Cách nay đúng 65 năm Phathet Lào với sự trợ giúp của CSVN giành
được một phần lãnh thổ Lào.
Ngày 18
tháng 05, 1953
·
1953 – Chiến tranh Đông Dương: Chiến dịch Thượng Lào kết thúc với kết quả là
Pathet Lào giành quyền kiểm soát được một số lãnh thổ.
(Bài để khoe thành tích nên không
có phần tiếng Anh, Pháp)
Chiến dịch Thượng Lào
Chiến dịch Thượng Lào
Tham chiến
Chỉ huy
Tổn thất
2.800
bị loại khỏi Không rõ
vòng
chiến
Nam Bộ • Hải Phòng • Hà Nội • Cao Bằng • Việt Bắc 1947 • Tu Vũ 1948 • Khu 5 • Điền
Xá • Đường số 3 • Đồng Khê • Đông Bắc I • Đông Bắc II • Cao-Bắc-Lạng • Thập Vạn Đại Sơn • Lê Lợi • Biên Giới 1950 • Đông Khê • Trần Hưng Đạo • Vĩnh
Yên • Hoàng Hoa Thám • Mạo Khê • Quang Trung• Lý Thường Kiệt • Hòa Bình • Tu Vũ '52 • Tây Bắc • Nghĩa Lộ • Nà Sản • Thượng Lào 1953 • Muong Khoua• Đông-xuân 1953-54 • Hạ Lào 1954 • Mouette • Atlante • Điện Biên Phủ (Him
Lam • đồi Độc Lập • đồi
A1 • đồi
C1) • Đắk
Pơ • Giải phóng Thủ đô Hà Nội
Chiến dịch Thượng Lào (13.4-18.5.1953) là chiến dịch tiến công của Quân đội
Nhân dân Việt Nam phối hợp với lực
lượng Pathet Lào trên địa bàn hai tỉnh Sầm Nưa, Xiêng Khoảng (Thượng Lào)
nhằm tiêu diệt một bộ phận sinh lực quân đội Pháp, giải phóng đất đai, mở rộng căn cứ kháng chiến của nhân
dân Lào.
Mục tiêu của hai
bên
Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa
Hình thái chiến sự vào đầu năm 1953 có nhiều thay đổi, từ năm
1950 sau chiến dịch Biên Giới đã đánh dấu một sự chuyển
biến lớn trong cục diện chiến tranh của Quân đội Nhân dân Việt Nam: chuyển từ
thế phòng thủ sang thế chủ động tiến công.
Chiến dịch Biên giới Thu đông
1950 còn gọi là Chiến dịch Lê Hồng Phong 2, là một
chiến dịch trong Chiến tranh Đông
Dương do quân đội Việt Minh thực hiện
từ ngày 16 tháng 9 đến 17 tháng 10 năm 1950
Quân đội Nhân dân Việt Nam có nhiều trưởng thành về tinh thần,
chiến thuật, kỹ thuật. Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đánh đủ các loại hình du
kích, công kiên, vận động… mở các chiến dịch ở nhiều khu vực từ đồng bằng,
trung du tới miền núi... Tình hình thế giới cũng có nhiều thuận lợi.
Song ngoài những ưu điểm, thuận lợi, Quân đội Nhân dân Việt Nam
cũng gặp khó khăn, tổn thất trong cuộc chiến với đối phương vượt trội cả về
quân số và trang bị. Trước năm 1953, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã mở các chiến
dịch nhưng đã không thu được kết quả mong đợi, Pháp mở chiến dịch Hòa Bình nhằm dành thế chủ động đã
bị Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh bại. Tình thế chiến trường đang giằng co,
lúc này phương châm tác chiến là vô cùng quan trọng. Trong báo cáo tại Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa
II) ngày 25/1/1953, sau khi nhận xét về tình hình thế giới và trong nước về
những điều kiện thuận lợi còn nhấn mạnh về nhược điểm của Quân đội Nhân dân
Việt Nam: "một số đơn vị còn mắc những khuyết điểm như: ham đánh
to, chủ quan khinh địch, tự kiêu tự mãn, tổ chức quá kềnh càng… Từ nay quân đội
ta phải quyết tâm sửa đổi những khuyết điểm ấy… Về mặt chỉ đạo kháng chiến và
chính sách quân sự thì chúng ta phải "Tránh chỗ mạnh đánh chỗ yếu" để
phân tán lực lượng địch và tiêu diệt sinh lực mở rộng vùng tự do. Đó là phương
hướng chiến lược của ta năm nay."[1]
Căn cứ vào tình hình trên đây, phương hướng chiến lược của Quân
đội Nhân dân Việt Nam là nhằm phía Nam mà phát triển, tìm chỗ Pháp yếu mà đánh,
bắt địch phải phân tán lực lượng để ứng phó, tạo dần điều kiện tiến tới giải
phóng đồng bằng Bắc bộ.
