Cách nay đúng 24 năm, đường dây điện cao thế 500 kV đem điện
từ miền Bắc vào miền Nam
Ngày 27
tháng 05, 1994
·
1994 – Bắt đầu vận hành Đường dây 500 kV Bắc - Nam tại
Việt Nam, góp phần chấm dứt tình trạng thiếu điện trầm trọng ở miền Trung và miền
Nam Việt Nam.
(Có lẽ vì biết rõ những bí ẩn đằng sau, nên trang này chỉ có
phần tiếng Việt mà thôi)
Đường dây 500 kV Bắc - Nam
Đường dây 500kV Bắc - Nam, bên trái là mạch 1, bên phải là
mạch 2 (mỗi mạch có 3 pha, mỗi pha có 4 dây)
Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 là công trình đường dây truyền tải điện năng
(điện xoay chiều) siêu cao áp 500kV đầu tiên tại Việt Nam có
tổng chiều dài 1.487 km, kéo dài từ Hòa Bình đến Thành phố Hồ Chí Minh.
Location of Hòa Bình within
Vietnam
Mục tiêu xây dựng công trình là nhằm truyền
tải lượng điện năng dư thừa từ Miền Bắc Việt Nam (từ cụm các nhà
máy thủy điện Hòa Bình, Thác Bà;
nhiệt điện Phả Lại, Uông Bí, Ninh Bình) để cung cấp cho miền Nam Việt Nam và miền Trung Việt Nam lúc đó đang thiếu điện nghiêm trọng, đồng thời liên
kết hệ thống điện cục bộ của ba Miền thành một khối thống nhất.
Miền Bắc Việt Nam
Cổng trước Thủy Điện Hòa Bình
Nhà máy Thủy điện Hòa Bình
Một cửa xả nước
Công trình khởi công xây dựng
ngày 6 tháng 11 năm 1979, khánh thành ngày 20 tháng 12 năm 1994. Công suất sản sinh điện năng theo thiết kế là 1.920 megawatt, gồm 12 cửa xả và 8 tổ máy, mỗi tổ máy có công suất 240 MW.
Sản lượng điện hàng năm là 8,16 tỷ kilowatt giờ (KWh).
Bối cảnh
Từ sau chủ trương đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1986, kinh
tế Việt Nam có những bước chuyển biến tích cực.
Giai đoạn 1990 – 1995, tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp bình quân đạt
từ 12% đến 14%, GDP tăng từ 5,1% vào năm 1990 đến 9,5% vào năm 1995. Nhu cầu
tiêu thụ điện năng cũng gia tăng hằng năm, cụ thể là 13,12% vào năm 1993;
18,43% vào năm 1994 và 20,62% vào năm 1995 (so với năm trước). Khu
vực Miền Nam và thành phố Hồ Chí Minh có sự phát triển tốt về
kinh tế nhưng việc phát triển nguồn điện ở khu vực này không đáp ứng kịp nhu
cầu tăng trưởng. Trong giai đoạn từ 1991 đến 1994 chỉ có Nhà máy
Nhiệt điện Bà Rịa - 230MW được đưa vào vận hành. Công suất lắp đặt của Miền Nam chỉ đáp ứng được 89,73% (lắp đặt
1005MW, nhu cầu 1120MW) nên phải hạn chế phụ tải bằng cách cắt điện luân phiên
hoặc đột xuất hầu như tất cả các ngày trong tuần.
Khu vực Miền Trung được cấp điện chủ yếu qua đường dây
220kV Vinh – Đồng Hới lấy điện từ Hòa Bình, đường
dây 66kV từ Nhà máy thủy điện Đa Nhim cấp
cho Cam Ranh, Khánh Hòa và
một số nguồn diesel nhỏ tại chỗ.
Location of the
Vinh in Vietnam
The power
station at Đa Nhim
Hai ống thủy
áp bằng hợp kim
Location of
Khánh Hòa within Vietnam
Do đường dây quá dài nên công suất truyền tải bị hạn chế và chất
lượng điện cuối nguồn không đảm bảo, thường xuyên bị sụp đổ điện áp ở các khu
vực Quảng Nam, Quảng
Ngãi. Công suất lắp đặt của Miền Trung chỉ đáp ứng được 40,91% nhu cầu (lắp
đặt 90MW, nhu cầu 220MW).
