Hải quân Anh chiến thắng hải quân Đức tại
quần đảo Falkland
Ngày 08
tháng 12, 1914
·
1914 – Chiến tranh thế giới thứ nhất: Hải
quân Anh giành thắng lợi trước Hải quân Đức khi giao chiến tại quần đảo Falkland tại Nam Đại Tây Dương.
Trận chiến quần đảo Falkland
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Một
phần của Chiến tranh thế giới thứ nhất
Một
bức họa; Battle of the Falkland Islands.
Thời gian 8 tháng 12 năm 1914
Tham chiến
Chỉ huy
Lực lượng
Tổn thất
10
chết 1,871
chết , 215 bị bắt, 2 tàu tuần dương bọc thép, 2 tàu tuần dương hạng nhẹ bị
đánh chìm
19
bị thương Hai
tàu vận tải bị bắt và sau đó đánh đắm
Trận chiến quần đảo Falkland là một thắng lợi của Hải
quân Hoàng gia Anh trước Hải quân Đế chế Đức vào ngày 8 tháng 12 năm 1914 trong Chiến
tranh thế giới thứ nhất ở
Nam Đại Tây Dương. Sau thất bại tại trận
Coronel vào ngày 01 tháng 11, người Anh gửi
một lực lượng lớn để theo dõi và tiêu diệt đội tàu tuần dương Đức đã đánh bại
họ tại trận Coronel.
Đô đốc Graf Maximilian von Spee chỉ huy hải đội Đức gồm hai tuần dương hạm bọc
thép, SMS Scharnhorst và SMS Gneisenau,
ba tuần dương hạm hạng nhẹ, SMS Nürnberg (1906), Dresden, Leipzig và ba tàu vận tải đã cố gắng tấn công căn cứ tiếp
vận của Anh tại Stanley trên quần đảo Falkland.
Maximilian
Johannes Maria Hubert Reichsgraf von Spee (22 June 1861 – 8
December 1914) was a naval officer of the German Kaiserliche Marine (Imperial Navy), who
famously commanded the German East Asia Squadron during World War I.
SMS Scharnhorst[Ghi chú
1] là một tàu tuần dương bọc thép của Hải quân Đế quốc Đức, được chế tạo tại xưởng tàu của hãng Blohm & Voss ở Hamburg, Đức. Scharnhorst là chiếc dẫn đầu cho lớp của nó, vốn còn bao gồm con tàu chị em Gneisenau, là một phiên bản mở rộng của lớp Roon dẫn trước, với trọng lượng choán nước lên đến
12.985 t (12.780 tấn Anh; 14.314 tấn thiếu); chúng được trang bị dàn hỏa
lực chính mạnh hơn và có tốc độ tối đa nhanh hơn.
SMS Gneisenau[Ghi chú
1] là một tàu tuần dương bọc thép của Hải quân Đế quốc Đức thuộc lớp Scharnhorst, được đặt tên theo August von Gneisenau, vị tướng lĩnh
người Phổ từng tham gia chiến tranh Napoleon. Con tàu được đặt lườn vào năm 1904 tại xưởng tàu của hãng AG Weser ở Bremen, được hạ thủy vào tháng 6 năm 1906và hoàn tất vào tháng 3 năm 1908 với chi phí hơn 19 triệu Mác. Gneisenau được
trang bị dàn pháo chính bao gồm tám khẩu pháo 21 xentimét (8,3 in), đạt
tốc độ tối đa 23,6 hải lý một giờ (43,7 km/h; 27,2 mph) và có trọng lượng choán nước đầy tải khi chiến
đấu lên đến 12.985 tấn (12.780 tấn Anh; 14.314 tấn thiếu).
SMS Nürnberg ("His Majesty's
Ship Nürnberg"),[a] named after the Bavarian
city of Nuremberg, was a Königsberg-class light cruiser built for the
German Imperial Navy (Kaiserliche
Marine). Her sisters included Königsberg, Stettin, and Stuttgart. She was built by the Imperial Dockyard in Kiel, laid down in early 1906 and launched in April
of that year.
SMS Dresden ("His Majesty's
Ship Dresden")[a] was a German light cruiser built for the Kaiserliche Marine(Imperial Navy), the lead ship of her class. She was laid down at the Blohm & Voss shipyard in Hamburg in 1906, launched in October 1907, and
completed in November 1908.
