Thursday, May 10, 2018

Cách nay 724 năm Thiết Mục Nhĩ (Temür Öljeytü Khan) lên ngôi làm Nguyên thành tông.

Ngày 10 tháng 05, 1294

·        1294 – Thiết Mục Nhĩ lên ngôi tại Thượng Đô, trở thành hoàng đế thứ hai của triều Nguyên và đại hãn thứ sáu của đế quốc Mông Cổ.


Nguyên Thành Tông

Nguyên Thành Tông
元成宗
Hoàn Trạch Đốc hãn
完澤篤汗
Tại vị                                   1294 - 1307
Tiền nhiệm                        Nguyên Thế Tổ
Kế nhiệm                           Nguyên Vũ Tông
Hoàn Trạch Đốc hãn
Khả hãn Mông Cổ (danh nghĩa)
Tại vị                                   1294 - 1307
Tiền nhiệm                        Tiết Thiện hãn
Kế nhiệm                           Khúc Luật hãn

Thông tin chung
Hậu duệ                             Xem văn bản
Hậu duệ                             Xem văn bản
Tên đầy đủ                        Thiết Mộc Nhĩ hoặc Thiết Mục Nhĩ (鐵木/穆耳 Tiěmùér; Temür, Төмөр,Tömör,)
Niên hiệu                           Nguyên Trinh (元貞1295-1297, Đại Đức (大德1297-1307
Thụy hiệu                          Khâm Minh Quảng Hiếu Hoàng Đế (欽明廣孝皇帝)
Hoàn Trạch Đốc Hãn (Öljeitü Hãn, 
ᠥᠯᠵᠡᠶᠢᠲᠦ ᠬᠠᠭᠠᠨ Өлзийт хаан)
Miếu hiệu                          Thành Tông (成宗)
Hoàng tộc                          Bột Nhi Chỉ Cân (Боржигин)
Thân phụ                           Chân Kim
Thân mẫu                          Kokejin (Bairam egchi)
Sinh                                     1265
Mất                                     10 tháng 21307, Đại Đô (Khanbalic)

Nguyên Thành Tông (chữ Hán: 元成宗) hay Hoàn Trạch Đốc Khả hãn(ᠥᠯᠵᠡᠶᠢᠲᠦ ᠬᠠᠭᠠᠨ, Өлзийт хаан, Öljeitü qaγan, Öljeytü qaγan, Öljiyt qaγan) (12651307) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên.
Ông làm hoàng đế Trung Hoa từ năm 1294 đến năm 1307, đồng thời là Khả hãn trên danh nghĩa của đế quốc Mông Cổ. Ông là con trai thứ ba của hoàng thái tử Chân Kim (真金) và là cháu nội của Đại hãn Hốt Tất Liệt.
Hốt Tất Liệt (tiếng Mông Cổ: Хубилай хаан (Xubilaĭ Khaan), chữ Hán: 忽必烈; bính âm: Hūbìliè; 23 tháng 9, 1215[5] - 18 tháng 2, 1294[6]), Hãn hiệu Tiết Thiện Hãn (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠨ, Сэцэн хаан), là Đại khả hãn thứ 5 của Đế quốc Mông Cổ, đồng thời là người sáng lập ra triều đại nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc.
Thiết Mộc Nhĩ là một vị hoàng đế tài ba của nhà Nguyên. Ông giữ đế chế này theo cách mà Hốt Tất Liệt đã thực hiện dù ông không đạt được thành tựu lớn nào. Ông đã tiếp tục nhiều cải cách kinh tế của Hốt Tất Liệt, duy trì hòa bình với các hãn quốc phía tây và các nước láng giềng như Đại Việt và Chiêm Thành, những quốc gia công nhận quyền tối cao của ông trên danh nghĩa.

