại, người ta đã hàng,
mà mình lại giết thì là điềm xấu không gì lớn bằng. Nếu cốt để hả nỗi căm giận
trong chốc lát mà mang tiếng với muôn đời là giết kẻ đã hàng, thì chi bằng
tha mạng sống cho ức vạn người, để dập tắt mối chiến tranh cho đời sau, sử
xanh ghi chép tiếng thơm muôn đời, há chẳng lớn lao sao ?
|
”
|
Tháng 12, năm Đinh Mùi, Lê Lợi ra lệnh Cánh đường thủy, cấp 500
chiếc thuyền, cho Phương Chính, Mã Kỳ lãnh nhận. Cánh đường bộ, cấp lương thảo,
cho Sơn Thọ, Hoàng Phúc lãnh nhận. Còn hơn 2 vạn người bị bắt hoặc đầu hàng và
2 vạn con ngựa thì do Mã Anh lãnh nhận. Chinh man tướng quân Trần Tuấn đem quân
trấn thủ đi theo. Tất cả đều tới dinh Bồ Đề lạy tạ mà về.
Ngày 12, tháng 12, Phương Chính, Mã Kỳ tới dinh Bồ Đề cáo biệt
Lê Lợi, ở lại suốt một buổi chiều, Lê Lợi sai sắm trâu ngựa, trướng vẽ và lễ
phẩm hậu tặng.
Ngày 17, Vương Thông nhà Minh dẫn quân bộ đi sau. Vương Thông
cùng vua nói chuyện từ biệt suốt đêm rồi đi. Vua sai đưa trâu rượu, cờ thêu,
trướng vẽ cùng các lễ vật tiễn chân rất hậu. Quân thủy, bộ của ba thành Tây Đô,
Cổ Lộng, Chí Linh cùng lục tục rút tiếp. Từ đây, việc binh đao dập tắt, khắp
thiên hạ thái bình.
Bài văn hội thề
Đông Quan
Ghi rõ: năm Tuyên-đức thứ hai của nước Đại Minh là năm Đinh mùi
tháng 11 ngày mồng 1 là ngày Ất dậu qua đến ngày 24 là ngày Mậu thân.
Tôi là đại đầu mục nước An-nam tên là Lê (Lợi) và
bọn Trần Văn Hãn, Lê Nhân Chú, Lê Vấn, Trần Ngân, Trần Văn Xảo, Trần Bị, Trịnh
Khả, Nguyễn Chích, Trần Lý, Phạm Bôi, Trần Văn An, Bế Khắc Thiệu, Ma Luân, cùng
với:
Quan tổng binh của Thiên triều là thái tử thái bảo Thành-sơn hầu
tên là Vương Thông, và các quan tham tướng hữu đô đốc là Mã Anh, Thái giám là
Sơn Thọ, Mã Kỳ, Vinh xương bá là Trần Trí, Yên bình bá là Lý An, đô đốc là
Phương Chính, Chương đô ti sự Đô đốc Thiêm sự là Thuế Lự, đô đốc thiêm sự là
Trần Hựu, giám sát ngự sử là Châu Kỳ Hậu, Cấp sự trung là Quách Vĩnh Thanh, bố
chính là Dặc Kiêm, tả tham chính là Thanh Quảng Bình, hữu tham chính là Hồng
Thừa Lương, hữu tham nghị là Lục Trinh, Án sát sứ là Dương Thời Tập, thiêm sự
là Quách Hội.
Kính cáo Hoàng thiên (trời), Hậu thổ (Đất) cùng với Danh sơn
(núi), Đại xuyên (Sông) và thần kỳ các xứ:
Chúng tôi cùng nhau phát tự lòng thành, ước hẹn thề thốt với
nhau:
Từ sau khi lập lời thế này, quan tổng binh Thành sơn hầu là
Vương Thông quả tự lòng thành, đúng theo lời bàn, đem quân về nước, không thể
kéo dài năm tháng, để đợi viên binh đến nơi. Lại phải theo đúng sự lý trong bản
tâu, đúng lời bán trước mà làm.
Bọn Lê (Lợi) chúng tôi nếu còn chứa giữ lòng làm hại, tự làm
việc lừa dối, không dẹp xa ngay quân lính ngựa voi, việc làm không đúng lời nói
ngầm sai… Các việc nói trên tuy là không tự mình làm lấy, lại chuyển sang người
khác có xâm phạm đến một chút nào tức thì Trời, Đất, thần minh, núi cao sông
lớn, cho đến thần kỳ các xứ, tôi cùng con cháu thân của tôi, và người cả một
nước tôi, giết chết hết cả, không để sót lại mống nào.
