Cách nay
đúng 102 năm, vua Duy Tân bị Pháp bắt khi tham gia phong trào khởi nghĩa chống
Pháp
Ngày 06
tháng 05, 1916
·
1916 – Vua Duy Tân của nhà
Nguyễn bị bắt
giữ do tham gia khởi nghĩa chống Pháp, sau đó ông bị đưa đi an trí tại Réunion.
Duy Tân
Thông tin chung
Hậu duệ: Armand Viale, Thérèse, Suzy
Vĩnh San, Solange, Georges Vĩnh
San
Claude Vĩnh San, Roger Vĩnh San, Ginette, Andrée Vĩnh San
Claude Vĩnh San, Roger Vĩnh San, Ginette, Andrée Vĩnh San
Tên húy: Nguyễn Phúc Vĩnh San (阮福永珊)
Thân mẫu: Nguyễn Thị Định
Duy Tân (chữ Hán: 維新; 19 tháng
9 năm 1900 – 26 tháng
12 năm 1945), tên
khai sinh là Nguyễn Phúc Vĩnh
San (阮福永珊), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Nguyễn, ở
ngôi từ năm 1907 đến năm 1916), sau
vua Thành
Thái.
Khi vua cha bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên ngôi
khi còn thơ ấu. Tuy nhiên, ông dần dần khẳng định thái độ bất hợp tác với Pháp.
Năm 1916, lúc ở Âu châu có cuộc Đại chiến, ông bí mật liên lạc với các
lãnh tụ Việt Nam Quang Phục Hội như Thái
Phiên, Trần Cao Vân, ông dự định khởi nghĩa.
(Thái Phiên (1882–1916), was a Vietnamese scholar and revolutionary
from Quảng Nam Province, also known by the alias Nam Xương)
Trần Cao Vân (sinh 1866 - mất 1916) là một trong những người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống
Pháp tại Trung kỳ Việt Nam, do Việt Nam Quang Phục
Hội chủ xướng.
Dự định thất bại và Duy Tân bị bắt ngày 6 tháng 5 và đến ngày 3 tháng
11 năm
1916 ông bị đem an trí trên đảo
Réunion ở Ấn Độ Dương.
đảo
Réunion
Đảo nhìn từ
trên không.
Plaine-des-Palmistes
Trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945) ông gia nhập quân Đồng Minh
chống phát xít Đức. Ngày 26 tháng
12 năm 1945, ông
mất vì tai nạn máy bay ở Cộng hoà Trung Phi, hưởng dương 45 tuổi.
Ngày 24 tháng
4 năm 1987, thi
hài ông được đưa từ đảo Réunion về Việt Nam, rồi
đưa về an táng tại Lăng Dục Đức, Huế cạnh lăng mộ vua cha Thành Thái. Ông không
có miếu hiệu.
Xuất thân
Vua Duy Tân tên húy là Nguyễn
Phúc Vĩnh San (阮福永珊), còn có tên là Nguyễn
Phúc Hoàng (阮福晃) sinh ngày 26 tháng 8 năm Canh Tý, tức 19 tháng
9 năm 1900 tại Huế. Ông
là con thứ 8 của vua Thành
Thái và bà
hoàng phi Nguyễn Thị Định.
Vua Thành Thái có nhiều con trai, đáng lẽ phải chọn người con
trưởng kế vị, nhưng người Pháp sợ một vị vua trưởng thành khó sai khiến nên họ
muốn tìm chọn một người nhỏ tuổi. Khi Khâm sứ Fernand Ernest Lévecque cầm danh sách các hoàng tử con vua Thành
Thái vào hoàng cung chọn vua, lúc điểm danh thì thiếu mất Vĩnh San. Triều đình
cho người đi tìm thì thấy Vĩnh San đang chơi đùa, mặt mày lem luốc. Không kịp
đưa về nhà tắm rửa, Vĩnh San ra trình diện quan Pháp. Người Pháp trông thấy
đồng ý ngay vì họ thấy Vĩnh San có vẻ nhút nhát và đần độn. Triều đình thấy vua
quá nhỏ nên xin tăng thêm một tuổi thành 8. Họ cũng đặt niên hiệu cho Vĩnh San
là Duy Tân, như muốn hướng tới sự nghiệp không thành của vua Thành Thái.