Sự nghiệp thời kỳ đầu

Ông nguyên tên là Temür (Tiếng Mông Cổ: {{lang|mn|ᠲᠡᠮᠦᠷ, Төмөр, Tömör; phiên âm Hán: 鐵木耳Thiết Mộc Nhĩ hoặc 鐵穆耳Thiết Mục Nhĩ), sinh năm 1265, thuộc gia tộc Borjigin. Cha ông là hoàng thái tử Chân Kim chết sớm năm 1285. Mẹ ông là Kökejin, người bộ tộc Khonghirad.
Hốt Tất Liệt giao nhiệm vụ cho ông bảo vệ khu vực Liêu Hà và Liêu Đông ở phía đông khỏi Nayan (Naiyan) và các họ hàng kình địch khác năm 1287. Ông đã đẩy lui họ với sự hỗ trợ của các tướng của Hốt Tất Liệt. Sau đó ông được chỉ định làm tổng binh trấn thủ Mạc Bắc Karakorum (Cáp Lạp Hòa Lâm hay Hòa Lâm) và khu vực xung quanh vào năm 1293, sau khi được phong làm hoàng thái tử. Khi bị các lực lượng của Hải Đô (trị vì hãn quốc Sát Hợp Đài) bao vây, ông đã được người Kypchak (Khâm Sát) bảo vệ. Ba hoàng tử của hãn quốc Sát Hợp Đài đã quy phục ông trong khi ông phòng thủ Đông Mông Cổ (họ đã chạy tới hãn quốc này ngay sau đó và lại quay trở lại nhà Nguyên một lần nữa trong thời gian trị vì của ông).

Trị vì

Hoàng đế nhà Nguyên

Thiết Mộc Nhĩ ban đầu không phải người kế vị do Hốt Tất Liệt chỉ định, nhưng ông đã trở thành người kế vị năm 1293 sau khi cha của ông, thái tử Chân Kim, mất năm 1285. Ông lên ngai vàng với sự ủng hộ của mẹ ông Kököjin và của các quan lại có tài của Hốt Tất Liệt, như Üs Temür, thừa tướng Bá Nhan (Bayan), Bukhumu, Öljei. Những quan lại cao cấp này đã bảo đảm cho việc lựa chọn của Hốt Tất Liệt trở thành sự thật sau cuộc tranh giành ngai vàng của người anh là Cam Ma Lạt (Gamala).
Nhiều vị trí cao trong đế quốc của ông do những người với nguồn gốc khác nhau nắm giữ, như người Mông Cổ, người Hán, người theo Hồi giáo và một ít người theo Kitô giáo. Về mặt tư tưởng, chính quyền của Thiết Mộc Nhĩ tuân theo Nho giáo và dành sự tôn trọng cho các học giả Nho giáo. Sau khi kế vị ông đã ban hành chỉ dụ bày tỏ lòng sùng kính Khổng Tử. Cụ thể, hữu thừa tướng Harghasun là một người gần với các học giả Nho giáo. Tuy nhiên, triều đình của ông không chấp nhận mọi nguyên tắc của đạo Khổng.
Ông cấm chưng cất và buôn bán rượu tại lãnh thổ nhà Nguyên năm 1297. Sử gia người Pháp Rene Grousset tán thưởng hành động này của ông trong cuốn sách The Empire of Steppes.

Rene Grousset
Ông cũng miễn giảm thuế cho người dân của mình trong hai năm.
Thiết Mộc Nhĩ là một vị hoàng đế tài năng của nhà Nguyên. Ông giữ cho đế quốc theo con đường mà Hốt Tất Liệt để lại mặc dù ông không đạt được nhiều thành tựu lớn. Ông tiếp tục duy trì nhiều cải cách kinh tế của Hốt Tất Liệt và cố gắng khôi phục nền kinh tế sau những chiến dịch tốn kém của Hốt Tất Liệt trước đó. Ông đã để cho đế chế phục hồi vết thương thất bại đặc biệt sau chiến dịch tấn công nhưng thảm bại ở Đại Việt. Một trong số các vấn đề là các quan lại tham nhũng bắt đầu xuất hiện trong thời gian trị vì của ông, nhưng về tổng thể, đế quốc mà ông cha ông dựng lên vẫn còn hùng cường.

Chiến dịch quân sự

Ngay sau khi lên ngôi năm 1294, Thiết Mộc Nhĩ đã ra lệnh chuẩn bị cho công cuộc tiếp tục mở rộng lãnh thổ sang Nhật Bản và Đại Việt, do những vị vua của hai nước này không chịu sang chầu năm 1291. Các vị vua của Đại Việt, Myanma và Sukhotai sau đó đã cử sứ giả tới Khanbalik (Đại Đô) để công nhận ông như là hoàng đế thiên triều vào năm 1295 và một lần nữa vào năm 1300. Ông đã cử sứ giả tới Đại Việt để tỏ thiện ý của mình. Sau khi nhận được đồ triều cống từ Đại Việt, ông đã từ bỏ ý tưởng tấn công quốc gia này nhưng ông đã cho quân đội đàn áp những cuộc nổi dậy trong khu vực miền núi phía tây nam, do các thủ lĩnh các bộ lạc miền núi như Song Longji và Shejie cầm đầu năm 1296. Các tướng Liu Shen và Liu Guojie phải mất nhiều tháng mới dẹp yên những cuộc nổi dậy này. Theo yêu cầu của hoàng tử người Mon, ông đã cử một đội quân tiến vào nước này năm 1297. Đội quân này đã thành công trong việc đuổi người Shan ra khỏi Myanma.
Quân đội nhà Nguyên cũng dập tắt các tàn tích của Naiyan dưới sự chỉ huy của Khadan (hậu duệ của Dã Tốc Cai (Yesugei) tại Mãn Châu và Altai trong thời gian trị vì của ông.