Bản đồ huyện
thành phố tỉnh Quảng Nam
Trong khi đó, tại Miền Bắc, các nhà máy nhiệt điện than Uông Bí, Ninh
Bình, Phả Lại, các tổ máy số 3-8 của nhà máy thủy điện Hòa Bình lần lượt được đưa vào vận
hành, Miền Bắc cơ bản thừa công suất. Trước tình
hình đó, Chính phủ Việt Nam bàn đến 2 phương án giải
quyết:
2.
Xây dựng đường dây siêu cao áp truyền tải điện năng dư thừa từ Miền Bắc vào Miền Nam và Miền Trung.
Khi xét đến nhiều yếu tố kỹ thuật, chính trị, an ninh năng
lượng, Chính phủ Việt Nam quyết định chọn phương án
2 với cấp điện áp 500kV.
Thiết kế
Việc xây dựng đường dây siêu cao áp thống nhất hệ thống điện đã
được đề cập đến trong tổng sơ đồ phát triển lưới điện giai đoạn 1 (1981 – 1985)
của Việt Nam được thiết lập với sự hợp tác của Liên Xô. Báo
cáo nghiên cứu tiền khả thi của công trình do Nhật Bản tài
trợ thực hiện tặng cho Chính phủ Việt Nam.
Công trình được Bộ Chính trị thông qua vào tháng 1/1992. Đến ngày
25/2/1992, Chính phủ phê
duyệt Luận chứng kinh tế – kỹ thuật với quyết định thời gian hoàn thành là 2
năm và do thời gian khẩn cấp nên cho phép thực hiện theo phương thức khảo sát,
thiết kế, nhập vật tư - thiết bị và thi công thực hiện song song.
Chủ trì thiết kế phần nhất thứ cho công trình là Công ty Khảo
sát Thiết kế điện 1 (nay là Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng điện 1) phối hợp
với các Công ty Khảo sát Thiết kế điện 2 (nay là Công ty Cổ phần Tư vấn Xây
dựng điện 2), Phân viện Thiết kế điện Nha Trang (nay là Công ty Cổ phần Tư vấn
Xây dựng điện 4). Quy trình thiết kế gồm 3 giai đoạn:
·
Năm 1990: Khảo sát lập Báo cáo nghiên cứu khả thi
·
Từ cuối năm 1991 – 1992: Khảo sát kỹ thuật và lập thiết kế kỹ
thuật
·
Năm 1993: Khảo sát kỹ thuật từng vị trí và lập bản vẽ thi công
Khối lượng khảo sát của công trình rất lớn với khoảng
2000 km khảo sát đo vẽ địa hình lập mặt cắt dọc, 500 km lập mặt cắt
dọc pha; 200ha phục vụ đo bình đồ tỉ
lệ 1/200 tại các góc lái; 5200m khoan thăm dò ở các vị trí có nguy cơ sạt lở;
thí nghiệm khoảng 15000 mẫu đất đá... trên tổng chiều dài 1487 km đường
dây và 5 trạm biến áp.
Thiết kế của công trình đã được phản biện bởi nhiều cơ quan
trong nước như Viện Năng lượng, Đại học Bách khoa Hà Nội và
các nhà chuyên môn độc lập trong nước. Mô hình thiết kế về sơ đồ, dung lượng
bù, chế độ vận hành và ổn định hệ thống, thông số thiết bị, sơ đồ liên động...
cũng được nhiều tổ chức nước ngoài hỗ trợ kỹ thuật và kiểm chứng như Viện Thiết
kế Lưới Ukraina, Viện Thiết kế Lưới Saint
Peterburg (Cộng hòa Liên Bang Nga), Công
ty Nippon Koei (Nhật Bản), Công
ty Hydro Quebec (Canada) hỗ trợ tính toán ổn định, Công ty Tractebel (Bỉ) hỗ
trợ đào tạo thí nghiệm; Công ty PPI (Pacific Power International), bang New
South Wales - Úc và SECVI (State Electricity Commission of Victoria
International), bang Victoria – Úc hỗ
trợ tư vấn giám sát, đào tạo quản lý vận hành, an toàn... dưới sự tài trợ của
Chính phủ Úc.
