Ngôn ngữ (3/4)
Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Vay mượn từ tiếng Anh
Đây là bài thứ 3 trong loạt bài nghiên cứu về những chữ vay mượn trong ngôn
ngữ Sài Gòn xưa. Sau khi bàn về tiếng Tàu, tiếng Pháp, chúng ta chuyển sang tiếng
Anh và bước vào một nền văn hóa đã có những ảnh hưởng “tốt” cũng như “xấu” vào
đời sống của người Việt trong khoảng 30 năm chiến tranh vừa qua.
Có người gọi cuộc chiến vừa qua là “nội chiến” giữa hai miền Nam-Bắc nhưng,
theo báo chí phương Tây, đó là “cuộc chiến tranh Việt Nam” hay nói một cách
khác là “cuộc đối đầu giữa hai phe”, một bên là Tự do gồm Việt Nam Cộng hòa,
Hoa Kỳ và 5 nước Đồng minh (gồm Australia, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và
Philipin) và một bên là Cộng Sản gồm Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Liên Xô và
Trung Quốc.
Tinh thần của bài viết này không bàn đến việc “đúng” hay “sai” của cuộc chiến
mà chỉ xoáy quanh những ảnh hưởng của nền văn hóa Mỹ đối với ngôn ngữ Việt
trong suốt 30 năm chiến tranh.
Nước Mỹ còn được gọi là Hoa Kỳ hay Huê Kỳ (cờ hoa). Danh xưng này đã xuất
hiện trong văn chương Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ 19 qua thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ”.
Vũ Trọng Phụng trong Vỡ đê, xuất bản năm 1936, có đoạn viết: “…Dung tìm bao
diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu xăng.
Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi…”.
Nguyễn Công Hoan trong Nhớ và ghi về Hà Nội giải thích: “…Đèn Hoa Kỳ là đèn
của bọn Mỹ sang ta buôn dầu hoả. Muốn bán được dầu hoả, nó phải làm đèn cho người
mua dầu dùng (...). Dầu của Mỹ, viết tắt là Socony (Standard Oil Company of New
York), cạnh tranh với dầu của Anh viết tắt là Shell.
Bất cứ ở thành thị hay nông thôn, hễ có đại lý dầu Mỹ, là ở gần đó, có ngay
đại lý dầu Anh. Và trái lại. Nhà bán dầu Mỹ có biển sơn màu vàng, nhà bán dầu
Anh có biển sơn màu đỏ. Những nơi bán dầu xăng ô tô, Anh Mỹ cũng cạnh tranh như
vậy. Ở Hà Nội, còn có xe dầu đi bán ở phố, cũng sơn màu của hãng... Trụ sở của Ủy
ban Khoa học Kỹ thuật ở phố Trần Hưng Đạo, số 39, là trụ sở cũ của hãng dầu
Shell của Anh, nên quét vôi màu đỏ. Ngày trước ta gọi là nhà dầu Shell (...).
Royal Dutch Shell (người bình dân gọi là hãng dầu “con sò”) đã thực hiện một
chiến dịch “tiếp thị” ngoạn mục là “biếu không” đèn Hoa Kỳ cho người Việt vốn
chỉ quen dùng dầu lạc hay nến (bạch lạp) để thắp sáng mà không quen dùng dầu hỏa.
Dĩ nhiên, khi đèn Hoa Kỳ đi vào đời sống của người Việt thì cũng là lúc mọi người
làm quen với việc dùng dầu hỏa để đốt đèn.
Nhãn hiệu Shell lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1891 qua logo “con sò” trên
thùng dầu hỏa mà Marcus Samuel và các cộng sự chuyển đến vùng Viễn Đông. Nhất
Thanh trong Đất lề quê thói (1968) giải thích thêm: “Cuối thế kỷ XIX người Tây
đem dầu lửa, cũng gọi dầu hôi, vào dùng và bán (...). Hãng bán dầu đã chế ra thứ
đèn nhỏ, ngọn lửa vừa bằng ngọn đèn dầu chay, đèn được cho không kèm theo mỗi
thùng dầu bán ra, để làm quảng cáo; không rõ lúc ấy dầu lửa từ xứ nào nhập cảng,
mà cái đèn kia được gọi là đèn Hoa-kỳ; ngày nay tại nhiều nhà nó vẫn là bạn cố
tri bên cạnh cái điếu thuốc lào”.