Trị vì
Lên ngôi
Ảnh chụp vua Duy Tân năm 1907. Bức hoành sau
lưng ghi bốn chữ "Tiên cấm trường xuân"
Đồng tiền cổ với bốn chữ "Duy Tân thông
bảo"
Ngày 5 tháng 9 năm 1907, Vĩnh
San lên ngôi lấy niên hiệu là Duy Tân. Và chỉ một ngày sau lễ đăng cơ, Duy Tân
đã đổi khác. Một nhà báo Pháp đã thuật lại:
Vua
Duy Tân thiết triều
"...Un jour de
trône a complètement changé la figure d'un enfant de 8 ans" (Một
ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám)
Để kiểm soát vua Duy Tân, người Pháp cho lập một phụ chính gồm
sáu đại thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục để cai
trị Việt Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp.
Phủ phụ chánh triều vua Duy Tân. Từ trái sang phải: Tôn Thất Hân (thượng thư bộ hình), Nguyễn Hữu Bài (thượng thư bộ lại), Huỳnh Côn (thượng thư bộ lễ), Hoàng
thân Miên Lịch, Lê Trinh (thượng
thư bộ công), Cao Xuân Dục (thượng thư bộ học)
Một tiến sĩ sinh học là Ebérhard được đưa đến để dạy học cho vua
Duy Tân, theo nhiều người thì đó chỉ là hành động kiểm soát.
Khoảng năm 1912, Khâm
sứ Georges
Marie Joseph Mahé mở một
chiến dịch tìm vàng ráo riết. Mahé lấy tượng vàng đúc từ thời
chúa Minh Nguyễn Phúc Chu trên
tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào lăng Vua Tự Đức và đào xới lung tung trong Đại Nội để tìm
vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó, nhưng Mahé
vẫn làm ngơ.
(Nguyễn Phúc Chu (chữ Hán: 阮福淍, 1675 – 1 June 1725) was one of the Nguyễn lords who ruled
southern Vietnam (Dang Trong) from 1691 to 1725.)
Duy Tân ra lệnh đóng cửa cung không tiếp ai. Toà Khâm sứ Pháp
làm áp lực với nhà vua thì Duy Tân đe đọa sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở
Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng Toàn quyền Albert
Pierre Sarraut từ Hà Nội phải vào giải quyết vua Duy Tân mới cho mở
Hoàng thành.
Albert Pierre Sarraut (Phiên âm : An-be Sa-gô)(1872-1962) là chính khách người Pháp, đảng viên đảng Cấp tiến Pháp và đã hai lần làm thủ tướng Pháp.
Năm vua Duy Tân 13 tuổi, ông xem lại những hiệp ước mà hai nước
Việt-Pháp đã ký. Nhà vua cảm thấy việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với
những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau nên một hôm giữa triều đình, nhà
vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi tiếng
Pháp sang
Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884 (Patenôtre). Nhưng cả triều đình không ai
dám nhận chuyến đi đó.
Đồng tiền Duy Tân thông bảo.
Năm 15 tuổi, vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong
Phụ chính, bắt buộc các vị phải ký vào biên bản để đích thân vua sẽ cầm qua
trình với toà Khâm Sứ nhưng các đại thần sợ người Pháp giận sẽ kiếm chuyện nên
từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái hậu để nhờ bà can gián nhà vua.
Từ đó không những nhà vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều
đình.
Dự định
khởi nghĩa với Việt Nam Quang Phục Hội
Việt Nam Quang Phục Hội được Phan Bội Châu thành
lập từ 1912. Biết
được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục Hội quyết
định móc nối. Hai lãnh đạo của hội là Trần Cao Vân và Thái
Phiên bỏ tiền
vận động người tài xế riêng của vua Duy Tân xin thôi việc. Thay vào đó là Phạm
Hữu Khánh, một thành viên của hội.