Đồng bằng sông
Hồng (màu xanh lá cây) ở miền Bắc Việt Nam
Hướng về phía Nam mà phát triển không có nghĩa là không đánh ở
đồng bằng Bắc Bộ. Về vấn đề chỉ đạo chiến tranh, phương châm chung của cuộc
chiến tranh giải phóng là "trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh
sinh, không chủ quan khinh địch, không nóng vội không mạo hiểm. Đánh ăn chắc,
tiến ăn chắc. Chắc thắng thì kiên quyết đánh cho kỳ thắng. Không chắc thắng thì
kiên quyết không đánh. Nếu chủ quan mạo hiểm mà một lần thua nặng, thì sẽ tai
hại lớn. Chiến trường của ta hẹp, người của ta không nhiều, nên nói chung ta
chỉ có thắng chứ không được bại, vì bại thì hết vốn… về chiến lược ta lấy vận
động chiến làm chính, nhưng vận động chiến cơ động, linh hoạt"[2]
Liên hiệp
Pháp
Tại miền Thượng Lào, Sầm Nưa là
cửa ngõ từ tây bắc Bắc Việt Nam sang. Dân tộc Mèo tại
đó chuyên trồng thuốc phiện sinh sống một cách sung túc.
Sầm Nưa cũng là tiền đồn của Cánh đồng Chum và tiền đồn của thủ đô
Lào là Vạn Tượng (Luang Prabang).
Vị trí của
Cánh đồng chum và đồng bằng Xiêng Khoảng được bôi xanh.
Nếu Pháp thu phục được dân tộc Mèo để chống Quân đội Nhân dân
Việt Nam trong khu vực đó, thì cũng là một lực lượng đáng kể, có thể gây rất
nhiều khó khăn cho Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đại tá Trinquier chỉ huy
đoàn biệt kích dù hỗn hợp GCMA thuộc cơ quan phản
gián SDECE được giao trách nhiệm tổ chức lực lượng biệt kích Mèo tại khu vực
đó. Cơ quan này liền đề nghị với bộ Chỉ huy Pháp giao thiệp với Tù trưởng Mèo
tên là Lý Phụng (Pháp
gọi là Toubi) để mua hết số thuốc phiện do dân Mèo sản xuất, chở vào Chợ Lớn, Sài Gòn bán lấy lời dùng để chi phí tổ chức
một toán quân biệt kích Mèo. Bộ chỉ huy Pháp thấy có lợi vì không phải bỏ tiền,
mà mua chuộc được Tù trưởng và cả ngàn tay súng phụ lực. Trước kia, Nhà đoan Đông Dương do
Pháp tổ chức vẫn mua tất cả thuốc phiện của dân Mèo về lọc, nấu thành chất
lỏng, rồi đóng hộp bán cho dân nghiện dùng, nên viên tướng Chỉ huy trưởng đồng
ý cho cơ quan GCMA thực hiện chương trình đó.
Những chuyến bay Dakota chở hàng tấn thuốc phiện sống, đóng
trong những thùng cũ đựng đạn dược, từ Cánh đồng Chum bay tới Vũng Tàu,
chuyển bằng xe hơi lên Sài Gòn giao cho người được Pháp uỷ nhiệm
việc tiêu thụ. Sau đó nhờ những món tiền lời, hơn một ngàn quân biệt kích Mèo
được tổ chức, dưới quyền chỉ huy của đại úy dù Desfarges và trung úy Brehier,
có các hạ sĩ quan Quốc gia Việt Nam phụ trách việc Truyền
tin. Đoàn quân này được huấn luyện và tổ chức thành từng toán 50 người hoặc 100
người, len lỏi trong rừng rậm tây bắc Bắc Việt Nam và Thượng Lào, dùng chiến
thuật du kích, gây nhiều khó khăn cho Quân đội Nhân dân Việt Nam. Phần lớn toán
quân này về sau bị bỏ rơi khi Pháp rút quân khỏi Bắc Việt Nam năm 1954.