Bức tranh "Đèn Hoa Kỳ" của
họa sĩ Bùi Xuân Phái
Như vậy, thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ” (còn gọi là đèn “hột vịt” tại miền Nam), đốt
bằng dầu hỏa (còn gọi là dầu lửa hay dầu hôi), đã xuất hiện từ rất lâu, trước
khi có cuộc Chiến tranh Việt Nam. Người ta còn dùng từ ngữ dầu Tây để gọi dầu hỏa
khi mới du nhập vào Việt Nam. Ngày xưa, loại dầu này được đựng trong thùng sắt
tây như trong bức tranh Bán dầu Tây của Henri Oger năm 1909 (1). Loại thùng sắt
này sau khi đựng dầu được tái chế thành thùng gánh nước hoặc cắt ra làm các vật
dụng khác như đồ chơi cho trẻ em bằng thiếc.
Tranh khắc “Bán dầu tây” của Henri Oger
Một trường hợp tiếng Anh khác đã du nhập vào Việt Nam từ lâu là trò chơi của
trẻ con: “Oẳn tù tì” dịch từ “One, Two, Three”. Hầu như mọi người Việt đều đã từng
ra cái búa, cái kéo hoặc cái bao sau khi đọc câu “Oẳn tù tì. Ra cái gì? Ra cái
này!”. Hai người chơi và có một trong 3 lựa chọn, cái búa thì đập cái kéo, cái
kéo thì cắt cái bao và cái bao lại bao được cái búa.
Về nặt giáo dục, tiếng Anh du nhập miền Nam qua hai thời kỳ, dưới hai dạng
ngôn ngữ: tiếng Anh của người Anh (British English) và tiếng Anh của người Mỹ
(American English). Thời Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963), tiếng Anh song song với
tiếng Pháp, được chọn làm sinh ngữ chính và phụ, tùy theo sự lựa chọn của học
sinh từ bậc Trung học (lớp Đệ thất trở lên). Tài liệu giảng dậy tiếng Anh vẫn lệ
thuộc vào chương trình của người Pháp nên chịu ảnh hưởng của British English
(còn gọi là Ăng-lê – Anglais). Một trong những sách học tiếng Anh phổ biến
trong thời kỳ này là bộ L’Anglais Vivant của nhà xuất bản Hachette (Pháp).
L’Anglais Vivant
Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) là thời thịnh hành của American English tại miền
Nam. Điều này cũng dễ hiểu vì sự có mặt của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh
Việt Nam (2). Vào giai đoạn này, người ta bắt đầu sử dụng những sách giáo khoa
theo trường phái American English như English for Today, English 900, American
Streamline… Ngôn ngữ Sài Gòn xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của tiếng Mỹ trong thời
kỳ này và có những vay mượn rất lý thú.
OK (okay) có lẽ là một từ nổi bật nhất trong tiếng Mỹ được sử dụng rộng rãi
tại miền Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Một số người cho rằng từ này bắt
nguồn này bộ tộc da đỏ Choctaws ở Châu Mỹ. Chữ “okeh” của người Choctaw có nghĩa
tương tự như từ OK của người Mỹ. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều tranh cãi về thuật
ngữ này. Theo chuyên gia ngôn ngữ Allen Walker Read, OK là dạng viết ngắn của cụm
từ “all correct”. Những người khác thì cho rằng OK là dạng chữ tắt của các từ
Hy Lạp có nghĩa là mọi thứ đều ổn cả. Không phải ai cũng đồng ý với những giải
thích này nên kết luận hãy còn bỏ ngỏ.
Tại miền Nam, còn phát sinh từ ngữ OK Salem, một từ ghép thường được dùng bởi
giới bình dân, ít học như gái bán ba (bar), dân xích lô hoặc trẻ đánh giày. Một
hình ảnh phải nói là rất xấu trên đường phố thời đó: trẻ con thường chạy theo
các chú GIs (Government Issues – ám chỉ lính Mỹ vì dùng đồ chính phủ cấp phát)
để chìa tay xin thuốc lá hay kẹo chewing-gum (kẹo cao su)… miệng thì OK Salem rối
rít.