SMS Leipzig ("His Majesty's
Ship Leipzig")[a] was the sixth of seven Bremen-class cruisers of the Imperial German Navy, named after the city of Leipzig. She was begun by AG Weser in Bremen in 1904, launched in March 1905 and
commissioned in April 1906. Armed with a main battery of ten 10.5 cm
(4.1 in) guns and two 45 cm (18 in) torpedo tubes, Leipzig was capable of a top
speed of 22.5 knots (41.7 km/h;
25.9 mph).
Hai tầu tuần dương chủ lực của Anh gồm, các
chiếc HMS Invincible và Inflexible, ba tàu tuần dương bọc thép gồm các chiếc HMS Carnarvon, Cornwall và Kent và
hai tuần dương hạm hạng nhẹ gồm các chiếc HMS Bristol và HMS Glasgow đã cập
cảng chỉ một ngày trước đó.
HMS Invincible là
một tàu chiến-tuần dương của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu mang tên nó bao gồm ba chiếc, và là chiếc
tàu chiến-tuần dương đầu tiên được chế tạo trên thế giới.
HMS Inflexible là
một tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Invincible của Hải quân Hoàng gia Anh Quốc, được chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất và đã hoạt động tích cực
trong cuộc chiến này.
HMS Carnarvon was
one of six Devonshire-class armoured cruisers built
for the Royal Navy in the first decade of the
20th century.
HMS Cornwall was
one of 10 Monmouth-class armoured cruisers built
for the Royal Navy in the first decade of the
20th century. She was assigned to the 2nd Cruiser Squadron of
the Channel Fleet on completion in 1903.
HMS Kent was
one of 10 Monmouth-class armoured cruisers built
for the Royal Navy in the first decade of the
20th century. She was placed in reserve when
completed in 1903, but was recommissioned for the China Stationin
1906. She remained there until she returned home in 1913 for a lengthy refit.
Tầm nhìn lúc đó là tối đa: mặt biển rất
bình yên với các làn gió nhẹ thổi từ phía tây bắc, mặt trời rất sáng, bầu trời
quang đãng. Các tuần dương hạm hải đội Đức đã bị phát hiện rất sớm và vào lúc 9:00
sáng ngày hôm đó trong khi các tàu chiến-tuần dương và tàu tuần dương còn lại
của Anh đều đang gắt gao tìm tông tích của năm chiếc tàu chiến Đức thì các con
tàu này dàn thành hàng và tiến về phía đông nam. Tất cả ngoại trừ chiếc Dresden và
chiếc tàu hỗ trợ Seydlitz, số còn lại đều bị bắt và đánh chìm.
Bối cảnh
Các tàu chiến-tuần dương của Anh được lắp tám súng 12 in
(305 mm) mỗi tàu, trong khi các chiếc SMS Scharnhorst và
SMS Gneisenau của Spee chỉ có tám súng 210 mm
(8,3 in). Ngoài ra, các tàu tuần dương chủ lực có thể chạy với tốc độ
25,5 kn (47,2 km/h; 29,3 mph) giờ
so với tốc độ 22,5 kn (41,7 km/h; 25,9 mph) của các tàu của
Spee. Vì vậy, các tàu tuần dương chủ lực của Anh có thể chạy nhanh hơn đối thủ
của họ và có ưu thế đáng kể về chất lượng súng. Chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought, HMS Canopus, cũng
đóng tại Stanley để hoạt động như một pháo đài nổi để bảo vệ khu vực này.
(Thiết
giáp hạm tiền-dreadnought là thuật ngữ được dùng chung
để chỉ mọi kiểu thiết giáp hạm đi biển được chế tạo từ giữa
thập niên 1890 cho đến năm 1905. Thiết giáp hạm tiền-dreadnought
thay thế cho các tàu chiến bọc sắt của thập niên 1870 và 1880.)
HMS Canopus was a pre-dreadnought battleship of
the British Royal Navy and the lead ship of
the Canopusclass. Intended for service in
Asia, Canopus and
her sister ships were smaller and faster than
the preceding Majestic-class battleships, but retained the same battery of
four 12-inch (305 mm) guns.