Phan Bội Châu (chữ Hán: 潘佩珠; 1867 – 1940) là một danh sĩ và là nhà cách mạng Việt Nam, hoạt động
trong thời kỳ Pháp thuộc.
Tháng 4 năm 1916, khi
vua Duy Tân ra bãi tắm Cửa Tùng nghỉ
mát, Phạm Hữu Khánh có đưa cho vua một bức thư của hai lãnh tụ Trần Cao Vân và
Thái Phiên. Duy Tân đọc thư và muốn gặp hai người này. Ngày hôm sau, ba người
cùng đến câu cá ở Hậu hồ, vua Duy Tân đồng ý cùng tham gia khởi nghĩa. Khởi
nghĩa dự định được tổ chức vào 1 giờ sáng ngày 3 tháng 5.
Nhưng cuối tháng 4, một thành viên của Việt Nam Quang Phục Hội ở Quảng
Ngãi là Võ
An đã làm lộ tin. Chiều ngày 2 tháng 5, công
sứ Pháp ở Quảng Ngãi là de Taste mật điện với Khâm sứ Trung Kỳ biết tin. Nghe
tin, khâm sứ Charles ra lệnh thu súng ở các trại lính người Việt cất vào kho và
cấm trại không cho một người lính Việt nào ra ngoài.
Đêm 2 tháng 5, Trần Cao Vân và Thái Phiên đưa thuyền đến bến Thương Bạc đón vua Duy Tân. Nhà vua cải trang theo lối
thường dân đi cùng hai người hộ vệ là Tôn Thái Đề và Nguyễn Quang Siêu. Họ tới
làng Hà Trung, lên nhà một hội viên Việt Nam Quang Phục hội để chờ giờ phát
lệnh bằng súng thần công ở Huế.
Nhưng chờ đến ba giờ sáng vẫn không nghe hiệu lệnh, biết đã thất bại, Trần Cao
Vân và Thái Phiên định đưa vua Duy Tân tới vùng Quảng Nam, Quảng
Ngãi. Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1916, họ bị
bắt
Khâm sứ tại Huế Charles và Toàn quyền thuyết phục vua Duy
Tân trở lại ngai vàng nhưng ông không đồng ý:
Các ngài muốn bắt buộc tôi phải làm vua nước Nam, thì hãy coi
tôi như là một ông vua đã trưởng thành và có quyền tự do hành động, nhất là
quyền tự do trao đổi tin tức và ý kiến với chính phủ Pháp.
|
Pháp bắt Triều đình Huế phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Đắc Trung được ủy
nhiệm thảo bản án. Trần Cao Vân khi đó
bị giam trong ngục, nhờ được người đưa tin cho Hồ Đắc Trung xin được lãnh hết
tội và xin tha cho vua. Hồ Đắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 người Thái
Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề và Nguyễn Quang Siêu.
Hồ Đắc Trung (chữ Hán: 胡得忠, 1861 - 1941) là một danh thần nhà Nguyễn ở cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX trong lịch
sử Việt Nam. Ông là cha của Hồ Thị Chỉ.
Bốn người bị xử chém ở An Hòa. Vua
Duy Tân bị đày đi đảo La
Réunion ở Ấn Độ Dương cùng
với vua cha Thành
Thái vào năm 1916.
Lưu đày
Sang đảo La Réunion
Duy Tân (ở giữa) và các bạn
Ngày 3 tháng
11 năm 1916, gia
đình vua Thành Thái và Duy Tân lên tàu Guadiana ở Cap
Saint-Jacques. Đến ngày 20 tháng
11 họ tới
bến Pointe de Galets đảo La Réunion lúc 7 giờ rưỡi sáng. Tại đây, từ chối một
biệt thự sang trọng người Pháp dành cho, gia đình cựu hoàng sống trong một căn
nhà thuê lại một người dân ở thành phố Saint-Denis. Ông sống giản dị trong căn
nhà nhỏ, ăn mặc và sinh hoạt cũng giản dị như bao người dân bình thường khác ở
đảo.
