Ngôn ngữ (4/4)
Những từ ngữ đã đi vào quá
khứ
Ngôn ngữ là phương tiện trao đổi ý tưởng trong cuộc sống hàng ngày. Thế cho
nên, ngôn ngữ cũng phải thay đổi theo cách sống và lối sống của từng thời kỳ. Sự
kiện tháng 4/1975 là một cột mốc thay đổi lớn nhất trong đời sống văn hóa,
chính trị và xã hội của người miền Nam, kéo theo sự mai một của một số từ ngữ vốn
đã dùng quen hàng ngày.
Thay đổi sâu rộng nhất là cả một hệ thống chính trị tại miền Nam cho nên những
từ ngữ có liên quan đến ý thức hệ cũ dần dần đã đi vào quá khứ. Đó là quy luật
tất yếu của cuộc sống. Bài viết này có mục đích ghi lại những từ ngữ đã một thời
phổ biến trong xã hội miền Nam để những thế hệ kế tiếp có thể hiểu được những
gì cha ông đã thường nói trong cuộc sống hàng ngày.
Chiêu hồi là một trong những từ ngữ của Sài Gòn xưa và sẽ dần dần đi vào
quên lãng. Đây là một chương trình do chính phủ Việt Nam Cộng hòa đề ra để khuyến
khích các thành phần vũ trang của Mặt trận Giải phóng miền Nam và Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa buông súng quay về với phe chính phủ. Vận động tuyên truyền được
thực hiện dưới nhiều hình thức: truyền đơn thả từ máy bay hoặc qua những chương
trình phát thanh và đài phát thanh [1].
Giấy Thông Hành
Chính phủ VNCH cho in và phổ biến Giấy thông hành nhằm mục đích giúp các
cán binh, du kích trở về với quốc gia. Phần trên của Giấy thông hành có cờ VNCH
và cờ của các quốc gia tham chiến gồm Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Thái Lan, Đại Hàn,
Tân Tây Lan và Phi Luật Tân. Giấy thông hành được viết bằng 4 ngôn ngữ: Tiếng
Việt, tiếng Anh, tiếng Đại Hàn và tiếng Thái. Phần dưới có nội dung như sau:
“MANG TẤM GIẤY THÔNG HÀNH nầy về cộng tác với Chánh Phủ Quốc Gia các bạn sẽ
được:
Đón tiếp tử tế
Bảo đảm an ninh
Đãi ngộ tương xứng
(Ký tên)
Nguyễn Văn Thiệu
Tổng thống Việt Nam Cộng hòa
Song song với việc phổ biến Giấy Thông Hành là các chương trình Phát thanh
Chiêu hồi được mở đầu bằng bản nhạc Ngày Về của Hoàng Giác được dùng làm nhạc
hiệu (nghe Ngày Về qua giọng ca của Anh Ngọc trên http://www.youtube.com/watch?v=rNKpu3IEW2c):
NGÀY VỀ -Hoàng Giác -Hà Thanh -LienNhu
"Tung cánh chim tìm về tổ ấm
nơi sống bao ngày giờ đằm thắm
nhớ phút chia ly, ngại ngùng bước chân đi
luyến tiếc bao ngày xanh…”
Điều khá lý thú là Hoàng Giác (sinh năm 1924) vốn là nhạc sĩ theo kháng chiến
chống Pháp và đã từng là đội viên tuyên truyền trong chiến khu Việt Bắc. Năm
1947, Hoàng Giác viết Ngày về, theo ông, đó là ca khúc ưng ý nhất. Năm 1948
Hoàng Giác “dinh tê” trở về Hà Nội, hoạt động nghệ thuật như một nhạc sĩ và cũng
là một ca sĩ được dân Hà Thành hâm mộ.
Cũng giống như một số nhạc sĩ cùng thời, Hoàng Giác sáng tác không nhiều,
chỉ khoảng 20 ca khúc, trong số đó có những bài hát nổi tiếng, vượt thời gian
như Mơ hoa, Ngày về, Hương lúa đồng quê. Ông hiện sống ở Hà Nội và có người con
trai là nhà thơ khá nổi tiếng Hoàng Nhuận Cầm.