Đội tàu
của Spree
Sau của chiến thắng của von Spee vào ngày 01 tháng 11 năm 1914
tại trận Coronel ở
ngoài khơi bờ biển Valparaíso,
Chile, nơi Hải đội Đông Á của Đức đánh chìm các tàu tuần dương HMS Good Hope (Kỳ
hạm của Đô đốc Cradock) và Monmouth, lực lượng
của von Spee tiến vào Valparaíso. Theo yêu cầu theo luật quốc tế đối với các
tàu tham chiến tại các nước trung lập, các tàu ở lại đó trong vòng 24 giờ trước
khi di chuyển đến Mas Afuera,
400 mi (350 nmi;
640 km) ngoài khơi bờ biển Chile. Ở đó, họ nhận được tin tức về việc
chiếc SMS Emden bị
tiêu diệt, chiếc này trước đó đã tách ra khỏi hải đội và bị tấn công ở Ấn Độ
Dương. Họ cũng nhận được tin thuộc địa của Đức ở Thanh Đảo, Trung
Quốc, vốn đã là cảng nhà của họ, đã thất thủ.
Thanh
Đảo (chữ Hán giản thể: 青岛; chữ Hán phồn thể: 青島; bính âm Hán ngữ: Qīngdǎo; phát âm: nghe (trợ giúp·chi tiết); nghĩa "Đảo Xanh") là
thành phố nằm ở phía đông tỉnh Sơn Đông,
trên bán đảo Sơn Đông, Trung Quốc.
Ngày 15 tháng 11 hải đội chuyển đến Bahia San Quintin trên
bờ biển Chile, nơi mà một buổi lễ được tổ chức để phân phát 300 huân
chương Thập tự sắt hạng hai cho các thủy thủ đoàn và một
huân chương thập tự sắt hạng nhất được trao cho Đô đốc Spee.
Spee cũng nhận được các khuyến nghị nên trở về Đức nếu ông có
thể. Các tàu của ông đã sử dụng một nửa số đạn dược của họ tại trận Coronel mà
họ không thể có bổ sung và có những khó khăn để có nhiên liệu là than. Tin tình
báo cho rằng các tàu HMS Defence, Cornwall và Carnarvon đang
đóng tại sông, và rằng có không có tàu chiến của Anh tại đảo Stanley khi 1 tàu
hơi nước ghé qua vào thời gian gần đó. Spee đã quan tâm đến các báo cáo về một
tàu chiến Anh, chiếc Canopus, nhưng không ai xác định được rõ vị
trí của nó. Ngày 26 tháng 11 hải đội di chuyển tới Cape Horn và
đến đó vào ngày 1 tháng 12, sau đó thả neo tại đảo Picton, nơi họ ở lại trong
ba ngày để lấy than từ một tầu chở hàng của Anh bị bắt giữ. Ngày 06 tháng 12,
Spee đề nghị một cuộc tấn công vào quần đảo Falkland trước khi chuyển về phía
bắc. Cuộc tấn công này là không cần thiết vì hải đội đã có nhiều than đá ở mức
họ có thể mang được và ý tưởng này bị phản đối bởi hầu hết các thuyền trưởng
của Spee, nhưng ông này vẫn quyết định tiến hành cuộc tấn công.
Sự chuẩn
bị của người Anh
Ngày 30 tháng 10, vị Đô đốc hạm đội về hưu Sir John
Fisher được tái bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Hải quân (First
Sea Lord) để thay thế Đô đốc Hoàng tử Louis của Battenberg, người
đã bị buộc phải từ chức vì sự phản đối kịch liệt của công chúng chống lại việc
một hoàng tử người Đức đảm nhận việc điều hành hải quân Anh. Ngày 3 tháng 11,
Fisher đã được báo rằng có người nhìn thấy Spee ở ngoài khơi Valparaíso và đã
có hành động để củng cố Cradock bằng cách tăng cường thêm chiếc Defence,
lúc này đã được gửi tới tuần tra bờ biển phía đông của Nam Mỹ, để củng cố hải
đội của ông ta. Khi ông nhận được tin tức vào ngày 4 tháng 11 về sự thất bại
tại Coronel. Kết quả là các tàu chiến-tuần dương Invincible and Inflexible được
lệnh rời khỏi Hạm đội Grand Fleed và đi đến Plymouth để sửa chữa lớn và chuẩn
bị cho nhiệm vụ ở nước ngoài. Tham mưu trưởng của bộ Hải quân là Phó Đô
đốc Doveton Sturdee có
một bất đồng lâu dài với Fisher vì ông ta là một trong những người kêu gọi sa
thải Fisher trong lần nắm cương vị First Sea Lord đầu tiên trong năm 1911, do
đó, Fisher nắm lấy cơ hội quyết định bổ nhiệm Sturdee chức Tổng tư lệnh vùng
Nam Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, để chỉ huy hải đội mới từ chiếc Invincible.