Dã Tốc Cai Bạt Đô hay Dũng sĩ Dã Tốc Cai (tiếng Mông Cổ: Yesügei Baghatur, chữ Hán: 也速該; ??-1171) là thủ lĩnh của tộc Kiyad người Mông Cổ và là cha của Thiết Mộc Chân tức Thành Cát Tư Hãn sau này
Thiết Mộc Nhĩ cũng cử sứ giả tới Nhật Bản và Chiêm Thành để đòi triều cống. Chiêm Thành chấp nhận nhưng Liêm Thương mạc phủ (Kamakura shogunate) thì không. Năm 1300, một đội quân của nhà Nguyên đã tràn vào Myanma để bảo vệ chư hầu của mình trước cuộc xâm lăng của người Thái nhưng không thành công. Cũng trong năm đó, ông đã cho quân đội tấn công Hải Đô. Hãn Buyan của Bạch Trướng hãn quốc cũng đề nghị Thiết Mộc Nhĩ hỗ trợ để chống lại Hải Đô và những người anh em họ nổi loạn của mình. Nhưng mẹ của hoàng đế đã cảnh báo ông là không nên đem quân truy kích kẻ thù. Hải Đô và Duwabị quân Nguyên đánh bại và Hải Đô chết năm sau đó. Ngay sau đó, tình hình chính trị tại Trung Á đã thay đổi.

Đại hãn của đế quốc Mông Cổ

Hãn Mahmud Ghazan của hãn quốc Y Nhi đã cải sang Hồi giáo ngay sau khi lên ngôi năm 1295.

Lãnh thổ Y Nhĩ hãn quốc lúc rộng nhất

Người cai trị Y Nhĩ hãn quốc, Hợp Tán (Ghazan), đang học kinh Quran.
Ông ủng hộ tích cực việc mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Hồi giáo trong đế quốc của mình và không thừa nhận các mối quan hệ với nhà Nguyên "tà giáo". Nhưng ba năm sau, ông này đã thay đổi chính sách và cử sứ thần tới Đại Đô cùng nhiều quà tặng quý giá như quần áo, ngọc ngà, vàng để chúc mừng Thiết Mộc Nhĩ, người được tôn kính nhất trong gia đình nhà Đà Lôi vào thời gian đó. Đáp lại, Thiết Mộc Nhĩ nói rằng "Các hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn luôn luôn là bạn bè của nhau" và gửi tặng Ghazan một con dấu khắc chữ "王府定國理民之寶" ("Vương phủ định quốc lý dân chi bảo").

Thành Cát Tư Hãn (tên tiếng Mông Cổ: Чингис хаан, Çingis hán; tiếng Mông Cổ: [tʃiŋɡɪs xaːŋ] (nghe); phiên âm Hán: 成吉思汗; 1162[1]-1227) là một Khả hãn Mông Cổ và là người sáng lập ra Đế quốc Mông Cổ sau khi hợp nhất các bộ lạc độc lập ở vùng đông bắc châu Á năm 1206.
Ghazan cũng nhận được phần của mình từ các thái ấp mà nhà Nguyên phong cho cụ tổ của ông là Húc Liệt Ngột (Hulegu). Đoàn sứ thần của Ghazan ở lại triều đình của Thiết Mộc Nhĩ trong 4 năm.