Thuốc hút Salem có vị bạc hà (menthol), rất thịnh hành khi lính Mỹ đến Việt
Nam, họ mua từ PX (Post Exchange – một hình thức Quân tiếp vụ, chỉ bán cho quân
nhân Hoa Kỳ) và tuồn hàng ra thị trường chợ đen (black market). Người Sài Gòn
chê Salem là loại thuốc dành cho… phụ nữ, thuốc dành cho đàn ông “sành điệu” phải
kể đến Pall Mall, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston…
Salem được giới ăn chơi Sài Thành “chiết tự” thành Sao Anh Làm Em Mệt trong
khi Pall Mall được giới lính tráng biến thành cụm từ Phải Anh Là Lính, Mời Anh
Lên Liền… Có điều thuốc Salem tại Mỹ được phát âm là “xê-lầm” nhưng khi sang đến
Việt Nam lại biến thành “xa-lem” nên nếu có sang Mỹ mà hỏi mua thuốc “xa-lem”
chắc chắn người bán sẽ lắc đầu quầy quậy!
Thuốc lá Salem
Number one cũng là một cụm từ được dùng thường xuyên tại miền Nam với ngụ
ý… số dzách hay số một. Người bình dân dùng number one thay cho good chẳng hạn
như trong câu tiếng Anh “bồi”: “You number one GI!”. Phản nghĩa với number one
sẽ là number ten, hoặc tệ hơn nữa là “nâm-bờ ten tháo giường” được Việt hóa từ
“number ten thousand” (số mười ngàn). Ai dám bảo là dân Việt không có óc khôi
hài?
Cao bồi là thuật ngữ đã đi vào ngôn ngữ miền Nam khi hàng loạt các loại
“phim miền Tây” (Western movies) hay còn gọi là “phim cao-bồi”, được chiếu tại
các rạp xi nê. Cowboys vốn là những chàng trai chăn bò, có người hành động một
cách nghĩa hiệp “trừ gian diệt bạo” nhưng cũng có những kẻ “đầu trộm đuôi cướp”
trong bối cảnh Miền Tây Hoang dã (the Wild Wild West) tại Hoa Kỳ thời lập quốc.
Bên cạnh các cowboys còn có sự hiện diện của sheriff với ngôi sao trên ngực, họ
là những cảnh sát do dân trong thị trấn bầu lên để thực thi luật pháp.
Phim cao bồi đầu tiên tại Mỹ thuộc loại phim câm (silent film) mang tên The
Great Train Robbery được sản xuất vào năm 1903. Những phim cao bồi nổi tiếng thời
Sài Gòn xưa phải kể đến Gunfight at the O.K. Corral (năm 1957 với các tài tử
Burt Lancaster, Kirk Douglas), Rio Bravo (1959 với John Wayne, Dean Martin,
Ricky Nelson), The Misfits (1961 với Clark Gable, Marilyn Monroe, Montgomery
Clift), The Good, the Bad and the Ugly (1966 với Clint Eastwood, Lee Van
Cleef), Little Big Man (1970 với Dustin Hoffman, Faye Dunaway)…
Cao bồi đeo ngôi sao Sheriff
(ảnh chụp năm 1971 tại Alamo Village, San Antonio, Texas)
Từ ngữ cao bồi sau khi du nhập vào miền Nam lại có những biến thể về ý nghĩa.
Người lái xe cao bồi được hiểu là lái ẩu, ăn mặc cao bồi là diện những bộ quần
áo lố lăng, khó coi…
Tôi còn nhớ, ngày xưa thường hát Học sinh hành khúc của Lê Thương (nghe bản
nhạc này tại http://www.youtube.com/watch?v=f2oYKkPgnFs&feature=related)
với những lời ca tụng một thế hệ học sinh của tương lai đất nước:
“Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.
Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao…”
Thế nhưng, bài hát này đã được ai đó, chắc là mấy cậu học trò “rắn mắt”, cải
biên thành:
“Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô
Học sinh là người hủ tiếu ăn hai ba tô…”
Chả là học sinh chỉ có đồng phục quần xanh-áo trắng nên anh nào mặc áo ca
rô thì bị “chụp mũ” là học sinh cao bồi. Còn cái vụ hủ tiếu mà ăn tới “hai, ba
tô” thì phải “xét lại”, có thể vì “bí vận” nên câu trước “áo sơ mi ca rô” câu
sau có vần “hủ tiếu ăn hai ba tô” chứ học sinh làm gì có tiền mà ăn nhiều đến
thế.