Về phía bọn quan tổng binh Thành sơn hầu là Vương Thông, nếu
không có lòng thực, lại tự trái lời thề (đối với việc) người phục dịch và các
thuyền đã định rồi, cầu đập đường sá đã sửa rồi, mà không làm theo lời bàn, lập
tức đem quân về nước, còn kéo dài năm tháng để đợi viên binh, cùng là ngày về
đến triều đình lại không theo sự lý trong bản tâu, không sợ thần linh núi sông
ở nước An-nam lại bàn khác đi, hoặc cho quan quân đi qua đâu cướp bóc nhân dân,
thì Trời, Đất cùng là Danh sơn, Đại Xuyên và thần kỳ các xứ tất đem bọn quan
tổng binh Thành sơn hầu là Vương Thông, tự bản thân cho đến cả nhà, thân thích,
làm cho chết hết, và cả đến quan quân cũng không một người nào về được đến nhà.
Nếu mà cả hai bên đều do lòng thành cả thì Trời Đất thần minh
đều phù hộ cho đến bản thân mình mạnh khỏe, trong nhà mình vinh thịnh, cùng
hưởng lộc vị, đều được bình yên.
Trời, Đất thần kì cùng soi xét cho!
Diễn biến sau Hội
thề Đông Quan
Vương Thông về đến Long Châu, vua Minh đã liệu trước bọn Vương Thông
cùng quẫn, việc đã đến thế, không làm thế nào được nữa, đành sai bọn La Nhữ
Kính mang thư sang phong Trần Cảo là An Nam Quốc Vương, bãi bỏ quân nam chinh,
ra lệnh cho Thông trở về Bắc, trả lại đất cho An Nam, việc triều cống theo lệ
cũ năm Hồng Vũ, cho sứ thần đi lại.
Long Châu (tiếng Tráng: Lungzcou, chữ Hán giản thể: 龙州县, Hán Việt: Long Châu
huyện, bính âm: Lóngzhōu Xiàn), là một huyện thuộc địa cấp thị Sùng Tả (崇左, Chóngzuǒ) của khu tự trị dân tộc Choang Quảng
Tây, Trung Quốc.
Trang đầu tiên của bản Bình Ngô đại cáo
“
|
...Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng
Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay... |
”
|
Dưới đây là danh sách các cống phẩm Lê Lợi gửi sang triều Minh
cầu phong, chép theo sách Quân trung từ mệnh tập, thư cầu phong của Lê Lợi:
·
Hai pho tượng người vàng người bạc thay cho bản thân để thân để
tạ tội, cộng nặng 200 lạng.(1 pho vàng nặng 100 lạng; 1 pho tượng bạc nặng 100
lạng)
·
Sản vật địa phương:Lương hương bạc 1 cỗ, Bình cắm hoa bạc một
đôi, cộng nặng 300 cân, Lụa thổ sản 300 tấm, Ngà voi 10 chiếc, Hương xông áo 20
bánh, cộng 130 cân; Hương nén 20.000 nén; Trầm hương, tốc hương 24 khối.
·
Số người đầu mục tiến kinh: Đầu mục 4 người là: Lê Dĩnh, Lê Cảnh
Quang Lê Đức Huy, Đặng Hậu Lộc. Người giúp việc 4 người là: Đỗ Thế Lãnh, Lê Trạch,
Đặng Lục, Trình Nghiễm.
·
Các hàng trả về:
Hai đài Song hổ phù của tổng binh quan An viễn hầu lĩnh chinh lỗ
phó tướng quân.Một quả ấn bạc.
·
Các quan và quân nhân: 13.587 viên danh,Quan coi quân: 280 viên,
Quan coi dân và điển lại: 137 viên,
Kỳ quân: 13.170 viên danh; Ngựa: 1.200 con.
Số lượng vũ khí do
Đại Việt thu được từ quân đội nhà Minh
Theo sử gia Sun Laichens:
Sau khi Chu Nguyên Chương đánh bại Mông Cổ, thành lập nên nhà
Minh, vị vua này đã thủ đắc mọi loại hỏa lực hiện hữu từ trước đên nay, và giữ
chúng trong các kho vũ khí của ông. Từ năm 1380 đến 1488, nhà Minh có hai phòng
sản xuất vũ khí chính yếu tại các kinh đô; phòng đầu tiên được yêu cầu sản xuất
3,000 “đại bác có miệng súng cỡ bát ăn” , 3,000 khẩu súng tay, 90,000 mũi tên
và 3,000 súng báo hiệu cho mỗi ba năm một. Nhờ số lượng và chất lượng hỏa khí
vượt trội, họ đã thành công trong nhiều chiến dịch quân sự đương thời, đặc biệt
chiến tích dễ dàng đánh bại Đại Ngu vào thế kỉ 15.