Mục tiêu thiết kế đường dây là để truyền tải sản lượng khoảng
2.000GWh vào Thành phố Hồ Chí Minh mỗi năm với công suất
đỉnh là 600MW - 800MW; độ tin cậy là 0,8 sự cố trên 100 km đường dây mỗi
năm (tương đương 12 sự cố cho toàn đường dây một năm).
Xây dựng
Đường dây 500kV Bắc – Nam có tổng chiều dài 1487 km gồm có
3437 cột điện tháp sắt đi qua 14 tỉnh thành gồm Hòa Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam - Đà Nẵng (nay
là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng), Kon Tum, Gia Lai, Đắc Lắc, Sông Bé (nay là các tỉnh Bình Phước, Bình Dương), thành phố Hồ Chí Minh; trong đó qua vùng đồng bằng
là 297 km (chiếm 20%), trung du – cao nguyên là 669 km (chiếm 45%),
núi cao, rừng rậm là 521 km (chiếm 35%) với 8 lần vượt sông (sông Đà, sông Mã, sông Lam, sông La, sông
Gianh, sông Thạch Hãn, sông Hương, sông Sài Gòn) và 17 lần vượt quốc lộ.
Location of
Thanh Hóa within Vietnam
Location of
Nghệ An within Vietnam
Location of Hà
Tĩnh within Vietnam
Location of
Thừa Thiên-Huế within Vietnam
Location of Kon
Tum within Vietnam
Bản đồ tỉnh
Gia Lai
Location of Dắc
Lắc within Vietnam
Location of
Bình Phước within Vietnam
Bản đồ hành
chánh tỉnh Bình Dương
Công trình được Thủ tướng Võ Văn Kiệt phát lệnh khởi công phần đường dây
vào ngày 5/4/1992 tại các vị trí móng số 54, 852, 2702 và khởi công phần trạm
biếp áp vào ngày 21/01/1993 tại trạm biến áp Phú Lâm, thành phố Hồ Chí Minh.
Võ Văn Kiệt (23 tháng 11 năm 1922 – 11 tháng 6 năm 2008) tên thật là Phan Văn Hòa, bí danh Sáu Dân,
Chín Dũng; là một nhà chính trị Việt Nam.
Các đơn vị thi công chính của công trình là Tổng Công ty Xây
dựng Thủy điện Sông Đà và 4 Công ty Xây lắp điện 1, 2, 3, 4 thuộc Bộ Năng lượng
phân chia đường dây thành 4 cung đoạn thi công:
1.
Tổng Công ty Xây dựng Thủy điện Sông Đà (nay là Tổng Công ty
Sông Đà) thi công đúc móng, dựng cột (không kéo dây) từ vị trí số 1 (Hòa
Bình) đến vị trí 54 (Mãn Đức – Hòa
Bình). Dài 24 km.
2.
Công ty Xây lắp điện 1 (nay là Công ty Cổ phần Xây lắp điện 1)
thi công đúc móng, dựng cột từ vị trí 55 đến vị trí 802 (trạm bù Hà Tĩnh) và
kéo dây cột 1 đến cột 802. Dài 341,68 km.
3.
Công ty Xây lắp điện 3 (nay là Tổng Công ty Cổ phần Xây dựng điện
Việt Nam) thi công từ vị trí 803 đến vị trí 2112 (Đắc Lây – Kon Tum). Dài
523,35 km.
4.
Công ty Xây lắp điện 4 (nay là Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một
thành viên Xây lắp điện 4) thi công từ vị trí 2113 đến vị trí 2702 (Buôn Ma Thuột – Đắc Lắc). Dài 308 km.
5.
Công ty Xây lắp điện 2 (nay là Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Một
thành viên Xây lắp điện 2) thi công từ vị trí 2703 đến vị trí 3437 (Phú Lâm
– thành phố Hồ Chí Minh). Dài 320,67 km.