Diễn biến
Vue générale de la bataille de Na San et de l'opération Lorraine en automne
1952. Suivant plan page 339 de 'Mémoires - Fin d'un empire du général Salan et plan page 96 de
Indochine 52-53 de Erwan Bergot.
ngày 8-4, bộ đội chủ lực Việt Nam bí mật tiến sang Thượng Lào
theo 3 hướng:
·
Hướng chủ yếu gồm: Các đại đoàn 308, Đại đoàn 312 (2
trung đoàn) và Đại đoàn 316 (1
trung đoàn) được tăng cường 4 đại đội sơn
pháo, 2 tiểu đoàn pháo phòng không, 3 đại
đội súng cối, 1 tiểu đoàn công
binh và 1 đại đội trinh sát theo đường 6 sang Sầm Nưa;
·
Hướng thứ yếu: Đại đoàn 304 được
tăng cường 1 đại đội sơn pháo, 1 đại đội súng cối và 1 tiểu đoàn pháo phòng
không theo đường 7 sang Xiêng
Khoảng, chặn đường rút của quân đội Pháp từ Sầm Nưa xuống;
Tới ngày 12-4-1953, trước áp lực mạnh của 8 tiểu đoàn Quân đội
Nhân dân Việt Nam, quân Pháp rút chạy khỏi đồn Sầm Nứa rút về Cánh đồng Chum, ở cách 30 km về phía
Nam. Tiểu đoàn số 8 Lào trên đường rút lui khỏi Sầm Nưa bị Quân đội Nhân dân
Việt Nam đuổi theo truy kích nên bị thiệt hại rất nhiều, phải len lỏi trong
rừng, mãi đến 8 ngày sau nhờ có một đại đội dù nhảy xuống tiếp cứu, 300 người
sống sót mới thoát được về Cánh đồng Chum. Một số khác được quân biệt kích Mèo
giúp đỡ, cuối cùng phân nửa số quân trú phòng tại Sầm Nưa thoát được, còn thì
bị tử trận, hoặc bị bắt, hay đầu hàng.
Quân đội Nhân dân Việt Nam chuyển sang truy kích: đêm 13-4, đuổi
kịp và tiêu diệt bộ phận cuối của quân đội Pháp ở Mường Hàm, bắt toàn bộ
ban lãnh đạo chính quyền Vương quốc Lào tỉnh Sầm Nưa; 9 giờ ngày 14-4,
đánh quân đội Pháp ở Nà Noọng (cách Sầm Nưa
30 km), diệt và bắt gần 300 quân; 7 giờ ngày 16-4, đuổi kịp bộ phận đi đầu
ở Hứa Mường (cách Sầm Nưa 60 km), tiêu diệt và làm tan rã 4 đại đội, tiếp
tục đuổi quân đội Pháp đến sát Cánh đồng Chum.
Hướng đường 7, bao vây tiến công Noọng Hét, buộc quân đội Pháp rút chạy khỏi Bản Xan,
Xiêng Khoảng về Cánh Đồng Chum.
Hướng Phong xa lỳ - Mường Sài, giải
phóng Mường Ngòi, Bản Sẻ, Pắc Soòng, Nạm Bạc, uy hiếp Luang Prabang.
Bộ chỉ huy Pháp cho rằng Lào đang
bị đe doạ, Quân đội Nhân dân Việt Nam đang tiến vào xứ Lào, nên ngày 18-4 tướng Raoul
Salan bay lên Vạn Tượng để trình bày với Vua Lào tình trạng
nguy ngập của Luang Prabang, trước sức tiến công của Quân đội Nhân dân Việt
Nam.
Raoul Albin Louis Salan người việt thường gọi Xalăng (10 tháng 6 năm 1899
- 3 tháng 7 năm 1984)
Vạn
Tượng: Vientiane
Hoàng thân Souphanouvong
(phiên âm: Xu-pha-nu-vông, 13 tháng 7 năm 1909 - 9 tháng 1 năm 1995) cùng với hoàng thân cùng cha khác mẹ Souvanna Phouma và hoàng
thân Boun Oum của Champasak, là một
trong "Ba hoàng thân" đại diện cho 3 phái chính trị riêng rẽ ở Lào: cộng sản (thân Việt Nam), bảo hoàng (thân Mỹ), trung
lập. Ông là chủ tịch Lào từ tháng 12 năm 1975 đến tháng 8 năm 1991.