Húc Liệt Ngột (tiếng Mông Cổ: Хүлэгү, Khülegü; Chagatai/Ba Tư: ہلاکو - Hulaku‎ ​; tiếng Ả Rập: هولاكو; khoảng 1217 - 8/2/1265) là một Hãn vương của Mông Cổ
Hulagu Khan, also known as Hülegü or Hulegu(MongolianХүлэгү/ᠬᠦᠯᠡᠭᠦ, translit. Hu’legu’/Qülegü; Chagatay: ہلاکو; Persianهولاکو خان‎, Hulâgu xân; Chinese旭烈兀pinyin: Xùlièwù [ɕû.ljê.û]c. 1218 –8 February 1265), was a Mongol ruler who conquered much of Western Asia.
Năm 1304, Duwa của hãn quốc Sát Hợp Đài, con trai của Hải Đô là Chapar, Tokhta của Kim Trướng hãn quốc và Oljeitu của hãn quốc Y Nhi đã thỏa thuận hòa bình với ông nhằm duy trì các mối quan hệ thương mại và ngoại giao và chấp nhận ông là vị chúa tể tối cao của họ. Theo tập quán cổ, được thừa hưởng từ thời Húc Liệt Ngột, Thiết Mộc Nhĩ phong cho Oljeitu như là hãn mới của hãn quốc Y Nhi và gửi cho ông này con dấu có khắc chữ "真命皇帝和順萬夷之寶" ("Chân mệnh hoàng đế hòa thuận vạn di chi bảo"), sau này được Oljeitu sử dụng trong thư từ gửi cho vua Pháp Philip IV của Pháp năm 1305.

Philippe IV, dit « le Bel »1 et « le Roi de fer » (né à Fontainebleau en avril/juin 1268 – mort à Fontainebleau le 29 novembre 1314), fils de Philippe III le Hardi et de sa première épouse Isabelle d'Aragon, est roi de France de 1285 à 1314, onzième roi de la dynastie des Capétiens directs.
Ngay sau đó cuộc tranh giành giữa Duwa và Chapar đã nổ ra. Thiết Mộc Nhĩ quyết định hỗ trợ Duwa bằng cách gửi đến một đội quân lớn và Chapar cuối cùng đã đầu hàng. Hãn Tokhta của Kim Trướng hãn quốc công nhận địa vị chúa tể của Thiết Mộc Nhĩ bằng cách gửi 2 tumen (khoảng 20.000 quân) tới củng cố biên giới nhà Nguyên.
Ông qua đời tại Khanbaliq năm 10 tháng 2 năm 1307.

Gia đình

·        Vợ:
·        Trinh Từ Tĩnh Ý hoàng hậu, tên là Thất Liên Đáp Lý, người của bộ lạc Hoằng Cát Lạt. Lập hoàng hậu tháng 10 năm 1299. Chết sớm.
·        Bốc Lỗ Hãn hoàng hậu (?-1307), người của bộ lạc Bá Nhạc Ngô. Ban đầu lập làm hoàng hậu năm Nguyên Trinh thứ nhất (1295). Tháng 10 năm 1299 nhận sắc phong.
·        Con:
·        Thái tử Đức Thọ (?-1306), con của Trinh Từ Tĩnh Ý hoàng hậu.
·        Ba công chúa.

Ghi chú

2.      ^ The Cambridge History of China: Alien Regimes and Border States, trang 497-498
3.      ^ Jack Weatherford - Genghis Khan and the making of the modern world
4.      ^ Д.Цэен-Ойдов - Чингис Богдоос Лигдэн хутагт хүртэл 36 хаад
5.      ^ Cleaves, Mostaert và Hung viết trong bài báo năm 1952 rằng con dấu khắc chữ Hán sử dụng trong thư của Öljeitü là do ông ta tự làm ra do ông cho rằng mình trên mọi phương diện là ngang hàng với Thiết Mộc Nhĩ. Trên thực tế, hãn quốc Y Nhi luôn luôn là dễ bảo đối với các đại hãn cho tới tận khi hãn quốc này kết thúc.

 | Đà Lôi (nhiếp chính) (1227-1229) | 
­­ | Nãi Mã Chân (nhiếp chính) (1241-1245)
Quý Do:  Güyük Khan (1246-1248)
 | Hải Mê Thất (nhiếp chính) (1248-1251)
Mông Kha: Möngke Khan (1251-1259)
Hốt Tất Liệt: Kublai Khan (1260-1294): Kublai readied the move of the Mongol capital from Karakorum in Mongolia to Khanbaliq in 1264,[63] constructing a new city near the former Jurchen capital Zhongdu, now modern Beijing, in 1266.[64] In 1271, Kublai formally claimed the Mandate of Heaven and declared that 1272 was the first year of the Great Yuan (Chinese: 大元) in the style of a traditional Chinese dynasty

Temür Khan

Following the conquest of Dali in 1253, the former ruling Duan dynasty were appointed as Maharajah. Local chieftains were appointed as Tusi, recognized as imperial officials by the Yuan, Ming, and Qing-era governments, principally in the province of Yunnan.