Duy Tân bất bình với cha Thành Thái vì không hợp tính tình, ông
cắt đứt liên lạc với gia đình. Duy Tân ghi tên học về vô tuyến điện và mở tiệm Radio - Laboratoire bán hàng sửa
chữa máy. Đồng thời, ông thi tú tài ở trường trung học Leconte de Lisle và học
thêm ngoại ngữ, luật học. Duy Tân ít quan hệ với người Pháp, chỉ giao du với
một nhóm bạn bè. Ông tham gia hội yêu nhạc, học cưỡi ngựa và
thắng nhiều cuộc đua. Cựu hoàng Duy Tân còn viết nhiều bài và thơ đăng trong
những tờ báo Le Peuple (Dân chúng), Le Progrès (Tiến bộ) dưới biệt hiệu Georges Dry.
Bài Variations sur une lyre
briée (Những biến tấu của một
cây đàn lia gãy vỡ) được giải nhất văn chương của Viện Hàn lâm Khoa học và Văn
chương La Réunion năm 1924. Duy
Tân còn là hội viên của Hội Tam Điểm, Franc-Macon và Hội địa phương bảo vệ Nhân
quyền và quyền Công dân.
Trong bài Destin
tragique d'un Empereur d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân đăng trong Revue France-Asie, năm 1970, tác
giả E.P Thébault, một bạn thân của Duy Tân, ghi rằng: chỉ một lần – một lần mà thôi –
trong bức thơ ngày 5 tháng 6 năm 1936 gởi cho Marius Moutet, Tổng
trưởng Bộ Thuộc địa Pháp, Duy Tân gợi lại cuộc biến động 1916 và nói về vai trò
của ông trong vụ ấy để xin phép qua trú ngụ bên Pháp".
Trong nhiều bức thư khác gởi cho Chính phủ Pháp từ 1936 cho đến 1940, để
xin phục vụ trong Quân đội Pháp, ông không đả động đến vụ mưu
loạn tại Việt Nam. Tất cả đơn đều bị bác vì Bộ Thuộc địa phê trong tờ lý lịch
cá nhân của Duy Tân (được giải mật sau này): "...parait difficile à
acheter, extrêmement indépendant...intrigue pour quitter la Réunion et
rétablissement trône d'Annam..." (Có vẻ khó mua chuộc, rất độc lập,
mưu đồ rời khỏi đảo La Réunion để tái lập ngôi báu ở An Nam...).
Tham gia
Quân đội Pháp
Ngày 18 tháng
6 năm 1940, Charles
de Gaulle kêu gọi
chống Đức quốc xã. Sự việc nước Pháp bại trận trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đầu
hàng phát xít Đức và sau đó lực lượng kháng chiến Pháp ở hải
ngoại do De Gaulle đứng đầu được thành lập ở Anh trở về tái chiếm đất Pháp đã có tác động
rất lớn đến tư tưởng, tình cảm của Cựu hoàng. Ông xem De Gaulle là thần tượng,
là hình mẫu cho hoạt động cứu nước của mình. Tuy "nước Pháp tự do" và
nước Pháp thực dân mà ông chống đối đều là một nước Pháp, Duy Tân hưởng ứng và
bằng đài vô tuyến điện, ông đã thu thập tin tức bên ngoài để chuyển cho Lực
lượng kháng chiến tự do Pháp. Vụ việc đổ bể, ông bị nhà cầm quyền La Réunion
(lúc đó theo Chính phủ Vichy) câu lưu sáu tuần. Sau đó, ông
phục vụ ba tháng với cấp bậc hạ sĩ vô tuyến trong phe kháng chiến của tướng
Legentilhomme và đại tá Alain de Boissieu. Bị giải ngũ vì lý do sức
khoẻ, Duy Tân nhờ thống đốc La Réunion là A. Capagory (1942 - 1947) can thiệp
cho ông đăng vào bộ binh Pháp dưới quyền của tướng Catroux với cấp bậc binh nhì. Một
thời gian sau ông được thăng lên chuẩn úy rồi sang châu Âu.