Tiện đây cũng xin nhắc lại chuyện phim ảnh của Sài Gòn xưa. Để diễn tả một
một sự kiện có tính cách kinh dị, người ta còn dùng từ ngữ “hít-cốc”, xuất xứ từ
cái tên của đạo diễn Alfred Joseph Hitchcock, “ông vua phim kinh dị” của nền điện
ảnh Hoa Kỳ với khoảng 50 bộ phim kéo dài suốt 6 thập kỷ.
Người Sài Gòn đã có dịp xem rất nhiều phim hít-cốc “toát mồ hôi lạnh” như
The Man Who Knew Too Much (1956, với James Stewart và Doris Day – trong phin
này Doris Day hát bài What Will Be, Will Be – Que Sera, Sera và đoạt giải Oscar
âm nhạc hay nhất); Vertigo (1958, với James Stewart, Kim Novak); Psycho (1960,
với Anthony Perkins, Janet Leigh); The Birds (1963, với Tippi Hedren, Rod
Taylor)… (Xem thêm bài viết về Điện ảnh Sài Gòn tại http://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/10).
Một trong những tác động xấu của người Mỹ đến miền Nam trong cuộc chiến vừa
qua là hiện tượng xì-nách ba (snack bar) mọc lên như nấm sau cơn mưa tại Sài
Gòn. Khác hẳn với snack bar nguyên thủy ở Hoa Kỳ, thường được hiểu là nơi bán
các loại thức ăn nhẹ (snack) như hot dogs, hamburgers, french fries, potato
chips, corn chips… còn kèm theo đồ uống.
Sang đến Việt Nam, xì-nách ba trở thành nơi lui tới của những người lính Mỹ
xa nhà để uống rượu giải sầu và được phục vụ bởi các cô gái bản xứ. Họ thường
là gái quê, ít học và có chút nhan sắc, ăn mặc “thời thượng” với chiếc mini
jupe ngắn cũn cỡn. Gái xì-nách ba, hay còn gọi là gái bán ba, thường chỉ ngồi uống
nước ngọt hay nước trà với khách nên lính Mỹ gọi đó là Saigon Tea có giá từ 1 đến
2 đô la một ly. Các cô làm ở xì-nách ba không hẳn là gái điếm vì không phải cô
nào cũng “đi khách”.
Cũng từ các cô gái bán ba phát sinh ra loại tiếng Anh “giả cầy” kiểu
“broken English”. Người ta nghe loáng thoáng trong câu chuyện giữa các cô “đấu
hót” với lính Mỹ “Hello GI, you buy me Saigon tea” (Chào anh lính, anh mua cho
em ly Sài Gòn ti nhé) hay còn rùng rợn với câu “No star where”, một cụm từ trấn
an mà các cô dịch thẳng từ tiếng Việt: Không sao đâu!
Lính Mỹ còn đưa vào Việt Nam một số thuật ngữ được dùng từ hồi chiến tranh
Triều Tiên. Để gọi người đàn bà lớn tuổi họ dùng mama-san, đàn ông thì gọi là
papa-san còn con nít là baby-san. Cũng vì thế, trong câu chuyện ở snack bar người
ta thường bắt gặp những từ này khi các cô gái bán ba muốn nói về gia đình mình.
Mama-san còn được dùng để chỉ người điều hành snack bar, tương tự như tài-pán,
người phụ trách điều động gái nhảy tại các dancing thời Pháp thuộc.
Kinh doanh xì-nách ba là một nghề hái ra tiền tại Sài Gòn bên cạnh những dịch
vụ như tắm hơi (steam bath), mát-xa (massage) nhưng cũng chính các nghề này đã
khiến cuộc sống trong xã hội mất đi sự lành mạnh, đưa đẩy một số phụ nữ vào con
đường tội lỗi. Tuy nhiên, người ta cũng hiểu đó là những hệ quả không thể nào
tránh khỏi của một đất nước trong tình trạng chiến tranh.
Sài Gòn và những quán bar, nhà hàng, khách sạn
Xã hội miền Nam bên cạnh nghề thu hút một số người làm việc tại các quán ba
còn có một giai cấp cao hơn, họ làm việc cho các hãng thầu tư nhân của Mỹ như
hãng RMK được thành lập từ đầu thập niên 60 với các công trình xây dựng xa lộ
Biên Hòa, Quốc lộ 4 tại Phụng Hiệp… hoặc các cơ quan trực thuộc chính phủ Hoa Kỳ
như USAID.