Admiral of the Fleet Sir Frederick
Charles Doveton Sturdee, 1st Baronet GCB, KCMG, CVO (9 June 1859 – 7 May 1925) was a Royal Navy officer. After
training as a torpedo officer, he commanded two different cruisers and then three
different battleships before becoming commander of the 1st Battle Squadron of the Home Fleet.
Ngày 11 tháng 11 các chiếc Invincible và Inflexible rời Devonport, mặc
dù công việc sửa chữa của chiếc tầu vẫn chưa được hoàn tất và nó khởi hành với
những thợ sửa chữa vẫn còn trên boong. Mặc cho tính cấp bách của tình hình và
tốc độ tối đa của nó là khoảng 25 kn (46 km/h; 29 mph), con tàu
chỉ đi với tốc độ ổn định 10 kn (19 km/h; 12 mph). Chạy tốc độ
cao đòi hỏi phải sử dụng một số lượng than cực lớn, do đó, để hoàn thành cuộc
hành trình dài nó là cần thiết để đi ở tốc độ hành trình đây là tốc độ kinh tế
nhất. Hai chiếc tàu cũng tải theo rất nhiều vật tư. Tính bảo mật của chuyến
hành trình được coi là tối quan trọng để làm Spee bất ngờ, nhưng ngày 17 tháng
11, Trung úy Hirst từ chiếc Glasgow nghe người dân địa phương
thảo luận về sự xuất hiện của các con tầu sắp tới ở bờ của Cape
Verde.
Cộng hòa Cabo Verde (thường được biết đến trong tiếng Việt là Cáp-Ve (ý nghĩa là Mũi Xanh); tiếng Bồ Đào Nha: República
de Cabo Verde) tên chính thức là Cộng hòa Cabo Verde, là
một quốc đảo gồm một quần đảo san
hô 10 đảo nằm ở trung tâm Đại Tây dương, cách bờ biển Tây Phi 570 kilomet.
Nhưng những tin tức này đã không đến được tới Spee. Sturdee
đến Abrolhos vào ngày 26 tháng 11 nơi
mà Chuẩn Đô đốc Stoddart chờ đợi ông ta với phần còn lại của hải đội.
Sturdee thông báo ý định của mình để khởi hành đi quần đảo
Falkland, ngày 29 tháng 11. Từ đó, các tàu tuần dương hạng nhẹ cao tốc Glasgow và Bristol sẽ
tuần tra tìm kiếm Spee và gọi quân tiếp viện nếu họ tìm thấy ông ta. Thuyền
trưởng Luce của chiếc Glasgow, người đã chạy thoát trong
trận Coronel, phản đối rằng không có cần phải chờ đợi quá lâu và thuyết phục
Sturdee khởi hành sớm hơn một ngày. Hải đội này đã bị trì hoãn trong suốt cuộc
hành trình 12 giờ khi một sợi dây cáp dùng để kéo các mục tiêu bắn tập đã quấn
xung quanh chân vịt cánh quạt của chiếc Invincible, nhưng rồi
con tàu đã đến đích vào buổi sáng ngày 07 tháng 12. Hai tàu tuần dương hạng nhẹ
thả neo ở phần bên trong của cảng Stanley. Trong
khi các tàu lớn hơn ở lại bến cảng sâu hơn bên ngoài của Port
William. Các thợ lặn vẫn cố gắng tháo chiếc cáp bọc xung quanh chiếc
chân vịt cánh quạt của chiếc Invincible. Chiếc Cornwall tắt
nồi hơi của mình để sửa chữa và chiếc Bristol tháo dỡ một
trong những động cơ của nó. Con tàu nổi tiếng SS Great Britain, bỏ
vai trò khiêm tốn là một hầm than để một góp phần vào trận đánh, cung cấp than
cho các Invincible và Inflexible. Chiếc tuần dương
hạm tàu buôn chuyển đổi HMS Macedonia được lệnh tuần tra các
bến cảng, trong khi chiếc Kent duy trì nhiệt độ trong nồi hơi
của mình, sẵn sàng để thay thế chiếc Macedonia vào ngày hôm
sau, ngày 08 tháng 11. Hạm đội của Spee xuất hiện vào buổi sáng của ngày sau
đó.
Trận đánh
Trận chiến quần đảo Falkland.