Ngày 5 tháng 5 năm 1945, có
lệnh đưa chuẩn úy Duy Tân về phòng Quân sự của tướng Charles de Gaulle ở Paris. Duy
Tân đến Pháp vào tháng 6 năm 1945 thì Đức đã đầu hàng ngày 8 tháng 5. Ngày 20 tháng
7 năm
1945, ông được đưa qua phục vụ tại Bộ tham mưu của Sư đoàn 9 Bộ binh Thuộc địa
(9ème DIC) đóng ở Forêt Noire, Đức.
Ngày 29 tháng
10 năm
1945, Charles de Gaulle ký một sắc lệnh hợp thức hoá những sự thăng cấp liên
tiếp của Duy Tân trong Quân đội Pháp: thiếu uý từ 5 tháng 12 năm 1942, trung uý từ 5 tháng 12 năm 1943, đại uý tháng 12 năm 1944 và thiếu tá ngày 25 tháng 9 năm 1945. Tuy nhiên, nhiều
người cho rằng cựu hoàng Duy Tân đã bị dùng như một con bài chính trị trong kế
hoạch mật tái chiếm Đông Dương của
Pháp.
Gặp Charles de Gaulle và chuẩn bị về Việt Nam
Cựu hoàng Duy Tân
Charles de
Gaulle hay Charles
André Joseph Marie de Gaulle
Trong tập Hồi
ký chiến tranh, tướng de Gaulle ghi:
"...Tôi sẽ tiếp Cựu hoàng (Vĩnh San) và sẽ cùng ông xét
xem chúng tôi sẽ làm được những gì? Đó là một nhân vật đầy cương nghị. Mặc dù
bị lưu đày ròng rã 30 năm trời, hình ảnh của ông không hề phai mờ trong tâm
hồn của dân tộc Việt Nam."
|
Bảo Đại đã
thoái vị và bị phê bình nghiêm khắc. Nhưng lần này, người được chú ý chính là
nhân vật tiền nhiệm, Duy Tân. Bị lưu đày năm lên 16 tuổi, ông đã đầu quân vào
Không lực Pháp và tham gia các cuộc chiến đấu ở Pháp và Đức. Ông đã trình bày
chính kiến với Chính phủ Pháp và với một trung uý của Quân đoàn I sắp qua
Đông Dương là ông Bousquet, cựu chánh văn phòng của Tổng trưởng Abel Bonnard.
|
Một bạn thân của Duy Tân là E.P Thébault kể lại trong bài Destin tragique d'un Empereur
d'Annam: Vĩnh San - Duy Tân:
Trở lại Paris ngày 16 tháng 12 năm 1945, tôi thấy Ngài mặc một
bộ đồ nhà binh rất đẹp, có gắn bốn lon. Bây giờ Ngài trọ ở khách sạn Louvres,
trước hý viện Pháp. Ngài nói: "Như vậy là xong rồi, quyết định rồi!
Chính phủ Pháp sẽ đặt tôi lại trên ngôi Hoàng đế Việt Nam. Tướng De Gaulle sẽ
theo tôi trở về bên đó (Việt Nam) vào những ngày đầu tháng 3 (1946)." Từ
nay tới đó, người ta sẽ chuẩn bị dư luận của Pháp cũng như quốc tế và Đông
Dương. Vả lại, cũng còn cần phải dự thảo các bổn thoả ước giữa hai chính phủ
nữa.
|
Trong hồi ký Bên
giòng lịch sử 1940-1965, linh mục Cao Văn Luận ghi lại
rằng mùa đông 1944 và đầu năm 1945, cùng
với một số du học sinh Việt và Việt kiều, ông
có tiếp xúc ba lần với Duy Tân ở Paris. Lần đầu, cựu hoàng giải thích:
Người Pháp đang cần sự hợp tác của chúng ta để tái chiếm Đông
Dương. Họ có thể chấp nhận cho ta thành một quốc gia tự trị trong Liên Hiệp Pháp. Điều đó không trái với
quyền lợi quốc gia. Dần dà chúng ta đòi thêm quyền hành. Chúng ta biết làm gì
hơn trước binh lực hùng hậu của Pháp và hậu thuẫn của đồng minh Tây phương?