Báo Công an Nhân dân trong bài viết “Nhạc sĩ Hoàng Giác: Mãi giấc mơ hoa”
có đoạn đề cập đến bản nhạc Ngày về:
“Sau khi được một số ca sĩ hát ở ngoài Bắc, vào cuối thập niên 60 của thế kỷ
trước, rất ngẫu nhiên, giai điệu của "Ngày về" được chính phủ Việt
Nam Cộng hòa chọn làm nhạc hiệu cho chương trình Chiêu hồi. Vì tình huống nhạy
cảm này mà mãi đến sau 1975, bài "Ngày về" mới được hát trở lại ở
ngoài Bắc với nhiều giọng ca nổi tiếng như tài tử Ngọc Bảo, Cao Minh, Lê Dung,
Ngọc Tân…”
Nhạc sĩ Hoàng Giác
Những cán binh trở về với Chính phủ VNCH được gọi là người hồi chánh hay hồi
chánh viên. Trong số những người hồi chánh có ca sĩ Bùi Thiện và Đoàn Chính
(con trai nhạc sĩ Đoàn Chuẩn), nhà văn Xuân Vũ (tác giả hồi ký Đường Đi Không Đến và Vượt Trường Sơn, đã qua đời tại Texas năm
2002), Trung Tá Lê Xuân Chuyên (bị chính quyền mới xử tử hình vào ngày
30/4/1975), Trung tá Tám Hà, Trung tá Phan Văn Xưởng, Trung tá Huỳnh Cự…
Hồi chánh viên (từ trái qua phải): Trung Tá Phạm Viết Dũng,
Trung đoàn phó Phạm Văn Xướng, Trung Tá Tám Hà
Chiêu hồi, ngoài ý nghĩa chính trị còn được dùng như động từ để chiêu dụ ai
đó, chẳng hạn như trong câu: “Hắn đã ‘chiêu hồi’ được một tay chọc trời khuấy
nước về làm việc dưới trướng”.
Gần đây, trên http://nguoivietblog.com/hagiang/?p=497,
tác giả Tam Thanh có một bài viết với tiêu đề “Chiêu hồi” ngôn ngữ, bàn về cách
dùng khác nhau và ý nghĩa đúng-sai của những từ ngữ xuất xứ từ miền Nam và miền
Bắc.
Trần Trung Đạo trong bài “Mặc cảm chiêu hồi và khát vọng tự do” viết:
"Tôi có mặc cảm rằng ra Hà Nội là đầu hàng, ra Hà Nội là chấp nhận chế
độ, là một hình thức chiêu hồi. Tôi ở lại Việt Nam thêm 6 năm nhưng nhất định
không đi thăm miền Bắc, dù có nhiều cơ hội…" (http://www.trantrungdao.com/?p=262).
Thuật ngữ “chém vè” cũng là một từ ngữ chính trị được sử dụng tại miền Nam.
Chém vè, nguyên thủy có ý nghĩa ẩn mình dưới nước hoặc những nơi lùm bụi rậm rạp
gần bờ nước để trốn tránh. Theo một số người, “chém vè” xuất phát từ con ba ba
(cua đinh) với hai càng rất khỏe còn gọi là vè. Hễ nghe tiếng động, hai vè của
nó chém mạnh rồi chui vào bùn để trốn.
Đối với chính quyền VNCH, thuật ngữ “chém vè” chỉ tình trạng các cán binh
“giã từ vũ khí” để ra “hồi chánh”. Xem ra, cũng chỉ một từ ngữ nhưng ý nghĩa
hoàn toàn khác nhau tùy theo chính kiến. Đó cũng là điều dễ hiểu ở một đất nước
đang trong tình trạng chiến tranh về ý thức hệ.
Chuyện cười của Bác Ba Phi trong Rùa U Minh viết: “Hai bác cháu tui chạy một
mạch qua tới Lung Bùn, chém vè cho tới chiều. Về chưa tới nhà thì thằng Ba Lùn
chặn lại rủ vô nhà nhậu thịt rùa rang muối. Nó bảo là hồi trưa nó đốt giang sậy
ven Lung Tràm, bắt được vài chục con rùa. Nghe nói mà tui tiếc hùi hụi. Hồi
trưa thấy bầy rùa bò đó mà tưởng đâu xe lội nước [thiết vận xa M113, chú thích
của NNC], bỏ chạy trốn. Thiệt tức!”. Chém vè ở đây chỉ thuần túy là ẩn núp.
Theo hồi ký "Chém vè giữa làng báo Sài Gòn" của nhà văn Nguyên
Hùng [2], thuật ngữ “chém vè” trong bài viết này chỉ việc những cán bộ Cộng sản,
sau hiệp định Genève 1954, được đưa về Sài Gòn để “trường kỳ mai phục”, “hoạt động
trong lòng địch” hay còn gọi là “nằm vùng”.
“Nằm vùng” quả là một từ vừa gợi hình lại gợi ý. Đối với chính quyền VNCH,
nằm vùng là một từ có ý miệt thị chỉ những người sinh sống tại miền Nam hoạt động
bí mật cho Cộng sản, tương tự như cụm từ người ta thường nói: “Ăn cơm Quốc gia,
thờ ma Cộng sản”. Mãi đến sau năm 1975, những nhân vật nằm vùng mới dần dần lộ
diện.
Theo cuốn Decent Interval của Frank Snepp, cựu chuyên viên thẩm vấn của
CIA, có đến hàng chục ngàn cán bộ Cộng sản “nằm vùng” tại miền Nam trong cuộc
chiến vừa qua. Họ có thể là một người lái taxi, đạp cyclo… hằng ngày vẫn theo
đuổi công việc của mình nhưng sau 30/4/1975 họ lại là những cán bộ trong Ủy ban
Quân quản giữ nhiệm vụ điều hành một thành phố Sài Gòn còn đang trong thời kỳ hỗn
mang.