Külüg Khan

Külüg Khan (Emperor Wuzong) came to the throne after the death of Temür Khan. Unlike his predecessor, he did not continue Kublai's work, largely rejecting his objectives

Ayurbarwada Buyantu Khan

The fourth Yuan emperor, Buyantu Khan (Ayurbarwada), was a competent emperor.

Gegeen Khan and Yesün Temür

Emperor Gegeen Khan, Ayurbarwada's son and successor, ruled for only two years, from 1321 to 1323.

Jayaatu Khan Tugh Temür

When Yesün Temür died in Shangdu in 1328, Tugh Temür was recalled to Khanbaliq by the Qipchaq commander El Temür. He was installed as the emperor (Emperor Wenzong) in Khanbaliq, while Yesün Temür's son Ragibagh succeeded to the throne in Shangdu with the support of Yesün Temür's favorite retainer Dawlat Shah.

Toghon Temür

After the death of Tugh Temür in 1332 and subsequent death of Rinchinbal (Emperor Ningzong) the same year, the 13-year-old Toghun Temür (Emperor Huizong), the last of the nine successors of Kublai Khan, was summoned back from Guangxi and succeeded to the throne.
Toghan Temür Khan: (1333–1368): Nguyên Huệ Tông (chữ Hán: 元惠宗; 1320 - 1370), hay Nguyên Thuận Đế tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ là vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc

Các vua nhà Nguyên:


Thế Tổ: Hốt Tất Liệt (tiếng Mông Cổ Хубилай хаан (Xubilaĭ Khaan), chữ Hán: 忽必烈bính âmHūbìliè23 tháng 91215[5] - 18 tháng 21294[6]), Hãn hiệu Tiết Thiện Hãn (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠨ, Сэцэн хаан), là Đại khả hãn thứ 5 của Đế quốc Mông Cổ, đồng thời là người sáng lập ra triều đại nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc.
Thành Tông: Nguyên Thành Tông (chữ Hán: 元成宗) hay Hoàn Trạch Đốc Khả hãn (ᠥᠯᠵᠡᠶᠢᠲᠦ ᠬᠠᠭᠠᠨ, Өлзийт хаан, Öljeitü qaγan, Öljeytü qaγan, Öljiyt qaγan) (12651307) là vị hoàng đế thứ hai của nhà Nguyên. Ông làm hoàng đế Trung Hoa từ năm 1294 đến năm 1307, đồng thời là Khả hãn trên danh nghĩa của đế quốc Mông Cổ.
Vũ Tông: Nguyên Vũ Tông (元武宗, 1281-1311), trị vì từ năm 1307 - 1311, hay Khúc Luật Hãn (ᠬᠥᠯᠥᠭ ᠬᠠᠭᠠᠨ, Külüg Khan, хүлэг хаан), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Nguyên, đồng thời là vị Khả hãn thứ sáu của Mông Cổ.
Nhân Tông: Nguyên Nhân Tông (1285 - 1320) tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt (Ayurbarwada Buyantu Khan). Là vị hoàng đế thứ tư của nhà Nguyên và là Đại Hãn thứ tám của Đế quốc Mông Cổ.
Anh Tông: Nguyên Anh Tông (1303 - 1323). Tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích. Con của Nguyên Nhân Tông Ái Dục Lê Bạt Lực Bát Đạt.
Tấn Tông: Nguyên Thái Định Đế (1293 - 1328) hay Nguyên Tấn Tông, tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Dã Tôn Thiết Mộc Nhi. Là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Nguyên và là đại hãn thứ 10 của Mông Cổ.
Văn Tông: Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông (1304-1332), tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi là vị hoàng đế thứ 8 và thứ 10 của triều đại nhà Nguyên trong lịch sử Trung Hoa. Ông cũng là Đại Hãn thứ 11 và thứ 14 của nhà Nguyên ở Mông Cổ.
Minh Tông: Nguyên Minh Tông (1300-1329), tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Hòa Thế Lạt. Ông là vị hoàng đế thứ 9 của triều đại nhà Nguyên trong lịch sử Trung Hoa.
Văn Tông: Jayaatu Khan Nguyên Văn Tông (1304-1332), tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Đồ Thiếp Mục Nhi là vị hoàng đế thứ 8 và thứ 10 của triều đại nhà Nguyên trong lịch sử Trung Hoa. Ông cũng là Đại Hãn thứ 11 và thứ 14 của nhà Nguyên ở Mông Cổ.
Ninh Tông: Rinchinbal Nguyên Ninh Tông (1326- 1332) tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Ý Lân Chất Ban. Là vị hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyên trong lịch sử Trung Hoa
Huệ Tông: Nguyên Huệ Tông (chữ Hán: 元惠宗; 1320 - 1370), hay Nguyên Thuận Đế tên thật là Bột Nhi Chỉ Cân Thỏa Hoan Thiết Mộc Nhĩ là vị hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc
Chiêu Tông: Tất Lý Khắc Đồ hãn hay Nguyên Chiêu Tông (元昭宗), trước khi lên ngôi được gọi là Ái Du Thức Lý Đạt Lạp (愛猷識理答臘/ Ayushiridara), là vị hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Nguyên Mông Cổ, sau khi nhà Nguyên đã bị đẩy lùi bởi Chu Nguyên Chương, khôi phục địa vị thống trị Trung Hoa của người Hán.
Ích Tông: Ô Tư Cáp Lặc hãn hay Nguyên Ích Tông (元益宗), tên trước khi lên ngôi là Thoát Cổ Tư Thiết Mộc Nhi (脫古思鐵木兒/Tögüs Temür), là vị hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Nguyên Mông Cổ, và là vị khả hãn cuối cùng có đầy đủ quyền lực cho tới thời kì của Đạt Diên hãn vào cuối thế kỉ XV.
Cung Tông: Jorightu Khan hay Nguyên Cung Tông tên trước khi lên ngôi là Dã Tốc Điệt Nhi (Yesüder) là một vị khả hãn của triều đại Bắc Nguyên Mông Cổ sau khi triều đại nhà Nguyên đã mất quyền kiểm soát Trung Quốc vào tay nhà Minh. 

