Cách nay đúng 24 năm Palau được độc lập khỏi sự ủy trị của Mỹ.
Ngày 25
tháng 05, 1994
·
1994 – Liên
Hiệp Quốc chấm dứt việc ủy trị đối với Palau sau khi Hoa Kỳ và Palau đồng ý thiết lập nền
độc lập cho Palau.
Palau
Palau (/pəˈlaʊ/ ( listen), historically Belau or Pelew), officially the Republic of
Palau (Palauan: Beluu er a
Belau), is an island country located
in the western Pacific Ocean.
Quốc kỳ
Huy hiệu
Palau (còn
được gọi là Belau hay Pelew),
tên đầy đủ là Cộng hòa Palau (tiếng
Palau: Beluu er a
Belau), là một đảo quốc ở Tây Thái Bình Dương. Nước này bao gồm gần 250 hòn
đảo tạo thành dãy đảo phía tây của quần đảo Caroline thuộc
vùng Micronesia, và có
diện tích 466 kilômét vuông (180 sq mi).
Bản đồ quần
đảo Caroline
Bản đồ
Micronesia
Đảo đông dân nhất là Koror. Thủ
đô Ngerulmud của nước này nằm trên đảo Babeldaob gần đó, thuộc bang
Melekeok.
Provinces
d'Indonésie
Ba miền của
Philippines
Vị trí liên
minh Micronesia.
Những cư dân đầu tiên đến đây vào khoảng 3.000 năm trước từ
Philippines và duy trì một cộng đồng Negrito cho đến 900 năm trước.
Quần đảo được người châu Âu khám phá lần đầu tiên vào thế kỷ
XVI, và thuộc về Đông Ấn Tây Ban Nha: Spanish East Indies vào năm 1574.
Bản đồ Đông Ấn
Tây Ban Nha (1857)
Sau khi người Tây Ban Nha thất bại trong Chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ vào năm 1898, quần đảo được bán cho Đế quốc Đức vào năm
1899 theo những điều khoản trong Hiệp ước Đức-Tây Ban Nha, và được sát nhập vào New Guinea thuộc Đức.
Hải quân Hoàng gia Nhật đánh chiếm Palau trong Thế chiến I, và quần đảo sau đó thuộc về Ủy thác Nam Dương dưới sự
cai quản của người Nhật sau theo Hội Quốc Liên.
Hiệu kỳ bán
chính thức 1939–1941
Trong Thế chiến II, nơi đây là chiến trường diễn ra các cuộc
đụng độ giữa người Mỹ và Nhật trong chiến dịch quần đảo Mariana và
Palau bao gồm Trận
Peleliu quyết
định.
Sau chiến tranh, cùng với các đảo ở Thái Bình Dương khác, Palau
là một phần của Lãnh thổ Ủy thác Quần đảo Thái
Bình Dương do Hoa Kỳ quản lý vào năm 1947.
Sau khi bỏ phiếu chống lại tham gia Liên bang Micronesia vào năm
1979, quần đảo có chủ quyền hoàn toàn vào năm 1994 theo Hiệp ước Liên kết Tự do với Hoa Kỳ.
Về mặt chính trị, Palau là một quốc gia cộng
hòa tổng thống liên kết tự do với Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đảm bảo quốc phòng, tài
trợ và dịch vụ công.
Quyền lập pháp tập trung vào Quốc hội Palau theo hệ thống lưỡng viện. Kinh tế Palau chủ yếu dựa vào du lịch, nông nghiệp tự cung và đánh cá, với
một phần lớn tổng sản lượng quốc gia (GNP) đến từ viện trợ nước ngoài.
Dollar Mỹ là tiền
tệ của nước này. Văn hóa trên đảo được trộn lẫn từ người Micronesia, Melanesia, châu
Á và châu Âu.
Người Palau chiếm tỉ lệ lớn trong dân số, là kết quả của sự hòa
trộn 3 sắc tộc Micronesia, Melanesia, và Austronesia.