Ở một mức độ cao hơn, cán bộ “nằm vùng” nằm ngay trong guồng máy chính phủ
Sài Gòn, nổi bật nhất là nhân vật tình báo bí ẩn Phạm Ngọc Thảo [3]. Điều bất
ngờ là Thảo mang cấp bậc Đại tá của Quân lực VNCH tại miền Nam trong khi chính
phủ của Tổng thống Ngô Đình Diệm vẫn không biết ông còn là Đại tá trong Quân đội
Nhân dân ở miền Bắc.
Biết Phạm Ngọc Thảo từng là chỉ huy du kích Việt Minh, đầu năm 1961 Ngô
Đình Nhu đã quyết định cử ông làm tỉnh trưởng tỉnh Kiến Hòa (tức Bến Tre) để trắc
nghiệm Chương trình Bình định. Từ khi Phạm Ngọc Thảo nhậm chức, tình hình an
ninh tại vùng này trở nên rất yên ổn, không còn bị phục kích hay phá hoại nữa.
Tuy nhiên, do có nhiều tố cáo nghi ngờ ông là “cán bộ cộng sản nằm vùng”, ông
thôi giữ chức Tỉnh trưởng và được cử sang Hoa Kỳ học một khóa về chỉ huy và
tham mưu.
Tháng 9/1963 Bác sĩ Trần Kim Tuyến (nguyên Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị,
thực chất là cơ quan mật vụ) và Phạm Ngọc Thảo âm mưu một cuộc đảo chính. Phạm
Ngọc Thảo đã kêu gọi được một số đơn vị như Quân đoàn 3, Quân đoàn 4, Biệt động
quân, Bảo an... sẵn sàng tham gia. Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ
ngày 1/11/1963, Phạm Ngọc Thảo được lên chức đại tá, làm tùy viên báo chí trong
Hội đồng Quân nhân Cách mạng.
Sau đó, Phạm Ngọc Thảo phải rút vào hoạt động bí mật cho phía bên kia chiến
tuyến vì ngày càng nhiều nghi vấn ông là Việt Cộng mằm vùng. Phạm Ngọc Thảo bị
chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu kết án tử hình và treo giải 3 triệu
đồng cho ai bắt được. Cuối cùng, Phạm Ngọc Thảo bị Cục an ninh quân đội (Số 8
Nguyễn Bỉnh Khiêm) bắt giữ và bị thủ tiêu ngày 17/7/1965 khi mới 43 tuổi.
Những năm hoạt động “nằm vùng” của Phạm Ngọc Thảo cho chính quyền miền Bắc
được ngụy trang rất kỹ và rất ít người ở miền Nam biết ông là một nhà tình báo.
Ngay cả sau 30/4/1975, nấm mộ ông vẫn chỉ là nấm mồ vô danh vì ông hoạt động
“đơn tuyến”. Mãi sau này, một số đồng đội đã sưu tầm tài liệu về ông và đề nghị
Nhà nước truy tặng ông danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân... Năm
1987, nhà cầm quyền truy tặng ông danh hiệu liệt sỹ với quân hàm đại tá và mộ của
ông được đưa về nghĩa trang thành phố, trên đồi Lạc Cảnh (huyện Thủ Đức).
Phạm Ngọc Thảo được coi là một trong 4 tình báo viên xuất sắc nhất của
Chính phủ miền Bắc (3 người kia là Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ và Lê Hữu Thúy). Đối
với Chính phủ miền Nam, cả 4 người này đều là “Việt Cộng Nằm Vùng”, không hơn
không kém!
Tiểu thuyết Ván Bài Lật Ngửa của nhà văn Nguyễn Trương Thiên Lý (Trần Bạch
Đằng) được mở đầu bằng câu: "Tưởng nhớ anh Chín T. và những người đã chiến
đấu hy sinh thầm lặng". Nhân vật chính trong truyện, Nguyễn Thành Luân,
chính là hình ảnh của Phạm Ngọc Thảo, bí danh Chín T. hay Chín Thảo.
Đại tá Phạm Ngọc Thảo dưới sắc áo Quốc gia
Nhân vật “nằm vùng” thứ hai là Phạm Xuân Ẩn [4] là một thiếu tướng tình báo
của Hà Nội với biệt danh Trần Văn Trung hay Hai Trung. Trong suốt thời gian chiến
tranh, Phạm Xuân Ẩn sống tại Sài Gòn dưới vỏ bọc “ký giả” làm việc tại Việt tấn
xã, cộng tác với hãng thông tấn Reuters và có nhiều bài viết trên tạp chí Time,
New York Herald Tribune, The Christian Science Monitor...
Theo một tài liệu được công bố, Phạm Xuân Ẩn đã gửi về Hà Nội 498 báo cáo
bao gồm tài liệu nguyên gốc đã được sao chụp, các thông tin thu lượm cùng phân
tích và nhận định của Ẩn về VNCH và Hoa Kỳ. Là người đã từng được đào tạo về
ngành báo chí tại Mỹ, Phạm Xuân Ẩn là nhân vật được chèo kéo bởi nhiều cơ quan
tình báo miền Nam cũng như miền Bắc, trong nước cũng như ngoài nước, kể cả CIA.