Chúng ta đã thấy những gương chống Pháp và tôi đây là nạn nhân của một lối
chống nóng nảy vụng về. Rồi đất nước chúng ta phải chịu một cảnh chiến tranh
tàn khốc mà kết quả chưa biết là thắng hay bại.
|
Duy Tân đã từng tâm sự:
Riêng về phần tôi, lòng yêu quê hương Việt Nam không cho phép
tôi để ngỏ cửa cho một cuộc tranh chấp nội bộ nào. Điều mà tôi mong muốn là tất
cả các con dân Việt Nam ý thức được rằng họ là một quốc gia và ý thức ấy sẽ
thức đẩy họ dựng lên một nước Việt Nam xứng đáng là quốc gia. Tôi tưởng rằng
tôi sẽ làm tròn bổn phận của một công dân Việt Nam khi nào mà tôi làm cho những
người nông dân Lạng Sơn, Huế, Cà Mau ý thức được tình huynh đệ của
họ. Nghĩa hợp quần ấy được thực hiện dưới bất cứ chế độ nào: cộng sản, xã hội
chủ nghĩa, bảo hoàng hay quân chủ, điều đó không quan trọng, điều quan trọng là
phải cứu dân tộc Việt Nam khỏi cái họa phân chia.
Tử nạn
Ngày 24 tháng
12 năm
1945, Duy Tân lấy phi cơ Lockheed C-60 của Pháp cất cánh từ Bourget, Paris
để trở về La Réunion thăm gia đình trước khi thi hành sứ mạng mới. Lúc 13 giờ
50, phi cơ rời Fort Lami để bay đến Bangui, trạm kế tiếp. Ngày 26 tháng
12 năm
1945, khoảng 18 giờ 30 GMT, máy
bay rớt gần làng Bassako, thuộc phân khu M'Baiki, Cộng hoà Trung Phi. Tất cả phi hành đoàn đều
thiệt mạng, gồm có một thiếu tá hoa tiêu, hai
trung uý phụ tá, hai quân nhân trong đó có cựu hoàng Vĩnh San và bốn thường
dân.
Theo nhiều người đây có thể là một vụ mưu sát. Việc vua Duy Tân
trở lại Việt Nam sẽ gây khó khăn cho Anh trong việc trao trả các thuộc địa. Cũng
trong Destin tragique d’un
Empereur d’Annam, E.P Thébault viết:
Ngày 17 tháng
12 năm 1945 – mười hôm trước khi tử nạn –
Duy Tân có linh cảm tính mạng ông bị đe doạ. Khi cả hai đi ngang – lần chót – vườn Tuileries, cựu hoàng nắm tay Thébault
nói: "Anh bạn già Thébault của tôi ơi! Có cái gì báo với tôi rằng tôi sẽ
không trị vì. Anh biết không, nước Anh chống lại việc tôi trở về Việt Nam. Họ
đề nghị tặng tôi 30 triệu quan nếu tôi bỏ ý định ấy.
Ngày 28 tháng
3 năm 1987, hài
cốt của vua Duy Tân được gia đình đưa từ M'Baiki, Trung Phi về
Paris làm lễ cầu siêu tại Viện Quốc tế Phật học Vincennes và sau đó đưa về an
táng tại An Lăng, Huế, cạnh
nơi an nghỉ của vua cha Thành Thái, vào ngày 6 tháng 4 năm 1987.
Vua Duy Tân năm 1930.