Hai ngôn ngữ chính thức là tiếng
Palau (nằm
trong nhóm ngôn ngữ Sunda–Sulawesi) và tiếng
Anh, cùng với tiếng Nhật, tiếng Sonsorol, và tiếng Tobia được công nhận là ngôn ngữ địa phương.
Từ
nguyên
Tên quần đảo trong tiếng
Palau là Belau, có thể bắt nguồn từ beluu có nghĩa là "làng mạc" trong
tiếng Palau,, hoặc là từ aibebelau (nghĩa "trả lời gián tiếp"), liên
quan đến một truyền thuyết về sự hình thành quần đảo. Cái tên "Palau" trong tiếng
Anh đến từ tiếng Tây Ban Nha Los
Palaos, và tiếng Đức Palau. Tên
cổ không còn được sử dụng của quần đảo trong tiếng Anh là "Quần đảo
Pelew". Không nên nhầm lẫn với chữ Pulau trong tiếng Mã Lai nghĩa
là "đảo".
Lịch
sử
Palau xuất hiện những cư dân đầu tiên vào khoảng thiên niên kỷ thứ 3 và thứ 2
trước Công Nguyên, có khả năng nhất từ Austronesia hay Indonesia.
Một quần thể ổn định gồm những người lùn Negrito hay người Pygmy sống
trên quần đảo cho đến thế kỷ XII, khi họ bị thay thế.[cần dẫn nguồn] Cư dân hiện đại truy theo ngôn ngữ thì có
thể họ đến từ Quần đảo Sunda.
African
pygmies and a European explorer.
Sonsorol, một phần của Quần đảo Tây Nam, là
một chuỗi đảo kéo dài 600 kilômét (370 mi) từ đảo dãy đảo chính Palau,
được người châu Âu tìm thấy vào năm 1522, khi con tàu Tây Ban Nha Trinidad, soái hạm của đội tàu Ferdinand Magellan, nhìn thấy 2 hòn đảo khoảng vĩ
độ 5 bắc và đặt tên là "San Juan".
The Magellan–Elcano voyage. Victoria, one of the original five ships, circumnavigated the
globe, finishing 16 months after Magellan's death.
Sau khi Đế quốc Tây Ban Nha chinh phạt Philippines vào năm 1565,
quần đảo Palau trở thành một phần lãnh thổ của Phủ tổng đốc Philippines, thành
lập vào năm 1574 và trực thuộc Đông Ấn Tây Ban Nha với thủ
phủ hành chính đặt tại Manila. Tuy
nhiên, sự hiện diện của người Tây Ban Nha chỉ giới hạn ở việc truyền bá Phúc
Âm, bắt đầu từ thế kỷ XVII, và quyền thống trị của họ chỉ thật sự hình thành từ
thế kỷ XVIII.
Khám phá rõ ràng về Palau chỉ đến một thế kỷ sau đó vào năm
1697, khi một nhóm người Palau bị đắm tàu trên đảo
Samar về phía
tây bắc thuộc Philippines. Họ được phỏng vấn bởi nhà truyền giáo người Czech Paul
Klein vào
ngày 28 tháng 12 năm 1696. Klein đã có thể vẽ được bản đồ đầu tiên của Palau
dựa trên những mô tả của các cư dân Palau bằng cách sắp xếp 87 viên đá cuội
trên bờ biển. Klein báo cáo khám phá của ông cho Bề trên thuộc Dòng
Tên qua một
lá thư gửi đi vào tháng 6 năm 1697., đánh dấu thời điểm phát hiện ra Palau.