Các trạm biến áp và trạm bù do nhà thầu Merlin Gerin – Pháp cung
cấp thiết bị, thiết kế phần nhị thứ; các Công ty Xây lắp điện thực hiện việc
lắp đặt thiết bị, đấu nối, các Trung tâm Thí nghiệm điện kiểm tra, thí nghiệm
thiết bị. Tất cả đều được đặt dưới sự giám sát của các chuyên gia từ nhà thầu
Merlin Gerin, các Công ty cung cấp thiết bị và 2 đơn vị tư vấn giám sát của Úc
là PPI và SECVI.
Tổng nhân lực huy động chính thức trên công trường của các đơn
vị xây lắp là khoảng 8000 người sau bổ sung thêm 4000 người thi công các khối
lượng chính của công trình. Các khối lượng phụ trợ như giải phóng tuyến, làm
đường, vận chuyển... do các đơn vị hỗ trợ thực hiện như lực lượng quân đội gần
4000 người (gồm Binh đoàn
12, Binh đoàn
15, Quân khu
4, Quân khu
5, Quân đoàn 1, Quân đoàn 3); các đơn vị xây lắp tại 14 tỉnh thành
đường dây đi qua gần 7000 người; các đơn vị chuyên ngành cầu đường như Công
ty Cầu Thăng Long, Xí Nghiệp F19 Bộ Giao thông Vận tải, các đơn vị xây dựng cầu đường
địa phương hỗ trợ thiết bị đóng cọc, xay đá, trộn bêtông...; khối lượng rà phá
bom mìn trải dài trên diện tích khoảng 17000ha do các đơn vị Bộ đội công binh
thực hiện.
Đến tháng 4/1994, cơ bản công trình được xây dựng hoàn tất với
khối lượng sơ bộ gồm lắp dựng 3437 cột tháp sắt (trong đó có 12 vị trí đảo
pha); căng 1487 km dây dẫn (mỗi pha 4 dây) và dây chống sét (hai dây chống
sét, trong đó 1 dây có mang dây cáp quang); xây dựng 22 trạm lặp cáp quang, 19
chốt vận hành đường dây; đổ 280.000m3 bêtông móng với 23.000
tấn cốt thép; 60.000 tấn cột điện, 23.000 tấn dây dẫn và 930 tấn dây chống sét;
6.300 tấn cách điện.
Phần trạm biến áp gồm 5 trạm Hòa Bình, Hà Tĩnh (trạm
bù), Đà Nẵng, Pleiku, Phú
Lâm. Giai đoạn 1 (5/1994) chỉ mới lắp đặt 1 tổ máy 550/220/35kV - 3x150MVA tại
trạm Hòa Bình và 1 tổ máy 3x150MVA tại trạm Phú
Lâm. Đến tháng 9/1994, lắp đặt thêm 3 tổ máy biến áp 550/220/35kV – 3x150MVA
tại các trạm Hòa Bình, Phú
Lâm, Đà Nẵng và
đến tháng 11/1994, lắp đặt thêm 1 tổ máy biến áp 550/220/35kV – 3x150MVA tại
trạm Pleiku.
Phần nhà điều hành Trung tâm
Điều Độ Hệ thống điện Quốc gia với hệ thống SCADA theo
dõi thông số vận hành toàn hệ thống điện cũng được hoàn thành vào đầu năm 1994.
Hệ thống này cũng cho phép điều khiển các thiết bị đóng cắt của các trạm trên
hệ thống 500kV tại Trung tâm Điều Độ Hệ thống điện Quốc gia (nhưng chỉ thử
nghiệm mà không đưa vào vận hành chính thức).
Thí nghiệm, nghiệm
thu đóng điện
Máy cắt 500kV tại trạm biến áp 500kV Phú Lâm
Công tác thí nghiệm thiết bị, thông mạch các trạm biến áp Hòa Bình, Hà Tĩnh do
Trung tâm Thí nghiệm điện 1 thực hiện; trạm Đà Nẵng, Pleiku do
Trung tâm Thí nghiệm điện 3 thực hiện và trạm Phú Lâm do Trung tâm Thí nghiệm
điện 2 thực hiện. Công tác thí nghiệm, thông mạch đều được giám sát chặt chẽ
bởi các chuyên gia của hãng sản xuất thiết bị và của 2 đơn vị tư vấn PPI và
SECVI. Quá trình nghiệm thu, đóng điện đường dây gồm 4 giai đoạn:
·
Đóng điện DC 220V (từ 14 đến 16/4/1994) và AC điện áp 15kV (từ
25/4 đến 7/5/1994) để xác định thứ tự pha, đo điện trở DC và kiểm tra thông số
đường dây.