Ngày Sài Gòn đổi chủ, vợ con Phạm Xuân Ẩn đã rời Việt Nam theo chiến dịch
di tản của người Mỹ và theo kế hoạch của miền Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để
tiếp tục hoạt động tình báo. Tuy nhiên, theo một số tài liệu, Phạm Xuân Ẩn đã đề
nghị cấp trên cho ngưng công tác vì lý do đã “hoàn thành nhiệm vụ”. Kế hoạch
thay đổi, vợ con ông đã phải mất một năm để quay lại Việt Nam theo đường vòng:
Paris - Moscow - Hà Nội - Sài Gòn.
Như cái tên “định mệnh” mà ông mang, cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn lúc “ẩn”,
lúc “hiện” và cũng có lúc “lên voi”, lúc “xuống chó”. Năm 1997, chính phủ Việt
Nam từ chối không cho phép Phạm Xuân Ẩn đến Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở New
York mà ông được mời với tư cách khách mời đặc biệt. Trong những năm cuối đời,
có vẻ như Phạm Xuân Ẩn cảm thấy thất vọng với những gì ông chứng kiến tại Việt
Nam sau cuộc chiến. Ông tiết lộ với Thomas A. Bass, tác giả cuốn The Spy Who
Loved Us: "Dân chúng tại đây [tức Việt Nam] không được viết tự do. Đó là
vì sao tôi không viết hồi ký".
Năm 1978, Phạm Xuân Ẩn phải ra Hà Nội học tập chính trị dành cho cán bộ cao
cấp trong 10 tháng. Sự kiện này được xem như một hình thức “cải tạo” và ông giải
thích vì lý do đã “sống quá lâu trong lòng địch”. Có người cho rằng ông bị nghi
kị và bị quản chế tại gia, không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên
ngoài, đặc biệt với giới báo chí ngoại quốc do cách suy nghĩ, cư xử… “rất Mỹ”.
Ông đã từng giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến rời khỏi Việt Nam vào ngày 30/4/1975
(Bác sĩ Tuyến là “xếp” cũ của Phạm Xuân Ẩn năm 1959. Cơ quan mật vụ của BS Tuyến
biệt phái ông sang làm việc tại Việt tấn xã, phụ trách bộ phận các phóng viên
ngoại quốc làm việc trong cơ quan này).
Phạm Xuân Ẩn và các con
Vũ Ngọc Nhạ [5], Thiếu tướng tình báo của Hà Nội cũng là một trường hợp “nằm
vùng” ngay trong đầu não của nền Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hòa tại miền Nam, kéo
dài từ năm 1954 đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Miền Bắc ca tụng ông là “điệp viên
siêu hạng” với những “điệp vụ bất khả thi” trong “vụ án chính trị lớn nhất thời
đại”.
Với vỏ bọc của một “con chiên ngoan đạo” đã từng sát cánh với Giám mục Lê Hữu
Từ và Linh mục Hoàng Quỳnh, Vũ Ngọc Nhạ trở thành một người tâm phúc, thường
xuyên bàn bạc những vấn đề cơ mật với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Thời Đệ nhất Cộng
hòa có “bốn con rồng”: Bạch Long (Ngô Đình Diệm), Hồng Long (Ngô Đình Thục),
Thanh Long (Ngô Đình Nhu) và Hắc Long (Ngô Đình Cẩn). Cố vấn Ngô Đình Nhu đã gọi
Vũ Ngọc Nhạ là Hoàng Long để trở thành con rồng thứ năm trong Ngũ Long của Đệ
nhất Cộng hòa.
Cuối năm 1965, do sự chạy đua quyền lực quyết liệt trong nhóm các tướng trẻ,
tướng Nguyễn Văn Thiệu đã sử dụng Vũ Ngọc Nhạ trong vai trò liên lạc viên với
Công giáo, qua sự giới thiệu của Linh mục Hoàng Quỳnh, nhằm tìm chỗ dựa chính
trị. Là một điệp viên, Vũ Ngọc Nhạ đã khéo léo sử dụng vai trò này để tạo dựng
các mối quan hệ và gây ảnh hưởng đến giới chính trị cả trong dân sự lẫn quân sự.
Một lần nữa, Vũ Ngọc Nhạ trở thành “Ông Cố Vấn” sau khi tướng Thiệu đắc cử
Tổng thống năm 1967. Đây cũng là thời điểm mạng lưới tình báo A.22 (vốn là mật
danh riêng của Nhạ) được hình thành và phát triển. Thành công ngoạn mục nhất của
cụm tình báo A22 là thu hút được Huỳnh Văn Trọng, một phụ tá của Tổng thống Thiệu.