Tam Hoàng Ngũ Đế: Neolithic c. 8500 – c. 2070 BC
Hạ: Xia dynasty c. 2070 – c. 1600 BC
Thương: Nhà Thương (tiếng Trung Quốc: 商朝Thương triều) hay nhà Ân (殷代Ân đại), Ân Thương (殷商) là triều đại đầu tiên được công nhận về mặt lịch sử là một triều đại Trung Quốc. Theo biên niên sử dựa trên các tính toán của Lưu Hâm thì nhà Thương trị vì từ khoảng năm 1766 TCN tới khoảng năm 1122 TCN. The Shang dynasty (/ʃɑːŋ/; Chinese商朝pinyinShāng cháo) or Yin dynasty
Chu: 1122 TCN–249 TCN: Zhou dynasty c. 1046 – 256 BC, Western Zhou, Eastern Zhou
Tần: 221 TCN–206 TCN: Qin dynasty 221–206 BC
Hán: 206 TCN–220, Han dynasty (Chinese漢朝pinyinHàn cháo)
Tam Quốc: Tào Ngụy, Thục Hán, Đông Ngô: 220 khi nhà Ngụy được thành lập và kết thúc năm 280 khi Đông Ngô sụp đổ và nhà Tây Tấn thống nhất Trung Hoa. The Three Kingdoms (AD 184/220–280) was the tripartite division of China between the states of Wei (), Shu (), and Wu ()
Tấn: 266–420, Jin dynasty 265–420, Western Jin, Eastern Jin
Tùy: Sui dynasty 581–618
Đường: Tang dynasty 618–907, (Second Zhou dynasty 690–705)
Liêu: Nhà Liêu hay triều Liêu (giản thểphồn thể遼朝bính âmLiáo CháoHán-ViệtLiêu triều 907/916-1125), còn gọi là nước Khiết Đan. Liao dynasty
Kim: Nhà Kim hay triều Kim (tiếng Trung金朝bính âmJīn CháoHán-ViệtKim triềuchữ Nữ ChânAmba-an Ancu-un.png /amba-an antʃu-un/ 1115-1234)
Nguyên: Yuan dynasty 1271–1368
Minh: Ming dynasty 1368–1644
Thanh: Qing dynasty 1644–1912
Republic of China 1912–1949

180416 - Phần 2: Vì sao Al-Assad tồn tại?




No comments:

Post a Comment