Các tù trưởng trên đảo Koror 1915
Tấm bản đồ và lá thư gây ra sự quan tâm của người Tây Ban Nha
với quần đảo mới. Một lá thư khác viết bởi Fr. Andrew Serrano được gửi tới châu
Âu vào năm 1705, hầu như sao chép nội dung báo cáo của Klein. Những lá thư đã
đưa đến ba chuyến đi thất bại của Dòng Tên đến Palau xuất phát từ Philippines
thuộc Tây Ban Nha vào năm
1700, 1708 và 1709. Quần đảo được khám phá lần đầu tiên bởi chuyến thám hiểm
của Dòng Tên do Francisco Padilla dẫn đầu vào ngày 30 tháng 11 năm 1710. Chuyến
đi kết thúc với việc hai linh mục Jacques Du Beron và Joseph Cortyl mắc cạn
trên bờ biển Sonsorol, do thuyền mẹ Santísima
Trinidad bị bão
đẩy tới Mindanao. Tàu
khác được phái đến từ Guam vào năm 1711 để cứu họ song lại bị lật,
khiến ba linh mục Dòng Tên khác thiệt mạng. Thất bại của các sứ mệnh này khiến
Palau có tên tiếng Tây Ban Nha ban đầu là Islas Encantadas (quần đảo bỏ bùa). Bất chấp các rủi ro này, Đế quốc Tây Ban Nha sau đó
chi phói quần đảo.
Thương nhân người Anh trở thành những vị khách nổi bật đến Palau
trong thế kỷ XVIII, tiếp đến là bành trưởng ảnh hưởng của Tây Ban Nha trong thế
kỷ XIX. Sau thất bại trong chiến tranh Tây Ban Nha–Mỹ, Tây
Ban Nha bán Palau và hầu hết phần còn lại của quần đảo Caroline cho Đế quốc Đức vào năm
1899. Trong chiến tranh thế giới thứ nhất, Đế quốc Nhật Bản thôn
tính quần đảo sau khi chiếm nó từ tay Đức vào năm 1914. Sau đó, Hội Quốc Liên chính
thức đặt quần đảo dưới quyền cai quản của Nhật Bản với vị thế là bộ phận của Ủy thác Nam Dương.
Trong Thế Chiến II, Hoa Kỳ chiếm được Palau từ Nhật Bản vào năm 1944
sau Trận
Peleliu với tổn
thất lớn, khi hơn 2.000 lính Mỹ và 10.000 lính Nhật tử trận. Quần đảo được giao
cho Hoa Kỳ cai quản chính thức thông qua bảo trợ của Liên Hiệp Quốc vào năm
1947 với vị thế là bộ phận của Lãnh thổ Ủy thác Quần đảo Thái
Bình Dương.
Bốn trong số các khu vực của Lãnh thổ Ủy thác hợp nhất thành Liên bang Micronesia vào năm 1979, song khu vực Palau và Quần đảo Marshall từ chối
tham gia.
Palau thay vào đó lựa chọn độc lập vào năm 1978.
Palau phê chuẩn một hiến pháp mới và trở thành nước Cộng hòa
Palau vào năm 1981. Palau ký kết Hiệp ước Liên kết tự do với
Hoa Kỳ vào năm 1982. Sau trưng cầu dân ý và sửa đổi hiến pháp, Hiệp ước được
phê chuẩn vào năm 1993. Hiệp ước có hiệu lực vào ngày 1 tháng 10 năm 1994, khiến Palau độc lập về pháp lý, song độc
lập thực tế khi kết thúc ủy trị từ ngày 25 tháng 5 năm 1994,.
Thượng viện thông qua luật biến Palau thành một trung tâm tài
chính ngoài khơi vào năm 1998. Năm 2001, Palau thông qua các luật đầu tiên về
điều lệ ngân hàng và chống rửa tiền.
Chính
trị
Trụ sở chính phủ của Palau.
Palau là một nước cộng hòa dân chủ đa đảng. Tổng thống Palau là
nguyên thủ quốc gia và cũng là người đứng đầu chính phủ. Quyền hành pháp do
chính phủ thi hành, còn quyền lập pháp được trao cho chính phủ và Quốc hội
Palau. Bộ máy tư pháp độc lập với hành pháp và lập pháp. Palau thông qua một
hiến pháp vào năm 1981.
Chính phủ Hoa Kỳ và Palau dàn xếp một hiệp ước liên kết tự do
vào năm 1986, tương tự như các hiệp ước mà Hoa Kỳ ký kết với Liên bang
Micronesia và Quần đảo Marshall. Hiệp ước có hiệu lực vào ngày 1 tháng 10
năm 1994, kết thúc chuyển giao Palau từ ủy thác sang độc lập và là bộ phận cuối của Lãnh thổ Ủy thác
Quần đảo Thái Bình Dương đạt được độc lập theo Nghị quyết 956 của Hội đồng Bảo
an.