Sau Cách mạng tháng Tám, có phố Duy Tân ở Hà Nội, nhưng sau đổi
lại. Một nhóm chính trị ít nhiều có khuynh hướng dân chủ xã hội theo Duy Tân.
Bên cách mạng lúc đó xem ông là người từng có lập trường yêu nước nhưng rồi làm
việc cho Pháp.
Vinh danh
Ở Sài Gòn thời Việt Nam Cộng hòa, đường Garcerie cũ thời Pháp thuộc được đổi tên là đường Duy Tân. Đây là con
đường với hai hàng cây lớn, chạy ngang Trường Đại học Kiến trúc và Đại học Luật khoa có tiếng là thơ mộng nên được nhắc trong
bản nhạc "Trả lại em yêu" của Phạm Duy. Tuy
nhiên sau năm 1975 Duy Tân bị xóa và đường đổi tên thành Phạm Ngọc Thạch.
Ngày 5 tháng
12 năm 1992, thành phố Saint-Denis đảo La
Réunion khánh
thành một đại lộ mang tên ông: Đại lộ Vĩnh San..
Ở Việt Nam, năm 2010 phố Duy Tân được đặt tên tại phường Dịch
Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Năm
2013 tại thành phố Móng Cái, tên
ông được đặt cho phố kéo dài từ phố Hàm Nghi đến đường Đoan Ti tại thành phố Móng Cái, tên
ông được đặt cho phố kéo dài từ phố Hàm Nghi đến đường Đoan Tĩnh. Tại thành phố
Đồng Hới, Quảng Bình tên ông được đặt cho con đường kéo dài từ đường Trần Hưng
Đạo đến đường Phạm Văn Đồng ở phường Nam Lý.
Giai thoại
1 lần nhà vua thiếu niên từ bãi tắm Cửa Tùng lên (hàng năm ông
hay ra đây nghỉ mát), tay chân dính cát. Thị vệ bưng chậu nước cho vua rửa. Duy
Tân vừa rửa vừa hỏi:
"Khi tay dơ thì lấy
nước mà rửa, khi nước bẩn thì lấy chi mà rửa ?"
Người thị vệ chưa biết trả lời ra sao thì vua Duy Tân nói tiếp:
""Nước dơ thì phải lấy máu mà rửa, hiểu không ?"
1 lần khác vua Duy Tân ra ngồi câu cá trước bến Phu Văn Lâu.
Thượng thư Nguyễn Hữu Bài cùng đi. Mãi không thấy con cá nào cắn câu, vị hoàng đế trẻ bèn ra câu đối:
Ngồi trên nước không ngăn
được nước, trót buông câu nên lỡ phải lần.
Sau khi nghĩ ngợi một lúc, Thượng thư Nguyễn Hữu Bài nghĩ ngợi
rồi đối lại:
Nghĩ việc đời mà ngán cho
đời, đành nhắm mắt đến đâu hay đó.
Nghe đồn Duy Tân phê Nguyễn Hữu Bài là người cam chịu trước số
mạng. Nhà vua còn bảo:
"Theo ý trẫm, sống
như thế buồn lắm. Phải có ý chí vượt gian khó thì cuộc sống mới có ý
nghĩa."
Gia quyến
Khi sang đảo La Réunion, Duy Tân có đem theo Hoàng phi Mai Thị Vàng, nhưng được 2 năm bà xin về Việt Nam vì
không chịu được khí hậu ở đó. Thời gian ở La
Réunion, ông có chung sống với 3 người vợ ngoài giá thú, vì
Hoàng phi Mai Thị Vàng từ chối ly hôn.
Những người con của ông với các người vợ gốc châu Âu đều mang họ mẹ và được rửa tội theo lễ nghi Công giáo. Một
tài liệu viết các con ông đều không nói được tiếng Việt và có
ít quan hệ với cựu hoàng Thành
Thái. Duy Tân cũng không khuyến khích các con học tiếng Việt và tìm
hiểu về Việt Nam. Đến năm 1946, toà
án thành phố Saint-Denis đồng ý cho các con của Duy Tân mang họ ông. Andrée
Maillot và Armand Viale vẫn giữ họ cũ của mình. 5 người Suzy, Georges, Claude,
Roger và Andrée đổi thành Georges Vĩnh San, Claude Vĩnh San v.v...