·
Đóng điện từng cung đoạn đường dây với điện áp 500kV (từ 20/5 đến
26/5/1994).
·
Hòa hệ thống điện Miền Nam với 4 tổ máy của nhà máy thủy điện Hòa Bình vào ngày 27/5/1994 tại trạm Đà Nẵng.
·
Hòa đồng bộ hệ thống điện Miền Nam với hệ thống điện Miền Bắc tại
nhà máy thủy điện Hòa Bình vào ngày 29/5/1994.
Lúc 19 giờ 6 phút ngày 27/5/1994, tại Trung tâm Điều Độ Hệ thống
điện Quốc gia, Thủ tướng Võ Văn Kiệt ra lệnh hòa hệ thống điện Miền Nam với 4 tổ máy của nhà máy thủy điện Hòa Bình tại trạm Đà Nẵng qua
đường dây 500kV, chính thức đưa hệ thống 500kV vào vận hành.
Thông số thiết bị
Phần
đường dây
Stt Tên vật tư, Hãng sản xuất Nước sản
xuất Loại thiết bị
thiết bị
1 Cáp quang Nissho Iwai Nhật Bản OPGW 70 (nằm trong dây chống sét)
2 Thép dẹt Mitsui Nhật Bản Mạ kẽm nhúng nóng (hot-dip galvanized)
3 Sứ và phụ kiện Sediver Pháp F300/195DC (néo); F160/146DC;
F120/146DC (đỡ); F70/127DC (đỡ
lèo)
4 Cột thép, Hyundai, Hàn Quốc Cột thép mạ kẽm nhúng nóng
thép góc và Samsung dây dẫn 4xACSR-330/SQ85
dây dẫn ACKП70/72
5 Cột thép và Ukraina Cột thép mạ kẽm nhúng nóng;
dây dẫn dây dẫn
4xACSR-330/SQ85
6 Dây chống sét Ukraina
thứ hai
Phần trạm
biến áp
Stt Tên vật tư, Hãng sản xuất Nước sản
xuất Loại thiết bị
thiết bị
1 Máy biến áp Jeumont
Schneider Pháp Máy biến áp tự ngẫu
2 Tụ điện bù dọc Nokia(n) Capacitor Phần Lan Tụ
cách điện bằng dầu
3 Kháng bù ngang ABB Thụy Điển Kháng dầu
4 Máy cắt 500kV, Nuova Magrini
Galileo Ý, 550MHMe-4Y, 245MHMe-1P,
220kV, 110kV, ABB, Gerin Thụy Điển, 123MHMe-1P;
35kV Pháp LTB
72,5D1; SB6
5 Dao cách ly Egic Pháp OH-500,
DR-245
500kV, 220kV
6 Chống sét van ABB Thụy Điển Exlim Q
7 Rơle bảo vệ Siemens, Đức, 7SA513, 7UT513, LFCB, LFAA
Gec Alsthom Anh
8 Thiết bị đầu cuối NEC Nhật
thông tin quang
9 Thiết bị cho trung tâm Cegelec Pháp
điều độ quốc gia
Chi phí cho công
trình
Tổng chi phí đầu tư cho công trình là 5.488,39 tỷ đồng Việt Nam (tương
đương 700 triệu đô la Úc hay
544 triệu đô la Mỹ) bằng
nguồn vốn trong nước, thấp hơn 1% so với dự toán. Công trình đã được khấu hao
toàn bộ giá trị xây dựng và quyết toán vào năm 2000.
Phần tài trợ của Chính phủ Úc có
tổng giá trị 6,5184 triệu đô la Úc thông qua chương trình Private Sector
Linkages do tổ chức hợp tác quốc tế AusAID điều hành, phần đóng góp chính là
của tập đoàn năng lượng Austenergy, gồm 4 giai đoạn:
1.