Tháng 8/1968, tướng Thiệu đã cử Huỳnh Văn Trọng cầm đầu một phái đoàn của
Việt Nam Cộng hòa sang Hoa Kỳ tiếp xúc, gặp gỡ với hàng loạt tổ chức, cá nhân
trong chính phủ và chính giới Hoa Kỳ để thăm dò thái độ của Chính phủ Johnson đối
với cuộc chiến tại Việt Nam. Chính những thông tin này đã góp một phần cho Hà Nội
trước khi ngồi vào bàn đàm phán tại Paris với Mỹ.
Vũ Ngọc Nhạ và “vụ án chính trị lớn nhất thời đại”
Ở trường Sinh ngữ Quân đội, một đơn vị tương đối nhỏ trong quân lực VNCH, cũng
đã có vài trường hợp “nằm vùng”. Vì vấn đề tế nhị, tác giả xin chỉ viết tên tắt
của những nhân vật này.
Nổi bật nhất có Đại úy TVQ và Thiếu úy NCD. Đại úy Q. là người từ đơn vị
chuyển về trường SNQĐ khi nhu cầu huấn luyện Anh văn cho quân đội tăng cao do
chương trình Việt Nam hóa chiến tranh nhằm đào tạo quân nhân các binh chủng Hải-Lục-Không
quân VNCH đi học chuyên môn tại Hoa Kỳ để về nước đảm nhận công việc của quân đội
Mỹ.
Sự gia tăng bất ngờ về số khóa sinh tại trường SNQĐ khiến nhà trường phải
tuyển thêm quân nhân có khả năng tiếng Anh từ các đơn vị về để đào tạo thành giảng
viên Anh ngữ. Đại úy Q. thuộc thành phần bổ xung đó. Q. về trường khi đã đeo
lon Đại úy từ một đơn vị chiến tranh chính trị. Anh là một sĩ quan hiền lành,
ít nói nhưng sau ngày 30/4/75 bạn bè cũ mới “bật ngửa” khi biết anh thuộc hàng
ngũ… bên kia chiến tuyến.
Sau thời gian cải tạo tôi trở về Sài Gòn gặp lại Q. khi đó là nhân viên
hành chánh của trường Đại học Kinh tế. Tôi tiếp xúc với anh một cách dè dặt
trong một vài buổi họp mặt các anh em giảng viên cũ. Sau đó Q. biến mất khỏi
các cuộc gặp gỡ, có lẽ vì không chịu nổi những xầm xì, bàn tán về vai trò “nằm
vùng” của mình.
Trường hợp “nằm vùng” thứ hai ở trường SNQĐ là Thiếu úy NCD, một người được
tuyển thẳng từ Thủ Đức về trường. Cũng như Đại úy Q., Thiếu úy D. là người ít
nói và hầu như rất ít giảng viên trong trường để ý đến người thanh niên “trầm lặng”
này. Sau này, có một số anh em giảng viên nói chính Thiếu úy NCD đã “tiếp quản”
trường SNQĐ những ngày đầu tháng 5/75.
Hành tung của viên thiếu úy “nằm vùng” được sáng tỏ: người anh của NCD là một
cán bộ cao cấp. Được coi là một trí thức Marx-Lenin, Viện sĩ NCT (Sáu Quang),
anh ruột NCD, là nguyên Bí thư Thành Đoàn giai đoạn 1977 - 1981, Trưởng Ban quản
lý Khu Chế Xuất – Khu Công Nghiệp đầu tiên của thành phố, nguyên Chủ nhiệm Ủy
ban về Người Việt Nam ở nước ngoài và hiện là Viện phó Viện khoa học công nghệ
Phương Nam (thuộc Liên hiệp Khoa học kỹ thuật Việt Nam). Có người anh như vậy
nên thiếu úy NCD không “nằm vùng” mới là chuyện lạ!
Với những câu chuyện “nằm vùng” điển hình ở mọi cấp chính quyền miền Nam kể
trên, quân đội miền Bắc ngày càng tiến dần đến thủ đô và người Sài Gòn ngỡ
ngàng trước biến cố 30/4/1975. “Tiên trách kỷ, hậu trách nhân” có lẽ là một
trong những triết lý thâm thúy nhất được rút ra trong cuộc chiến vừa qua.
===
Chú thích:
[1] Chương trình Chiêu hồi phát động dưới thời Đệ nhất Cộng hòa vào đầu năm
1963 theo hai mô hình mẫu của Phi Luật Tân và Mã Lai Á: (1) chương trình EDCOR
của Philippines để chiêu dụ lực lượng cộng sản Hukbalahap và (2) chương trình của
Sir Robert Thompson thuộc quân đội Anh để bình định tại Malaysia.
Chương trình này trực thuộc Bộ Công dân vụ của Bộ trưởng Ngô Trọng Hiếu và
một thời mang tên Phong trào Chiêu tập Kháng chiến Lầm đường. Sau năm 1963 được
phân thành Ban Chiêu Hồi trực thuộc Phủ Thủ tướng. Năm 1965 lại được chuyển
sang Bộ Thông tin. Sang thời Đệ nhị Cộng hòa thì chính phủ nâng Phủ Đặc ủy Dân
vận Chiêu hồi thành Bộ Chiêu hồi để điều hành hệ thống chiêu hồi trên khắp 44 tỉnh
thành của bốn vùng chiến thuật, mỗi tỉnh có một Ty Chiêu hồi.