Di chuyển
ban đầu
Tuần dương hạm của Spee, các chiếc Gneisenau và Nürnberg,
là những chiếc đầu tiên tiếp cận đảo Stanley. Vào lúc đó, toàn bộ hạm đội Anh
đã ăn than. Khi Spee gây sức ép tấn công, không chỉ tàu của Sturdee trở thành
các mục tiêu dễ dàng, mà
bất kỳ con tàu nào muốn cố gắng để thoát ra cũng sẽ phải đối mặt với hỏa lực
của toàn bộ các tàu Đức. Chỉ cần một con tàu bị đánh chìm cũng có thể khóa chặt
phần còn lại của hải đội Anh ở trong cảng. May mắn cho người Anh, người Đức đã
rất ngạc nhiên bởi một phát súng bắn từ một đối tượng bất ngờ: chiếc Canopus,
được đặt như một tầu canh gác và nấp đằng sau một ngọn đồi. Sự kiên này đủ để
chặn trước bước tiến của người Đức. Các cột ống khỏi kiểu đặc biệt của các tàu
chiến chủ lực Anh đã cho thấy rằng họ sẽ phải đối mặt với một kẻ thù được trang
bị tốt hơn rất nhiều. Chiếc Kent đã tách ra khá xa khỏi cảng và đã nhận được
mệnh lệnh đuổi theo tàu của Spee.
Nắm rõ được tình hình của các tàu Đức, Sturdee ra lệnh cho các
thuyền viên tiếp tục ăn sáng khi biết rằng Canopus đã tạo cho họ 1 khoảng thời
gian trong khi hơi nước tăng nhiệt độ.
Còn về phía Spee thì với những thuyền viên đang mệt mỏi mỏi của
mình cộng với tàu của ông bị yếu thế về hỏa lực, thất bại dường như là không
thể tránh khỏi. Nhận thức về nguy hiểm của mình một cách quá muộn màng và đã bỏ
lỡ mất cơ hội vàng để bắn hạ hải đội của Sturdee khi tại cảng – Spee và hải đội
của ông đã bị đánh tan ngoài biển khơi. Các tầu Anh rời cảng vào khoảng 10:00.
Spee đã chạy trước với khoảng cách chừng 15 mi (13 nmi; 24 km)
nhưng ánh sáng ban ngày rất rõ để các tàu tuần dương chủ lực nhanh hơn đuổi
kịp.
Đụng độ
Đó là lúc 13:00 khi tàu tuần dương chủ lực của Anh nổ súng,
nhưng chúng phải mất nửa giờ để đưa chiếc Leipzig vào tầm bắn.
Nhận thấy rằng ông ta không có hy vọng chạy thoát khỏi tàu Anh, Spee quyết định
tấn công vào họ với chỉ một chiếc tàu tuần dương bọc thép của ông, để tạo cơ
hội cho các tàu tuần dương hạng nhẹ trốn thoát. Trận đấu súng nổ ra vào lúc
13:20. Các tuần dương hạm bọc thép của Đức có lợi thế về gió vì đang có gió tây
bắc làm người Anh bị che khuất mục tiêu bởi khói tầu của họ trong suốt thời
gian tác chiến. Cận vệ thứ hai của chiếc Gneisenau là Hans
Pochhammer chỉ ra rằng có một thời gian yên lặng kéo dài trong giai đoạn đầu
của trận đánh, đây là lúc người Anh cố gắng buộc Đô đốc Spee phải bỏ vị trí
thuận lợi của mình nhưng họ không thể làm được.
Mặc dù Scharnhorst và Gneisenau đã
thành công bước đầu khi tấn công Invincible, nhưng chiếc tàu chiến
của Anh bị thiệt hại rất ít nhờ lớp giáp hạng nặng của nó. Spee sau đó lại quay
sang tìm cách tẩu thoát, nhưng các tàu chiến-tuần dương của Anh lại đưa tàu của
ông vào trong tầm bắn chỉ bốn mươi phút sau đó.
Invincible và Inflexible tấn
công Scharnhorst và Gneisenau. Trong khi Sturdee
tách các tuần dương hạm hạng nhẹ của mình ra để theo đuổi Leipzig và Nürnberg.
Invincible và Inflexible quay
sang nổ pháo mạn vào các tuần dương hạm bọc thép của Đức và Spee phản ứng bằng
cách cố gắng để tiến lại gần. Chiếc kỳ hạm của ông ta, Scharnhorst đã
bị thiệt hại lớn ở dưới ống khói, bị cháy và bị nghiêng đi. Tình trạng bị
nghiêng trở thành tồi tệ hơn vào lúc 16:04 và và nó đã bị chìm vào lúc 16:17.