Giai đoạn 1 (từ 11/1992 đến 12/1992): Thẩm định thiết kế tổng
quát của đường dây.
2.
Giai đoạn 2 (từ 12/1992 đến 30/6/1993): Chuẩn bị tư vấn chi tiết
về thiết kế và lập đề cương cho dự án để phục vụ các hoạt động sau này của dự
án.
3.
Giai đoạn 3 (1/7/1993 đến 30/9/1994): Chuẩn bị nội dung hướng dẫn
về an toàn và hiệu quả trong vận hành hệ thống, bao gồm đào tạo giám sát viên
và điều hành viên tại Úc.
4.
Giai đoạn 4 (1/10/1994 đến 30/6/1995): Hỗ trợ thí nghiệm, nghiệm
thu đường dây và đào tạo công tác vận hành tại chỗ.
Chính phủ Việt Nam đã yêu cầu khoản tài trợ
này sau khi không đạt được thỏa thuận về việc tài trợ cho gói thầu tư vấn với
Chính phủ Bỉ. Do công trình đã triển khai được 3 tháng nên ngay sau khi được
Chính phủ Úc chấp
thuận, AusAID đã vận dụng chương trình Private Sector Linkages để kịp cấp vốn
cho gói thầu tư vấn. Năm 1997, trong báo cáo tổng kết đánh giá hiệu quả nguồn
vốn tài trợ, AusAID đã đánh giá cao hiệu quả của khoản tài trợ này cho cả lợi
ích phía Việt Nam và Úc.
Vận hành
Sau khi hoàn thành, đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 được bàn
giao cho các Công ty Điện lực 1, 2, 3 quản lý. Đến năm 1995, ngành điện thay
đổi cơ cấu tổ chức, thành lập Tổng Công ty Điện lực Việt
Nam (nay là Tập đoàn Điện lực Việt Nam), tách
các Sở Truyền tải điện ra khỏi các Công ty Điện lực để thành lập các Công ty
Truyền tải Điện 1, 2, 3, 4. Đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 và các trạm biến
áp của nó được giao cho các Công ty Truyền tải Điện quản lý, cụ thể như sau:
·
Công ty Truyền tải Điện 1: Quản lý các trạm biến áp Hà Tĩnh, Hòa
Bình và 955 vị trí cột với tổng chiều dài đường dây là
406 km từ Đèo
Ngang đến Hòa
Bình.
·
Công ty Truyền tải Điện 2: Quản lý trạm biến áp Đà Nẵng và
1352 vị trí cột với tổng chiều dài đường dây là 587 km từ Hà Tĩnh đến Pleiku.
·
Công ty Truyền tải Điện 3: Quản lý trạm biến áp Pleiku và
708 vị trí cột với tổng chiều dài đường dây là 314,5 km từ Pleiku đến Đắc
Nông.
·
Công ty Truyền tải Điện 4: Quản lý trạm biến áp Phú Lâm và 421 vị
trí cột với tổng chiều dài đường dây là 183 km từ Đắc
Nông đến Phú Lâm.
Trong quá trình vận hành, đã xảy ra một số sự cố sạt lở móng cột
do mưa, bão ở Phước Sơn, Đắc Lây, Đắc Nông,
Krôngnô. Các sự cố trạm nghiêm trọng là sự cố cháy pha C máy biến áp 500kV tại
trạm Hòa Bình vào ngày 26/4/2000 do sét đánh và sự
cố cháy pha B máy biến áp 500kV tại trạm Đà Nẵng vào
ngày 18/8/2007.
Công tác bảo vệ an ninh cho việc quản lý vận hành đường dây cũng
đã được đặt ra ngay từ khi đóng điện vận hành dựa trên sự phối hợp giữa
các Bộ Năng lượng, Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng với các Ban chỉ đạo bảo
vệ đường dây tại các tỉnh có đường dây đi qua. Dọc tuyến đường dây có bố trí
342 chốt gác, mỗi chốt cách nhau từ 5 km đến 10 km tùy theo địa hình
với khoảng 1500 người ở các địa phương tham gia.