Huy hiệu ngành Chiêu hồi
Năm 1967, chính phủ đưa ra chính sách Đại đoàn kết. Theo đó thì các thành
phần hồi chánh không những được giúp đỡ để tái định cư và đoàn tụ cùng gia đình
mà còn được trưng dụng tài năng tương xứng với công việc ở bên kia chiến tuyến.
Chính sách này chưa mấy hiệu quả thì sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 xảy ra. Biến
cố này làm gián đoạn chương trình Chiêu hồi vì tình hình an ninh bất ổn, nhưng
đến năm 1969 thì số lượng hồi chánh lại tăng, đạt tổng số 47.023 người trong
năm 1969.
Trong thời gian từ năm 1963 đến 1973 chương trình Chiêu hồi thâu nhận hơn
194.000 người hồi chánh, tức là loại được bấy nhiêu quân đối phương khỏi chiến
trường. Người Hồi chánh được chuyển vào 1 trong hơn 200 trại để “học tập chính
trị” trong thời gian từ bốn đến sáu tuần. Cùng lúc đó, họ được phát quần áo và
thức ăn, đến khi xuất trại thì trả về nguyên quán hoặc định cư ở những vùng ấn
định. Một số được kết nạp vào Cục Tâm lý chiến. Ngày 18/2/1973 Bưu chính VNCH
cho phát hành con tem "Chiêu hồi" với giá tiền10 đồng để kỷ niệm người
hồi chánh thứ 200.000.
Tem Chiêu-Hồi của VNCH
[2] Nguyên Hùng là một trong số những nhà văn, nhà báo “nằm vùng” hoặc
“thiên Cộng”. Trong số này phải kể đến Vũ Bằng, Vũ Hạnh, Sơn Nam, Trang Thế Hy,
Thiếu Sơn, Lý Văn Sâm... Sau này còn được bổ sung thêm một đội ngũ trẻ hơn và
giữ những vai trò gây tác động trong đời sống báo chí và chính trị miền Nam như
Huỳnh Bá Thành (còn được biết đến qua tên Họa sĩ Ớt trên báo Điện Tín), Cung
Văn, Hoàng Thái Nguyên, Nguyễn Ngọc Thạch, Hoàng Minh Phương, Kỳ Nhân...
[3] Phạm Ngọc Thảo (1922-1965) cùng 12 người từ miền Nam được cử ra Sơn Tây
để theo học Khóa 1 trường Võ bị Trần Quốc Tuấn vào năm 1946. Khi ra trường, Thảo
được điều về Phú Yên với nhiệm vụ giao liên. Trong thời gian này, ông được giao
nhiệm vụ đưa một cán bộ vào Nam, đó chính là Lê Duẩn, người có ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động tình báo của ông sau này.
Thảo được giao nhiệm vụ Trưởng phòng Mật vụ Ban quân sự Nam Bộ – là tổ chức
tình báo đầu tiên của miền Bắc ở Nam Bộ. Sau Hiệp định Genève, các cán bộ của
Việt Minh (cả dân sự lẫn quân sự) đều được “tập kết” ra Bắc. Cũng có một số ít
cán bộ đã được lệnh bí mật ở lại để “nằm vùng”, trong đó có PNT ở lại miền Nam
để hình thành “lực lượng thứ ba” theo lệnh của Lê Duẩn.
Dưới vỏ bọc của một giáo sư, Thảo về dạy học tại trường Nguyễn Trường Tộ, Vĩnh
Long, thuộc giáo phận của Giám mục Ngô Đình Diệm, anh của Tổng thống Ngô Đình
Diệm. Giám mục Ngô Đình Thục rất quý mến Thảo, ông đã từng làm lễ rửa tội cho
Thảo và coi như con nuôi. Chính Giám mục Thục đã giới thiệu ông với “cố vấn”
Ngô Đình Nhu để vào làm việc ở Sở Tài chánh Nam Việt.
Nhờ chính sách “đả thực, bài phong”, khuyến khích những người theo kháng
chiến cũ về với chính nghĩa quốc gia của Ngô Đình Diệm, PNT đã khôn khéo công
khai hết quá khứ theo kháng chiến của mình, chỉ trừ một điều không nhận là Đảng
viên Đảng Cộng sản. Năm 1956, ông được phép đưa vợ con ra Sài Gòn sinh sống,
làm việc tại ngân hàng quốc gia; rồi được chuyển ngạch quân sự, mang cấp bậc Đại
uý “đồng hóa”.
PNT còn được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị (Vĩnh Long) và
sau đến tháng 10/1956 gia nhập đảng Cần Lao, phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ
nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự và huấn luyện quân sự cho các đảng
viên. Trong hàng ngũ Quốc gia, Thảo đã viết 20 bài báo trên tạp chí Bách Khoa
nói về các vấn đề chiến lược, chiến thuật, nghệ thuật chỉ huy, huấn luyện quân
sự, phân tích binh pháp Tôn Tử, Trần Hưng Đạo....