Nhưng các chiến thắng quân sự, đặc biệt ở trận Tốt Động Chúc
Động và trận Chi Lăng Xương Giang, nghĩa quân Lam Sơn đã lấy được số lượng vũ
khí rất lớn của quân Minh. Nhờ số lượng vũ khí và quân nhân nhà Mình làm tù
binh đã hướng dẫn cho nghĩa quân Lam Sơn sử dụng vũ khí nên Lê Lợi đã dùng
chính vũ khí của nhà Minh để đánh bại họ. Lượng vũ khí cũng như người Minh còn
ở lại Đại Việt sau khi quân Minh rút lui đã gây lo ngại lớn cho triều đình
phương Bắc. Nhà Minh liên tục đòi Đại Việt trao trả các quan binh, và vũ khí.
Về vũ khí, mặc dù chính thức thì bảo đã trả hết, nhưng Đại Việt không trả lại
món nào và cuối cùng triều Minh phải từ bỏ yêu sách.
Nhận định
“
|
Bọn Vương Thông, Phương Chính đã kế cùng, đành giữ thành bền
lũy chờ cứu viện. Lửa không nhóm tự cháy, quả nhiên Liễu Thăng từ bắc tiến
sang giúp Hạ Kiệt làm càn. Lại thêm Mộc Thạnh từ phía tây cũng tới. Nực cười
hai đạo viện binh, giơ càng bọ ngựa chống xe, há chẳng ngu sao! Huống chi lấy
chí nhân đánh bọn bất nhân, giặc tất phải khiêng thây mà chịu trói. Thú cùng
trong cũi, vẫy đuôi xin tha. Thì rủ lòng nhân mà mở lưới Thang, cho múa mộc để
phô đức Thuấn. Cuối cùng tha cho mười vạn quân hàng, được toàn mạng mà về bắc.
Bốn biển hân hoan chiêm ngưỡng, thỏa lòng đã được hồi sinh. Phương xa mến đức
sợ uy, chúc cống chăm lo hết phận. Ôi ! thịnh thay!
|
”
|
·
Bình luận về việc Minh Tuyên tông ra lệnh bãi binh ở Đại Việt,
sử gia Trung Quốc là Cốc Vĩnh Thái viết trong Minh sử kỷ sự bản mạt:
Vương Thông lực yếu mà phải
xin hoà, Liễu Thăng lại sang rồi bị thua chết. Sau đó lại xuống chiếu sai sứ
sang giao hảo và rút quân về, nhục nhã thực bằng Tân, Trịnh hội thề dưới chân
thành, hổ thẹn ngang với Kính Đường cắt đất giảng hòa vậy"
Minh Tuyên Tông (chữ Hán: 明宣宗, 25 tháng 2, 1398 – 31 tháng 1, 1435), là vị hoàng đế thứ
năm của triều đại nhà Minh trong lịch sử
Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 1425 đến 1435, tổng cộng
10 năm. Trong suốt thời đại của mình, ông chỉ dùng 1 niên hiệu là Tuyên Đức (宣德), nên sử gia thường gọi ông là Tuyên Đức
Đế (宣德帝).
Hậu Tấn Cao Tổ (30 tháng 3, 892[1] – 28 tháng 7, 942[3]), tên thật
là Thạch Kính Đường (石敬瑭),
là hoàng đế đầu
tiên của triều Hậu Tấn, vương
triều thứ 3 trong 5 vương triều Ngũ đại, thời Ngũ đại
Thập quốc, trị vì từ năm 936 đến khi ông mất.
·
Thời nhà Trần, nước Đại Việt lần thứ 3 đánh bại quân Nguyên, trả
tù binh về Nguyên, vua Trần theo kế của Trần Hưng Đạo. Lấy người thạo nghề đi
biển, đục thuyền quân Nguyên trên đường về, khiến cho tướng Nguyên là Ô Mã Nhi
chết đuối. Sử gia Ngô Thì Sĩ so sánh việc này với việc làm của vua Lê Thái Tổ
khi tha cho quân Minh bình yên trở về nước.
Chữ tín là quí báu nhất của nước; đã bảo cho về, lại còn dùng kế
giết đi, quỷ quyệt như thế, thủ tín với lân bang sao được. Đến sau này vua Lê
Thái Tổ cũng trả người Minh về nước, có người nói đến sự đục thuyền cho đắm.
Vua không dùng: người Minh cũng không nghi gì. Như thế mới thật là Vương giả có
đại tín.[20]
No comments:
Post a Comment