Nói chung, họ là những người đi làm sở Mỹ với mức lương cao nhưng phải đạt
một trình độ tiếng Anh khả dĩ trong công việc hàng ngày. Những người có trình độ
cao hơn thì làm thông dịch viên, ngay như Trường Sinh ngữ Quân đội cũng có những
khóa đào tạo thông dịch viên đồng hóa với cấp bậc trung sỹ để về phục vụ tại
các tiểu khu có cố vấn Mỹ.
Năm 2011, tại Little Saigon, đã có một buổi họp mặt “Cựu nhân viên sở Mỹ”
nhân dịp Giáng sinh. Gần 400 cựu nhân viên đã đến dự cuộc hội ngộ này, đa số là
những người đã từng làm việc tại Tòa đại sứ, Tổng lãnh sự Mỹ, các cơ quan
chuyên môn như DAO, CIA, MACV, USAID, USIS cùng những nhân viên hãng thầu RMK của
tư nhân.
Cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 là thời kỳ Sài Gòn chịu ảnh hưởng từ
của phong trào hippy (hippie) của Mỹ. Người ta thấy xuất hiện những từ ngữ có
liên quan đến hippy như hoa hippy, hippy bụi đời, hippy choai choai, hippy
yaourt… Những kiểu thời trang hippy cũng xuất hiện: váy ngắn (mini jupe,
miniskirt), quần ống loe (quần chân voi), áo dài hippy thì ngắn cũn cỡn mặc
chung với quần ống loe còn con trai thì tóc dài đến độ nhìn từ xa không thể nào
phân biệt được giới tính…
Văn hóa hippy bao gồm từ phong cách ăn mặc “bụi” đến những tư tưởng phóng
khoáng, chống lại những quy ước cứng nhắc của xã hội. Có thể nói, phong trào
hippy là biến tấu của chủ nghĩa hiện sinh (existentialism) theo kiểu “yêu cuồng,
sống vội” với Jean Paul Sarte, Françoise Sagan từ văn hóa Pháp.
Cuối thập niên 60s, phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam đã nở rộ tại Mỹ
với khẩu hiệu “Make love not war". Biểu tượng của phong trào hippy là hoa
không lá (còn gọi là hoa hippy), đó là hình tượng của Power Flower (sức mạnh của
hoa) được bắt đầu từ năm 1965 tại khu Berkerly, California. Người ta còn nhớ
mãi hình ảnh một cô gái hippy đã gắn hoa trên họng súng của một quân nhân thi
hành nhiệm vụ giữ trật tự trong một cuộc biểu tình phản chiến (3).
“Power Flower” – Hoa Hippy
Ở Sài Gòn, các người đẹp gắn hoa hippy lên tóc, cài lên tai, dán lên mắt
kính để làm duyên. Người ta còn vẽ hoa lên xe hơi, lên xe Honda, thậm chí đôi
lúc còn thấy hoa hippy xuất hiện trên cyclo, xe ba gác, xe bò. Cô em gái tôi có
một chiếc áo khi ủi đồ bị than rớt cháy thủng một lỗ, thế là cô gắn luôn một
cái hoa hippy, trước là để “ngụy trang” sau là chạy theo… thời trang! Có thể
nói Sài Gòn khi đó giống như Trăm hoa đua nở, nhại tên một chiến dịch thanh trừng
chính trị ở miền Bắc.
Tôi còn nhớ, Trường Sinh ngữ Quân đội vào cuối thập niên 60 có một Chuẩn úy
mới từ Thủ Đức về. Anh Thịnh là một chuẩn úy trẻ, có học vị cao nhưng lại rất
lè phè trong lối sống. Hằng ngày anh đến trường bằng chiếc xe hơi bỏ mui
(decapotable) được trang trí bằng những bông hoa hippy. Thế là anh chuẩn úy trẻ
có tên “Thịnh Hippy” kể từ đó.
Bức hình này gợi nhớ “Thịnh Hippy” ở trường SNQĐ
Có thể nói, phong trào hippy cũng lan rộng đến người lính qua chuyện về “Thịnh
Hippy” nhưng nói chung, những người lính trận mỗi khi có dịp đi phép về thành
phố chắc chắn không thể chấp nhận lối sống hippy của các thanh niên, thiếu nữ tại
chốn phồn hoa đô hội.