Những bài báo đó đã được giới quân sự chú ý và nâng cao tên tuổi của PNT.
Năm 1957, ông được điều về làm việc tại Phòng Nghiên cứu chính trị tại Phủ tổng
thống, thực chất là cơ quan mật vụ của Bác sĩ Trần Kim Tuyến. Năm 1960, sau khi
học một khóa chỉ huy và tham mưu ở Trường Võ bị Quốc gia Đà Lạt, PNT được thăng
thiếu tá và được cử làm Thanh tra Khu Trù Mật.
Năm 1965, Phạm Ngọc Thảo cùng thiếu tướng Lâm Văn Phát, Đại tá Bùi Dzinh và
Trung tá Lê Hoàng Thao đem quân và xe tăng vào chiếm trại Lê Văn Duyệt, đài
phát thanh Sài Gòn, bến Bạch Đằng và sân bay Tân Sơn Nhất nhằm lật đổ chính phủ
của Tướng Nguyễn Khánh. Hội đồng tướng lãnh cử Nguyễn Chánh Thi làm chỉ huy chống
đảo chính và ra lệnh cho Phạm Ngọc Thảo, Lâm Văn Phát và 13 sĩ quan khác phải
ra trình diện trong 24 giờ. Khi biết tin quyền lãnh đạo đã rơi vào tay các tướng
lĩnh khác, Phạm Ngọc Thảo bỏ trốn.
Phạm Ngọc Thảo là tình báo viên hoạt động đơn tuyến, không có đồng đội trực
tiếp hỗ trợ, chỉ chịu sự chỉ đạo về chiến lược của Lê Duẩn. Nhiệm vụ của ông
không phải là đưa tin mà là tác động đến sự “thay đổi chế độ”. Có thể nói, với
nhiệm vụ này, tầm quan trọng của Phạm Ngọc Thảo ngang với sức mạnh của một đạo
quân.
[4] Phạm Xuân Ẩn (1927-2006), sinh tại xã Bình Trước, Biên Hòa, tỉnh Đồng
Nai, trong gia đình một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa. Năm 1950,
ông vào làm ở Sở thuế quan Sài Gòn. Thực chất lúc này ông được Việt Minh giao
nhiệm vụ tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa quân sự và quân đội từ Pháp
sang Việt Nam và từ Việt Nam về Pháp. Đây là những bước đầu hoạt động tình báo
của ông, một trong khoảng 14 ngàn điệp báo viên Cộng sản được cài cắm và hoạt động
tại miền Nam.
Năm 1952, ông ra Chiến khu D và được Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Ủy viên Ủy
ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ - giao nhiệm vụ tình báo chiến lược. Năm 1953
tại rạch Cái Bát (Cà Mau) trong rừng U Minh, dưới sự chủ tọa của Lê Đức Thọ
(khi này là Phó Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam), PXA được
chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1957, PXA qua Mỹ học ngành báo chí trong 3 năm và khi về nước ông làm
việc tại Sở Nghiên cứu Chính trị của Bác sĩ Trần Kim Tuyến. Từ năm 1960 đến giữa
năm 1964, PXA làm việc cho Hãng thông tấn Reuters. Từ năm 1965 đến năm 1976 ông
là phóng viên người Việt chính thức và duy nhất của tuần báo Time tại Sài Gòn,
ngoài ra ông còn là cộng tác viên của các tờ báo khác như The Christian Science
Monitor...
Murray Gart, thông tín viên trưởng của Time trong thời gian chiến tranh,
sau khi biết tin PXA là một điệp viên, bực tức nói rằng: “Thằng chó đẻ ấy, tôi
muốn giết nó”. Một phóng viên khác, Peter Arnett, mềm mỏng hơn: “Tôi không biết
phải xử lý ra sao đối với Phạm Xuân Ẩn. Tôi hiểu anh là một người Việt Nam yêu
nước, nhưng tôi vẫn cảm thấy bị phản bội về phương diện nghề nghiệp... Trong
hơn một năm trời, tôi cảm thấy bị xúc phạm, nhưng sau đó tôi lại nghĩ ra rằng
chẳng qua đó là công việc riêng của anh”.
McCulloch từng là giám đốc các văn phòng của Time ở châu Á nói: “Tôi có căm
giận Phạm Xuân Ẩn không sau khi tôi biết qua những hoạt động gián điệp của anh?