Ý nghĩa
Giải quyết cơ bản tình trạng thiếu điện ở Miền Trung và Miền Nam
Đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 được đưa vào vận hành vào tháng
5/1994, cơ bản đã giải quyết được tình trạng thiếu điện của Miền Nam. Sau khi đóng điện đưa vào vận hành máy
biến áp 500kV tại Đà Nẵng (9/1994)
và Pleiku (tháng
11/1994), tình hình cung cấp điện cho Miền Trung đã được giải quyết căn cơ.
Giai đoạn từ năm 1994 đến năm 1997, công suất truyền tải chủ yếu
từ Bắc vào Nam và chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản lượng cung cấp của Miền Nam và Miền Trung:
Từ năm 1999, công suất truyền tải từ Nam ra Bắc là chủ yếu. Tính
đến đầu năm 2009, tổng sản lượng điện năng truyền tải qua đường dây này sau 15
năm vận hành (tính cả hai chiều) là 148 tỷ kWh. Hiện nay đường dây 500kV
Bắc-Nam đã quá tải trầm trọng dù đã nâng thành 02 mạch hiện vẫn chưa có phương
án khả thi nào cụ thể trong thời gian gần dòng điện truyền tải cực đại cả 02
mạch là 4x 725A[cần dẫn nguồn].
Về mặt kỹ thuật, đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1 hợp nhất hệ
thống điện ba Miền (trước đây vận hành độc lập với nhau) nhờ đó tăng cường được
sự hỗ trợ qua lại thế mạnh của hệ thống điện giữa các Miền, tăng tính ổn định
và độ tin cậy chung của toàn hệ thống.
Về mặt chính trị, việc thống nhất hệ thống điện ba Miền là cơ sở
kỹ thuật cần thiết để thực hiện chính sách trung ương tập quyền quản lý hệ
thống điện, chấm dứt sự "cát cứ" của các Công ty Điện lực Miền (Công ty Điện Lực 1 tại Miền Bắc, Công ty Điện Lực 2 tại Miền Nam và Công ty Điện Lực 3 tại Miền Trung). Với mục đích này, Trung tâm Điều độ Hệ
thống điện Quốc gia được thành lập, đầu tiên là để quản lý hệ thống 500kV, đến
năm 1999, Trung tâm này tiếp nhận quản lý toàn bộ nhà máy điện và 3 Trung tâm
Điều độ Hệ thống điện Miền. Đồng thời với việc thành lập Tổng Công ty Điện lực Việt
Nam (nay là Tập đoàn Điện lực Việt Nam), các
Công ty Điện lực 1, 2, 3 bị chia nhỏ ra thành các Công ty Truyền Tải và một số
Công ty Điện lực, hệ thống điện Việt Nam được
quy về một mối quản lý theo mô hình Tổng Công ty nhà nước.
Tai tiếng
Công trình đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 ghi nhận vụ tai
tiếng mua bán lòng vòng 4.000 tấn sắt thép của một số đối tượng thuộc Công ty
Vinapol (Hội hữu nghị Việt Nam - Ba Lan) thông
đồng với Ban Quản lý Dự án đường dây 500kV để hưởng chênh lệch 3,1 tỷ
đồng Việt Nam. Sau khi bị phát hiện, vụ việc được quy
trách nhiệm cho thư "giới thiệu" của ông Vũ Ngọc Hải – Bộ trưởng Bộ Năng lượng đương thời. Ông bị kết
tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, bị kết án ba năm tù
giam và thụ án tại Trại giam Thanh Xuân (thuộc V26, Bộ Công an), nhưng chỉ ở tù một năm thì được ân xá.
Trong thời gian thụ án, ngày 28/05/1994, một ngày sau khi đóng
điện thành công, ông Hải được Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào tù để gắn kỉ niệm chương vì những
công trạng của ông đã đóng góp cho công trình này. Ông Vũ Ngọc Hải là nhân vật
chủ xướng lập đề án và đóng vai trò quan trọng trong việc tham mưu cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt quyết định xây dựng công trình đường
dây 500kV Bắc – Nam mạch 1.
Vụ án này còn truy tố, 2 Phó Tổng Giám đốc, 2 Phó Giám đốc và
một số nhân vật khác, thu hồi 3,1 tỷ đồng đã thất thoát. Vụ này là tai tiếng
lớn nhất từ trước đến nay.