Những người hằng ngày phải đương đầu với súng đạn làm sao có thể “thông cảm”
với những người hằng đêm đi “bum” tại các phòng trà, dancing. Một đằng thì phải
hy sinh tính mạng để “tham chiến” còn một đằng thì lại ăn chơi để “phản chiến”.
Đó là một trong những “mâu thuẫn” trong chiến tranh Việt Nam. Phải chăng đó cũng
là một trong những lý do khiến miền Nam sụp đổ?
***
Chú thích:
(1) Henri Oger (1885-1936?) tên đầy đủ là Henri-Joseph Oger là một người
Pháp tình nguyện sang Bắc Kỳ đi lính và được biết đến qua bộ sưu tập tranh mộc
bản vẽ các sinh hoạt thường nhật của người Việt vào đầu thế kỷ 20. Trong khoảng
20 tháng làm việc tại Hà Nội (1907-1909), ông là người đã cùng các họa sĩ, thợ
khắc mộc bản, thợ in và các nhà Nho cố vấn (tất cả trên ba mươi người) hoàn
thành tác phẩm Technique du peuple annamite (Kỹ thuật của người An Nam), một
công trình nghiên cứu về văn minh vật chất của vùng Hà Nội vào đầu thế kỷ 20.
Ở nước ngoài, một ít bản hiện lưu giữ dưới dạng vi phim tại các ĐH như
Johns Hopkins Baltimore, Southern Illiois Carbondale, California Berkeley,
Cornell. Tại Pháp, lưu ở Thư viện nghệ thuật và khảo cổ học - Paris IV
Sorbonne. Tại Nhật, lưu ở ĐH Keio, Minato-Ku. Riêng ở Việt Nam là nơi ấn hành
hiện cũng chỉ còn biết đến hai bản: một bản (không đầy đủ) lưu giữ tại Thư viện
quốc gia Hà Nội, và một bản khác (tương đối tốt) lưu giữ tại Thư viện dưới thời
Việt Nam Cộng hòa.
(2) Trên thực tế, tháng 9/1950 Tổng thống Mỹ Harry Truman đã cử một Phái bộ
Cố vấn Quân sự (Military Assistance Advisory Group - MAAG) đến Việt Nam để trợ
giúp quân viễn chinh Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương chống lại những người
Việt Minh. Phái bộ này không thực hiện nhiệm vụ như những quân nhân chiến đấu
mà chỉ giám sát việc sử dụng các trang thiết bị quân sự viện trợ của Mỹ trị giá
10 triệu đô la.
Sau Hiệp định Geneve 1954, quân Pháp rút khỏi Việt Nam. Để giúp những người
Việt chống Cộng, chính phủ Mỹ đã quyết định viện trợ quân sự của Mỹ sẽ chuyển
trực tiếp cho chính phủ Ngô Đình Diệm, khi đó số cố vấn tại MAAG đã tăng lên đến
740 người. Viện trợ quân sự của Mỹ tăng nhanh chóng từ 50 triệu đô la (1959)
lên đến 144 triệu đô la (1961).
Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (The US Military Assistance
Command, Vietnam), viết tắt là MACV, được thành lập vào tháng 2/1962, về danh
nghĩa là cơ quan chỉ huy quân sự toàn bộ các lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam,
nhưng trên thực tế, có quyền hạn chỉ huy về mặt quân sự của toàn bộ các lực lượng
quân sự của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh tại Nam Việt Nam.
Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, tên chính thức là Defense
Attaché Office (DAO) được Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ được thành
lập tháng 1/1973. Đây là một cơ quan thống nhất phụ trách các tuỳ viên quân sự
Hoa Kỳ tại Việt Nam, đồng thời quản lý việc hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt
Nam sau khi ngừng bắn.
(3) Có thể nói, tại Việt Nam, hippy chỉ là một phong trào có tính cách thời
trang trong khi tại Mỹ hippy là cả một chiến dịch phản chiến qua đủ mọi hình thức:
ca nhạc, tư tưởng, lối sống… Phong trào Hippy bắt đầu từ năm 1967 với một đại hội
nhạc trẻ Summer of Love được tổ chức trong 3 ngày (16, 17 và 18/6/1967) tại
Monterey, phía bắc tiểu bang California, cách San Francisco không xa.