Kaysone Phomvihane (phiên âm: Cay-xỏn
Phôm-vi-hẳn[1] hoặc Cay-xỏn Phôm-vi-hản[2], tên Việt:
Nguyen Cai Song, tên khác: Nguyễn Trí Mưu, 13/12/1920–21/11/1992),
là lãnh đạo của Đảng Nhân dân Cách mạng
Lào từ năm 1955 trên cương vị Tổng bí thư, dù Souphanouvong đóng vai
trò là nhân vật dẫn đầu hình thức nhưng có ít thực quyền hơn. Ông là Thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào và sau đó từ 1991 là Chủ tịch cho đến
khi mất năm 1992.
Phoumi Vongvichit (6/4/1909 - 1994) là một
lãnh đạo hàng đầu của Pathet Lào và một
lãnh tụ của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào.
Hơn nữa, những người Mỹ đang du lịch tại Vạn Tượng đã được di
tản cấp tốc ngay khỏi thành phố bằng một máy bay nhỏ. Vua Lào nhất định không rời
khỏi kinh đô. Tướng Salan khi tới hoàng cung thì thấy vua Lào vẫn bình thản,
không chút lo ngại, mặc dầu các cận thần có trình với nhà vua phải cấp tốc di
tản hoàng gia ngay khỏi kinh đô, nhất là phải rời bức tượng vàng Prabang, là
một quốc bảo. Nhà vua từ chối, nhất định không chịu rời khỏi kinh đô.
Ngày 24-4-1953, thành phố Luang Prabang vắng tanh, chợ không
họp, các cửa tiệm người Hoa đều
đóng chặt. Đài phát thanh Bắc Kinh loan
báo Vạn Tượng sẽ bị chiếm chậm lắm trong một tuần lễ nữa, ngày 1-5-1953. Thực
sự thì quân đội Pháp rất ít ỏi ở Vạn Tượng để bảo vệ kinh đô, nếu có thể có
thêm quân tiếp viện khoảng 1 ngàn người được đưa tới, thì chẳng là bao so với
2 đại đoàn gồm 16.000 quân của Quân đội Nhân dân
Việt Nam.
Trước những chi phí nặng nề cho chiến cuộc Đông Dương và trước
những đòi hỏi gia tăng viện trợ về Không quân mà Bộ Chỉ huy Đông Dương yêu cầu
tiếp viện gấp để áp dụng chiến thuật "lập căn cứ địa-không như căn
cứ Nà Sản, để
cầm chân quân Việt minh", chính phủ Pháp không đủ khả
năng đáp ứng cấp thời nên Thủ tướng René Mayer chỉ thị cho Chỉ huy Đông Dương
phải tự túc với những phương tiện không quân sẵn có và phải thay đổi chiến
thuật ở mạn xứ Thái để bảo vệ sinh mạng binh sĩ mà không cần giữ đất đai. Chính
phủ Pháp đã hết sức chán nản trước chiến cuộc kéo dài năm này qua năm nọ làm
hao tổn ngân quỹ và làm chia rẽ nội bộ, gây thêm sự đối lập của các đảng phái
chính trị.
Ngày 3-5-1953, hai đại đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đang
chuyển quân bỗng ngừng lại không tiến nữa về phía Luang Prabang mà chuyển hướng
tiến về phía Sầm Nưa, Quân đội Nhân dân Việt Nam rút hết quân khỏi khu vực
Thượng Lào, thành ra không có một trận đánh nào xảy ra trên đất Lào. Cánh đồng Chum thành phố Vạn Tượng thoát khỏi chiến sự. Về sau, quân
Pháp cho ra một giải thích. Tù binh bị bắt đã khai là mưa nguồn lớn quá làm cản
trở sự giao thông, không chuyển kịp gạo muối được, nên Quân đội Nhân dân Việt
Nam bị gián đoạn tiếp tế, phải đi về hướng Sầm Nứa.
Kết quả
Liên quân Lào-Việt diệt và bắt gần 2.800 quân Pháp, giải
phóng tỉnh Sầm Nưa, một phần Xiêng Khoảng và tỉnh Phongxalì với diện tích hơn
4.000km2 và hơn 300.000 dân; mở rộng căn cứ kháng chiến của Lào, nối liền với
vùng Tây Bắc Việt Nam.
Liên kết ngoài
·
Chiến dịch Thượng Lào - Một biểu tượng của liên minh chiến đấu
Việt – Lào (bài 1, bài 2, bài 3). Báo Quân đội nhân dân
No comments:
Post a Comment