Chiếc Gneisenau tiếp tục bắn trả và né tránh cho đến lúc 17:15 bởi vào lúc đó
nó đã hết đạn dược và thủy thủ đoàn được cho phép đánh chìm nó và chuyển xuống
xuồng cứu sinh vào lúc 18:02. Trong
lúc con tầu này đang chìm, Đô đốc Sturdee tiếp tục tấn công vào chiếc Gneisenau với
hai tàu tuần dương chủ lực của mình và chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ Carnarvon,
thay vì tách một trong những tàu chiến trên để bắt nốt chiếc Dresden.
Trong số thuyền viên của Gneisenau, 190 đã được cứu khỏi mặt nước.
Các tàu chiến-tuần dương Anh đã bị trúng khoảng 40 phát đạn nhưng chỉ bị chết
một người và bốn người khác bị thương.
Trong khi đó các chiếc Nürnberg và Leipzig đã
cố chạy thoát khỏi các tuần dương hạm của Anh. Nürnberg đã
chạy ở tốc độ cao nhất nhưng nó cần sửa chữa, trong khi thủy thủ đoàn của chiếc
đuổi theo, Kent, nồi hơi và động cơ của nó đã được đẩy đến mức giới
hạn. Nürnberg cuối cùng đã quay sang chiến đấu vào
17:30. Kent có ưu thế về pháo và trọng lượng giáp. Nürnberg có
hai vụ nổ lò hơi vào khoảng 18:30, nó phải trao lợi thế về tốc độ và tính cơ
động cho Kent. Nürnberg sau đó bị chìm vào lúc
19:27 sau khi có một cuộc đuổi bắt kéo dài. Các tàu tuần dương Glasgow và
tầu phụ trợ Cornwall truy đuổi chiếc Leipzig tới
cùng. Chiếc Glasgow vào gần để kết liễu chiếc Leipzig,
chiếc này tuy đã hết đạn nhưng cờ hiệu chiến đấu của nó vẫn tung bay. Nó bắn
hai phát pháo sáng (xin ngừng chiến), do đó chiếc Glasgowngừng nổ
súng. Lúc khoảng 21:23, ở hơn 80 mi (70 nmi; 130 km) về phía
đông nam của quần đảo Falkland, nó chìm xuống chỉ để lại 18 người sống sót.
Kết cục
HMS Inflexible cứu vớt thủy
thủ chiếc Gneisenau sau trận đánh
Thương vong và thiệt hại của hai bên có chênh lệch rất lớn; phía
Anh chỉ bị thiệt hại rất nhẹ và không chiếc nào trong số các con tàu của Anh bị
hư hỏng nặng. Ngược lại, 1.871 thủy thủ Đức đã thiệt mạng trong trận đánh trong
đó có Đô đốc Spee và hai con trai của ông. 215 người sống sót đã được cứu thêm
và trở thành tù binh trên tàu của Anh. Hầu hết họ đều đến từ chiếc Gneisenau,
9 người từ chiếc Nürnberg và 18 người từ chiếc Leipzig.
Trong số 765 sĩ quan và thủy thủ từ chiếc Scharnhorst chỉ có 7 sống sót. Một sĩ
quan của chiếc Gneisenau còn sống sót là người duy nhất sống
sót sau ba đợt pháo khác nhau, đã được kéo lên khỏi nước khi nói rằng ông là
một người anh em họ của viên chỉ huy của Anh (Stoddart)..
Trong số 8 chiến hạm lực lượng Hải quân Đức có hai chiếc chạy
thoát: đó là chiếc tàu hỗ trợ Seydlitz và tàu tuần dương hạng
nhẹ Dresden, nó phải lang thang trong phần lớn một quãng thời gian
khoảng ba tháng nữa trước khi thuyền trưởng của nó đã bị dồn ép bởi một hải đội
Anh ở ngoài khơi Quần đảo Juan Fernández vào
ngày 14 tháng 3 năm 1915. Sau một trận chiến ngắn, thuyền trưởng của
chiếc Dresden đã ra lệnh di tản khỏi con tàu của ông và sau đó
đánh đắm nó bằng cách cho nổ kho đạn dược chính.
Như là một hệ quả của cuộc chiến, chiến thuật tấn công tàu chở
hàng của đối phương ở trên các đại dương bằng tàu chiến của Kaiserliche Marine
(Hải quân Đế chế Đức) đến
hồi kết thúc. Tuy nhiên, Đức vẫn tung ra một vài tàu buôn vũ trang để tấn công
tầu chở hàng cho đến khi chiến tranh kết thúc (ví dụ: xem bài Felix von Luckner).
No comments:
Post a Comment