Hiệp ước liên kết tự do giữa Hoa Kỳ và Palau định ra liên kết tự do và tình nguyện giữa
hai chính phủ. Nó chủ yếu tập trung vào các vấn đề chính phủ, kinh tế, an ninh
và quốc phòng. Palau không có quân đội độc lập, dựa vào
Hoa Kỳ để phòng thủ. Theo hiệp ước, quân đội Hoa Kỳ được quyền tiếp cận quần
đảo trong 50 năm. Hải quân Hoa Kỳ có vai trò tối thiểu, hạn chế trong một số ít
Seabee hải quân (kỹ sư xây dựng). Tuần duyên Hoa Kỳ tuần
tra vùng biển của Palau.
TTPI High Commissioner and staff, 1960s
Ngoại
giao
Palau là một quốc gia có chủ quyền, quản lý các quan hệ đối
ngoại của mình. Từ khi độc lập, Palau thiết lập quan hệ
ngoại giao với một số quốc gia, bao gồm nhiều láng giềng Thái Bình Dương như Liên bang Micronesia và Philippines.
Ngày 29 tháng 11 năm 1994, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc thông
qua Nghị quyết số 963 đề nghị tiếp nhận Palau vào Liên Hiệp Quốc.
Đại hội đồng liên Hiệp Quốc phê chuẩn tiếp nhận Palau vào ngày
15 tháng 12 năm 1994. Palau từ đó tham gia một vài tổ chức quốc
tế khác.
Trong tháng 9 năm 2006, Palau đăng cai Hội nghị Thượng đỉnh Đồng
minh Đài Loan-Thái Bình Dương lần thứ nhất. Các tổng thống Palau cũng đến thăm
các quốc gia Thái Bình Dương khác, trong đó có Đài
Loan.
Hoa Kỳ duy trì một phái đoàn ngoại giao và một đại sứ quán tại
Palau, song hầu hết khía cạnh trong quan hệ hai bên được thực hiện theo các dự
án được tài trợ trong khuôn khổ Hiệp ước, do Phòng Quốc hải vụ của Bộ Nội vụ Hoa Kỳ chịu
trách nhiệm. Trên chính trường quốc tế, Palau thường bỏ
phiếu giống Hoa Kỳ trong các nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Palau là một thành viên của Hiệp ước Nauru.
Năm 1981, Palau bỏ phiếu lập ra hiến pháp phi hạt nhân đầu tiên
trên thế giới. Hiến pháp này cấm chỉ sử dụng, lưu trữ và xử lý các vũ khí hạt
nhân, hóa học độc hại, không khí và sinh học mà không được 3/4 dân số tán thành
trong một cuộc trưng cầu dân ý. Điều cấm này làm trì hoãn quá trình chuyển
đổi Palau thành quốc gia độc lập, do trong khi đàm phán Hoa Kỳ nhất định muốn
vận hành các tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân và vũ khí hạt nhân cất trong kho
trên lãnh thổ Palau, xúc tiến các chiến dịch đòi độc lập và phi
hạt nhân hóa. Sau một vài cuộc trưng cầu dân ý thất bại
trong việc đạt đa số 3/4, người dân Palau cuối cùng tán thành Hiệp ước vào năm
1994.
Hành
chính
16 bang của Palau.
Palau được chia thành 16 bang (gọi là khu tự quản cho đến năm
1984):
Bang Diện
tích (km2) Dân số
(2012)
Airai 59 2537
Angaur 8.06 130
Hatohobei .9 10
Kayangel 1.7 76
Melekeok 26 300
Ngaraard 34 453
Ngarchelong 11.2 281
Ngardmau 34 195
Ngaremlengui 68 310
Ngatpang 33 257
Ngchesar 43 287
Ngiwal 17 226
Peleliu 22.3 510
Sonsorol 3.1 42
Địa
lý
Quốc gia thuộc quần đảo Micronesia, ở Tây Thái Bình Dương, phía cực Tây quần đảo. Palau
gồm 326 đảo san hô và núi lửa lớn nhỏ, trong đó Babeldaob là đảo chính.