13h40 ngày 22/5/2013, tại đoạn đường dây 500 KV tuyến Di Linh -
Tân Định, qua khu vực phường Hòa Phú, TP Thủ Dầu Một (Bình Dương), tài xế Ngô
Tấn Thảo (ngụ Thuận An, Bình Dương) điều khiển xe cẩu, cẩu cây dầu cao hơn 10 m
tại vườn ươm gần đấy. Anh Thảo để phần ngọn cây dầu đụng vào đường dây 500 KV
gây ra một tiếng nổ lớn. Ngay sau đó, toàn bộ khu vực này bị mất điện.
Ảnh hưởng
Sau công trình đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1, ngành
điện Việt Nam tiếp tục đầu tư xây dựng một số công
trình đường dây 500kV như đường dây 500 kV Pleiku - Yali (hoàn thành tháng
5/2000), đường dây 500 kV Phú Mỹ - Nhà Bè - Phú Lâm (hoàn thành tháng 1/2004)
đường dây 500 kV Pleiku - Phú Lâm mạch 2 (hoàn thành tháng 4/2004), đường dây
Pleiku - Dốc Sỏi - Đà Nẵng, Đà Nẵng - Hà Tĩnh và Hà Tĩnh - Nho Quan - Thường
Tín (hoàn thành tháng 9/2005). Như vậy đến tháng 9/2005, đường dây 500kV Bắc –
Nam đã có hai mạch, nâng cao hơn độ tin cậy truyền tải điện năng giữa các vùng
miền.
Tuy nhiên, các công trình sau này không gây được tiếng vang to
lớn trong lòng xã hội Việt Nam như
đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 vào
năm 1994 do hiệu quả của chúng chỉ có thể đánh giá được bên trong ngành điện,
trong khi đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 phát huy ngay tác dụng trong toàn xã
hội khi ngay sau khi đóng điện vận hành, tình trạng cắt điện luân phiên ở thành phố Hồ Chí Minh chấm dứt và nguồn cung
cấp điện ổn định trong nhiều năm.
Dự án đường dây 500kV Bắc – Nam mạch 1 cũng được biết đến với
thời gian xây dựng nhanh kỉ lục (2 năm). Tuy nhiên, do tiến hành khẩn trương,
nên nhiều đánh giá về tác động đến môi trường, về lợi ích kinh tế, về tác động
xã hội... đã bị bỏ qua. Ngoài
ra, trong quá trình triển khai, dự án cũng vấp phải những ý kiến hoài nghi của
nhiều cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước (trong đó có cả Ngân hàng Thế giới) nghi ngờ sự thành công của dự
án.
Ngân hàng Thế giới (World Bank)
là một tổ chức tài chính quốc
tế nơi cung cấp những khoản vay
nhằm thúc đẩy kinh tế[2] cho các nước đang phát triển thông qua các chương trình vay vốn.
Đặc biệt, ngay trong nội bộ Đảng Cộng sản cũng có ý kiến phản đối
quyết liệt cho rằng chủ trương làm dường dây 500kV là chủ trương phiêu
lưu, mạo hiểm, lãng phí tiền của nhà nước. Lấy tiền của nhà nước để gây thanh
danh cá nhân.
Chú thích
1.
^ Các số liệu nêu trong bài này chủ yếu được lấy từ nguồn
chính thức của EVN trong báo cáo kỉ niệm 10 năm vận hành đường dây 500kV Bắc -
Nam mạch 1, so với một số nguồn khác có độ chênh lệch nhất định
2.
^ Sau này Bộ Năng lượng sát nhập vào Bộ Công nghiệp và từ
năm 2008, Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại hợp nhất thành Bộ Công Thương
3.
^ Đối với đa số người dân Việt Nam, khi nói đến đường dây
500kV nghĩa là nói đến đường dây 500kV Bắc - Nam mạch 1
4.
^ Theo báo cáo của AusAID, Chính phủ Việt Nam có
yêu cầu phía Úc đánh giá tác động
môi trường nhưng không được chấp thuận
No comments:
Post a Comment