Các bà vợ và con cái:
Diệu phi Mai Thị Vàng (妙妃枚氏鐄), kết hôn ngày 16
tháng 1, năm 1916. Khi
đi lưu đày theo chồng bà có mang 3 tháng và bị sẩy thai. Năm 1925, cựu
hoàng có gửi cho Hội đồng hoàng tộc một bức thư kèm đơn ly dị và xin Hội đồng hoàng tộc chứng nhận để bà
Vàng đi lấy chồng khác, lúc này bà 27 tuổi. Nhưng bà Vàng một lòng thủ tiết cho
đến cuối đời và thường ngâm:
Gìn vàng giữ ngọc cho hay
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
hay
Đá dù nát,
"Vàng" chẳng phai
Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh.
Tử sinh vẫn giữ lấy lời tử sinh.
Bà Marie Anne Viale, sinh năm 1890. Có một
con trai:
·
Armand Viale sinh 1919.
Bà Fermande Antier, sinh
năm 1913, cưới
năm 1928. Có
tám người con, 4 trai 4 gái đều mang họ Vĩnh San :
·
Thérèse Vinh-San sinh 1928 (mất sớm)
·
Rita Suzy Georgette Vinh-San sinh ngày 6 tháng 9 năm 1929
·
Solange sinh 1930 (mất sớm)
·
Ginette sinh 1940 (mất sớm)
·
...
·
Andrée Maillot Vinh-San sinh 1945 mất 2011.
Trong các hoàng tử của vua Duy Tân có hoàng tử Bảo Ngọc (Guy Georges Vĩnh San), sinh ngày 31 tháng 1 năm
1933 có bốn con Patrick Vĩnh San, Chantal Vĩnh San, Annick Vĩnh San và Pascale
Vĩnh San, thường xuyên tham gia các hoạt động và nghi lễ của nhà Nguyễn cùng với vợ là bà Monique.
Một người con khác là Hoàng tử Bảo Vàng (tên đầy đủ là Yves
Claude Vĩnh San, sinh ra tại Saint-Denis, đảo Réunion ngày 8 tháng 4 năm 1934). Hoàng tử Bảo Vàng
cưới Jessy Tarby và họ có mười con (7 trai và 3 gái): Yves Vĩnh San, Patrick
Vĩnh San, Johnny Vĩnh San, Jerry Vĩnh San, Thierry Vĩnh San, Stéphanie Vĩnh
San, Cyril Vĩnh San, Didier Vĩnh San, Marie-Claude Vĩnh San, Marilyn Vĩnh San
và Doris Vĩnh San .
Vào năm 1987, ông
đưa di hài vua cha về Việt Nam để an táng tại lăng Dục Đức (ông
nội của Duy Tân). Cùng
với Hoàng tử Bảo Thắng, ông là lãnh đạo của Đại Nam Long tinh Viện.
Hoàng tử Bảo
Thăng năm 54 tuổi 1997, chụp trong lễ tang cựu hoàng Bảo Đại tại nhà thờ. Ảnh TL của Nguyễn Đắc Xuân.
Mục đích của hội này không liên quan đến chính trị Việt Nam và
vai trò của hoàng tộc dưới sự lãnh đạo của thái tử Nguyễn Phúc Bảo Long là các hoạt động nhân đạo, giáo dục, và văn
hóa cho người Việt Nam.
Nguyễn Phúc Bảo Long (chữ Hán: 阮福保隆; 4 tháng 1 năm 1936 - 28 tháng 7 năm 2007) là vị hoàng thái tử cuối cùng
của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam.
Một người con khác là Hoàng tử Bảo Quý (Joseph Roger Vĩnh San), đang sống cùng vợ là bà
Lebreton Marguerite tại Nha Trang, Khánh Hòa
No comments:
Post a Comment