Các hòn đảo đông dân nhất là Angaur, Babeldaob, Koror, và Peleliu. Ba
trong số 4 đảo chính này nằm cùng nhau trong cùng một rặng san hô, trong khi Angaur là một hòn đảo nằm về phía nam đất nước.
Khoảng 2/3 dân số Palau sống ở bang Koror. Các đảo san hô của
bang Kayangel nằm phía bắc của 4 hòn đảo chính, trong khi
các đảo đá không có người ở (khoảng 20 đảo) nằm về phía tây của nhóm 4 đảo
chính. Một nhóm đảo xa gồm 6 hòn đảo, được gọi là quần đảo Tây Nam, cách 4 hòn
đảo chính của quốc gia khoảng 375 dặm (604 km), đây cũng là một phần của
đất nước Palau và hình thành nên các bang Hatohobei và Sonsorol.
Palau có khí hậu nhiệt đới quanh
năm với nhiệt độ trung bình hàng năm là 82 °F (28 °C). Lượng mưa lớn
trong suốt cả năm, trung bình tổng cộng 3.800mm mỗi năm. Độ ẩm trung bình trong
suốt năm là 82%, và mặc dù mưa rơi thường xuyên hơn giữa tháng 7 và tháng 10,
là vẫn còn nhiều ánh nắng mặt trời. Bão là rất hiếm, vì Palau nằm bên ngoài
vành đai bão Thái Bình Dương.
Kinh
tế
Nền kinh tế của Palau bao gồm chủ yếu là các ngành du lịch, nông nghiệp tự cung
tự cấp, và ngư
nghiệp. Hoạt động du lịch tập trung vào việc lặn biển và lặn trong môi
trường biển đảo phong phú, bao gồm tham quan các bức tường san hô và xác tàu
chiến bị đắm trong chiến tranh thế giới thứ hai ở ngoài khơi Palau. Chính phủ là nguồn sử
dụng lao động lớn đối với lực lượng lao động quốc gia, các hoạt động kinh tế
của Palau dựa nhiều vào sự hỗ trợ tài chính từ Mỹ. Lượng
khách du lịch đến Palau tăng 50.000 góp phần đem lại nguồn thu lớn cho Palau
trong năm tài chính 2000-2001. Dân số được hưởng mức thu nhập bình quân đầu
người gấp đôi so với quốc gia láng giềng là liên bang Micronesia. Triển vọng cho ngành du lịch
trọng điểm đã được hỗ trợ rất nhiều bởi việc mở rộng du lịch hàng không ở Thái
Bình Dương, sự thịnh vượng ngày càng tăng của các nước Đông Á.
Trong tháng 7 năm 2004, hãng hàng không quốc gia Palau
Micronesia Air đã được khai trương với các điểm đến ở Palau, Guam, Micronesia, Nhật
Bản, Australia, và Philippines. Bằng
cách cung cấp giá vé thấp, hãng hàng không này đã được lên kế hoạch trở thành
một đối thủ cạnh tranh với hãng hàng không Continental Micronesia của Liên bang
Micronesia, tuy nhiên nó không còn hoạt động trong tháng 12 năm đó, chủ yếu là
do giá nhiên liệu tăng cao. Hãng hàng không Palau Micronesia Air đã không hoạt
động lại từ đó nhưng hãng này đã thực hiện một loạt các liên minh liên danh
hàng không với hãng hàng không Asian Spirit, với
hoạt động các chuyến bay giữa Palau và Việt
Nam thông
qua các điểm trung chuyển hành khách là (Davao, Cebu và Manila) của
Philipines. Có hai chuyến bay hàng tuần từ Thành phố Hồ Chí Minh thông qua điểm trung chuyển hành khách ở
Cebu để đến Palau và các chuyến bay hàng tuần từ Davao. Chỉ sau vài tháng hãng
hàng không Asian Spirit ngừng các chuyến bay từ Philippines đến Palau.