San Francisco (Be Sure to Wear Flowers in Your Hair) là bài hát tiêu biểu của
đại nhạc hội do John Phillips viết và ca sĩ Scott McKenzie trình diễn với ca từ:
If you're going to San Francisco,
be sure to wear some flowers in your hair...
If you're going to San Francisco,
you're gonna meet some gentle people there
Thành phố San Francisco được xem là cái nôi của Hippy sau đó lan rộng đến
các thành phố New York, Los Angeles, Philadelphia, Seattle, Portland,
Washington, D.C., Chicago, Miami, Montreal, Toronto, Vancouver, và qua tận Châu
Âu.
***
(Trích Hồi Ức Một Đời Người, Chương 4 – Thời quân ngũ)
Hồi Ức Một Đời Người gồm 9 Chương:
Chương 1: Thời thơ ấu (từ Hà Nội vào Đà Lạt)
Chương 2: Thời niên thiếu (Đà Lạt và Ban Mê Thuột)
Chương 3: Thời thanh niên (Sài Gòn)
Chương 4: Thời quân ngũ (Sài Gòn – Giảng viên Trường Sinh ngữ Quân đội)
Chương 5: Thời cải tạo (Trảng Lớn, Trảng Táo, Gia Huynh)
Chương 6: Thời điêu linh (Sài Gòn, Đà Lạt)
Chương 7: Thời mở lòng (những chuyện tình cảm)
Chương 8: Thời mở cửa (Bước vào nghề báo, thập niên 80)
Chương 9: Thời hội nhập (Bút ký những chuyến đi tới 15 quốc gia và lãnh thổ)
Tác giả còn dự tính viết tiếp một Chương cuối cùng sẽ mang tên… Thời xuống
lỗ (thập niên 2000 cho đến ngày xuống lỗ)!
***
15 Comments on Multiply
nam64 wrote on Mar 28, edited on Mar 29
Ròm gom 3 Entry lại thành một bài và làm ra một cái file PDF .
Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Những chữ vay mượn
http://nam64.multiply.com/journal/item/4800/4800Ngôn
ngữ Sài Gòn xưa: Những chữ vay mượn (1)
Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Những chữ vay mượn (2)
Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: Những chữ vay mượn (3)
Attachment: Ngôn ngữ Sài Gòn xưa Những chữ vay mượn.pdf
nguyenngocchinh wrote on Mar 28
Đã xem file PDF tổng hợp cả 3 bài nhưng bài cuối cùng hình như bị trục trặc,
phần text không được liền lạc, trơn tru. Cám ơn Nam Ròm rất nhiều.
nam64 wrote on Mar 28
nguyenngocchinh said “Đã xem file PDF tổng hợp cả 3 bài nhưng bài cuối cùng
hình như bị trục trặc, phần text không được liền lạc, trơn tru. Cám ơn Nam Ròm
rất nhiều.”
Để em xem lại, nếu có gì em làm lại mới sau. Khuya rồi mắt mũi lờ mờ, làm
xong mà hổng có kiểm kỹ lại hehehe
nam64 wrote on Mar 28
Ah em thấy rồi, sau khi gom lại bài dài quá, Word chưa load xuông đầy đủ và
dàn cho ổn định mà em lại save trước khi nó xong thành ra như vậy. Ngày mai tỉnh
táo em làm lại.
nguoigiaonline wrote on Mar 28
Đúng như Ròm nói đó, sửa cho anh em nhờ héng (chỉ phần 3 lỗi). Rất trân trọng
những cố gắng của anh Chính cũng như Ròm về tư liệu này.
nam64 wrote on Mar 29
nguoigiaonline said “Đúng như Ròm nói đó, sửa cho anh em nhờ héng (chỉ phần
3 lỗi). Rất trân trọng những cố gắng của anh Chính cũng như Ròm về tư liệu
này.”
Hí hí được rồi đó hehe
Tìm lỗi tại sao nó hổng được te tua luôn, nhưng cuối cùng cũng sửa lỗii và
làm lại được hihi. Lò mò lò mò cũng ra cái chỗ chỉnh để save ra pdf file
hehehehe. Cái thằng Word 2007 của Ròm nó khác với thằng Word XP mà hồi trước
Ròm quen chổ chỉnh, phải lò mò tìm lại chổ chỉnh từng phần mới ra được những
nơi mình cần chỉnh.