Hẳn nhiên là không. Tôi nghĩ Việt Nam là quê hương của anh. Nếu tình thế đổi
ngược lại, chắc tôi cũng sẽ làm như anh mà thôi. Phạm Xuân Ẩn là đồng nghiệp của
tôi và là một phóng viên sáng giá. Phạm Xuân Ẩn có một sự hiểu biết tinh tường
về hiện tình chính trị Việt Nam, và đáng chú ý là những tin tức tài liệu của
anh chính xác một cách lạ thường”.
https://i.postimg.cc/763ZcBbx/65-9-Ph-m-Xu-n-n-v-Th-t-ng-Phan-Huy-Qu-t.jpg
PXA và Thủ tướng Phan Huy Quát
[5] Vũ Ngọc Nhạ (1928-2002), tên thật Vũ Đình Long, sinh tại Thái Bình,
tham gia Việt Minh sau ngày Toàn quốc kháng chiến, gia nhập đảng Cộng sản năm
1947, năm 1951 trở thành Thị ủy viên của thị xã Thái Bình. Bị kỳ thị vì xuất
thân gia đình gốc địa chủ và Công giáo nên đã bỏ Việt Minh, về sống ở quê ngoại
tại Phát Diệm, Ninh Bình.
Tại Ninh Bình, VNN tham gia Tổng bộ tự vệ Phát Diệm do giám mục Lê Hữu Từ
và linh mục Hoàng Quỳnh lãnh đạo. VNN trở thành phụ tá của hai vị tu sĩ khét tiếng
chống Cộng này. Di cư vào Nam năm 1954, VNN tiếp tục phụ giúp việc đạo cho linh
mục Hoàng Quỳnh tại giáo xứ Bình An (Sài Gòn) cho đến ngày bị bắt.
Theo tiết lộ của Tiền Phong Online, VNN đã từng là một trong 300 đại biểu
kháng chiến được mời về dự Hội nghị chiến tranh du kích đồng bằng Bắc Bộ: “Sau
vài lần gặp gỡ, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn anh vào hàng ngũ những người
tiên phong làm công tác tình báo của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Chuẩn bị cho
cuộc đấu tranh lâu dài, anh được đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh phái vào Nam hoạt
động”.
Tại trại giam, VNN viết bản tường trình phân tích nguy cơ “đe dọa chế độ mà
Ngô Tổng thống đã dày công vun đắp” đã khiến Ngô Đình Cẩn, sau đó là cả Ngô
Đình Nhu, Ngô Đình Diệm quan tâm và chú ý. VNN đã khéo léo tiết lộ cho anh em họ
Ngô biết rằng tất cả những ý kiến trong tờ trình đều là chính kiến của Giám mục
Lê Hữu Từ. Đánh giá rất cao trách nhiệm và sự sâu sắc của bản báo nguy chế độ,
anh em Diệm - Nhu đã mời Vũ Ngọc Nhạ về làm cố vấn.
Thâm nhập vào nền Đệ nhất Cộng hòa và nhanh chóng liên kết với các đồng chí
“nằm vùng” của mình như Lê Hữu Thúy, Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hòe... VNN đã
hình thành một mạng lưới tình báo (Lưới A.22) nắm giữ các vị trí chóp bu trong
chính phủ Sài Gòn để khai thác tin tức chiến lược.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống
lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
***
7 Comments on Multiply
nam64 wrote on Jul 10
Em rinh cái bài này về bên em nha, cám ơn anh.
nam64 wrote on Jul 11
Cái Word của em có vấn đề ....không làm ra được PDF File nửa. Khi nào làm
ra được Ròm cài vào đây cho anh.
nguyenngocchinh wrote on Jul 11
Dạo này bận quá nên không có thì giờ post tiếp entry cuối cùng trong loạt
bài "Ngôn ngữ Sài Gòn xưa"... Đợi bài cuối post xong Ròm làm luôn một
file PDF cũng không muộn. Thăm em luôn Vui-Mạnh.
songhong wrote on Jul 22
Anh Chính ơi,
Tôi nhớ có lần anh viết là trong số những người sau 75 lộ diện là "ngưởi
phiá bên kia" có nhạc sĩ Trần Văn Sanh. Anh có thể cho tôi biết thêm chi
tiết về nhạc sĩ Sanh này không?
nguyenngocchinh wrote on Jul 22
songhong said "Anh Chính ơi,
Tôi nhớ có lần anh viết là trong số những người sau 75 lộ diện là "ngưởi
phiá bên kia" có nhạc sĩ Trần Văn Sanh. Anh có thể cho tôi biết thêm chi
tiết về nhạc sĩ Sanh này không?”
Tôi hoàn toàn không biết gì về nhạc sĩ Trần Văn Sanh. Có thể anh nhớ lộn đã
đọc bài viết về nhạc sĩ này của một tác giả khác. Thăm anh.
nam64 wrote on Jul 23
nguyenngocchinh said “Tôi hoàn toàn không biết gì về nhạc sĩ Trần Văn Sanh”
Em cũng đã tìm thử trên Google bên em, nhưng hổng có thấy gì về nhạc sĩ có
tên này.
songhong wrote on Jul 23
Cám ơn anh Chính.
Đúng là tôi nhớ giăng nhớ cuội rồi, hay là trông gà hoá cuốc đấy. Đến cái
lúc chẳng nhớ mình muốn gì nữa. Không biết nên vui hay buồn đây. Chúc anh thân
tâm thường an lạc.
No comments:
Post a Comment