Trong tháng 11 năm 2006, các Ngân hàng Palau chính thức tuyên bố
phá sản. Ngày 13
tháng 12 cùng
năm ngân hàng quốc gia Horizon Palau báo cáo rằng có tổng cộng 641 người gửi
tiền đã bị ảnh hưởng bởi sự kiện này. Trong số 641 tài khoản, có 398 tài khoản
gửi ít hơn 5000 USD, phần còn lại khác nhau, từ 5000USD đến 2 triệu USD. Ngày
12 tháng 12, 79 người của những người bị ảnh hưởng nhận tiền đền bù, một trong
số đó là từ Đài Loan, trong khi phần còn lại là các tài khoản từ Palau,
Philipines và Mỹ. Ông Toribiong thống tống ngân hàng quốc gia Horizon Palau
nói: "Kinh
phí cho thanh toán đến từ sự cân bằng vốn vay cho Palau từ chính phủ Đài
Loan".
Dân
cư - tôn giáo
Tobi villagers.
Dân số Palau là khoảng 21.000 người, trong đó 70% là người Palau bản địa, có nguồn gốc từ từ sự hòa huyết
qua các cuộc hôn nhân giữa người Melanesia, Micronesia, và
gốc châu Đại Dương. Nhiều người Palau cũng có một số gốc từ châu Á, đó là kết
quả của những cuộc hôn phối giữa người di cư và người Palau vào giữa thế kỷ XIX và thế kỷ
XX.
Người Nhật Bản là nhóm
người dân tộc di cư lớn nhất, ngoài ra còn có người
Trung Quốc và người Hàn Quốc. Người Philippines hình
thành nhóm dân tộc ngoại lai lớn thứ hai.
Các ngôn ngữ chính thức của Palau là tiếng
Palau và tiếng
Anh, ngoại trừ hai bang (Sonsorol và Hatohobei), nơi
ngôn ngữ địa phương, cùng với tiếng Palau, là chính thức. Tiếng Nhật cũng
nói rộng rãi ở Palau, và là một ngôn ngữ chính thức của bang Angaur. Tiếng
Tagalog không
được công nhận là ngôn ngữ chính thức tại Palau, nhưng nó là ngôn ngữ lớn thứ
tư ở quốc đảo này.
Ba phần tư dân số Palau là Kitô
hữu (chủ
yếu là Giáo hội Công giáo Rôma và Tin
Lành), trong khi giáo phái Modekngei (một sự kết hợp của Kitô
giáo, và các tôn giáo truyền thống Palau) và tôn giáo bản địa Palau
vẫn thường được người dân tin theo. Theo điều tra dân số năm 2005, 49,4% dân số
là Giáo hội Công giáo Rôma, Tin
Lành 21,3%,
8,7% Modekngei và 5,3% Cơ Đốc Phục Lâm. Có một cộng đồng nhỏ người Do Thái theo Do Thái
giáo ở
Palau. Ngoài ra còn có khoảng 400 người gốc Bengal theo Hồi
giáo ở
Palau, và gần đây 6 người Duy Ngô Nhĩ bị giam
giữ tại Vịnh Guantanamo đã được phép định cư ở Palau họ đều theo
Hồi giáo.
Giáo hội Công giáo Rôma là tôn giáo thống trị ở Palau, khoảng 65%
dân số là thành viên. Ước tính của các nhóm tôn giáo khác với một lượng tín đồ
khá lớn là các Giáo hội Tin Lành có khoảng 2000 tín đồ trong đó Cơ Đốc Phục Lâm có
1.000 tín đồ, Giáo
hội Mặc Môn 300 tín
đồ; và Nhân Chứng Giê-hô-va có 90 tín đồ. Giáo phái Modekngei có khoảng
1.800 tín đồ. Cũng có 6.800 người theo Công giáo là người Philippines.
Công giáo hiện diện ở Palau kể từ khi các linh
mục dòng
Tên đến
Palau truyền giáo từ thế kỷ XIX hoặc
sớm hơn.
No comments:
Post a Comment