Bên Ròm thấy thì được rồi đó, nhưng bên anh xem như thế nào thì Ròm không
biết ....có gì không ổn la lên cho Ròm biết với nha, cám ơn anh.
casmof wrote on Mar 28, edited on Mar 28
Nhật Bản, Đại Hàn là 2 quốc gia có nền khoa học kỹ thuật và văn hoá tiến bộ
hơn đất nước VN hiện nay gấp nhiều lần. Vậy mà chữ nghĩa của 2 quốc gia văn
minh hạng nhứt trong nhóm các quốc gia văn minh Châu Á nầy lại có đến gần 60%
chữ vay mượn từ tiếng Trung Quốc, nhưng họ vẫn tự hào dân tộc, họ có bản sắc
riêng không phải Tàu cũng chẳng phải Tây. Quan trọng hơn hết có lẽ là từ cái đầu
của các nhà nghiên cứu văn hoá nghĩ gì và lương tri, kiến thức, trình độ hiểu
biết sự thành hình văn hoá thế giới của loại trí thức nầy đến đâu.
nam64 wrote on Mar 29, edited on Mar 29
Anh Chính ơi, Ròm làm lại pdf xong rồi đó, anh kiểm lại giùm Ròm nhe, cám
ơn anh.
nguyenngocchinh wrote on Mar 29
nam64 said “Anh Chính ơi , Ròm làm lại pdf xong rồi đó ,anh kiểm lại giùm
Ròm nhe, cám ơn anh.”
Đã kiểm lại file pdf, lần này thì hoàn hảo rồi. Một lần nữa, Cám ơn Ròm
nhé.
thahuong82 wrote on Mar 29
Nói đến hoa hippy tôi chợt nhớ Tiểu Đoàn 231/PB chơi hoa Hippy ở đầu xe
jeep (dưới tấm kiếng) để phân biệt các Pháo đội. PĐ chỉ huy hoa hippy màu vàng
các PĐ A-B-C Xanh, trắng, đỏ… ông thiếu tá tiểu đòan trưởng rất chịu chơi!
thahuong82 wrote on Mar 30
Anh Ròm hay anh Chính chỉ dùm: Tôi rinh một tấm hình từ internet về dán
(past) trong một bài viết của mình, tại sao lúc gởi đi có người thấy hình, có
người không thấy hình?
nam64 wrote on Mar 30
thahuong82 said “Anh Ròm hay anh Chính chỉ dùm: Tôi rinh một tấm hình từ
internet về dán (paste) trong một bài viết của mình, tại sao lúc gởi đi có người
thấy hình, có người không thấy hình?”
Click chuột phải vào hình chọn "copy hình" rồi qua bên compose
blog entry nơi đang viết bài, cũng click chuột phải vào nơi nào mình muốn chọn
phần "dán vào = paste", chỉ đơn giản vậy thôi.
Hình có người thấy người không, đó là do nguồn (link) hình, người xem có thể
vào cái link đó được hay không? Nhiều trang mạng bên ngoài bị chặn, dân trong
nước không vào được ===> gặp trường hợp này mình có thể đem hình về PC và
đưa lên lại trên Multiply cho bà con xem.
Xem Entry này của Ròm nè :
Post hình từ PC lên Mult http://nam64.multiply.com/journal/item/3120/3120
thahuong82 wrote on Mar 30
Hình sở hữu thì OK chỉ hình chôm chỉa mới biến mất thôi. Cám ơn bạn
vietnamhoc wrote on Jul 10
Xin phép tác giả cho chép loạt bài này về blog tìm hiểu từ nguyên
(tunguyenhoc.blogspot.com). Xin cảm ơn rất nhiều. Minh.
nguyenngocchinh wrote on Jul 11
vietnamhoc said “Xin phép tác giả cho chép loạt bài này về blog tìm hiểu từ
nguyên (tunguyenhoc.blogspot.com). Xin cảm ơn rất nhiều. Minh”
Tôi đã vào trang "Từ Nguyên Học" (tunguyenhoc.blogspot.com) của
anh. Trang web có rất nhiều bài viết công phu về ngôn ngữ. Tiện đây cũng xin giới
thiệu với các bạn đọc gần xa.
No comments:
Post a Comment