Cách nay đúng
70 năm sảy ra cuộc chiến giũa khối Ả-Rập và Do Thái
Ngày 14
tháng 05, 1948
·
1948 –
Israel tuyên bố là một nhà nước độc lập, các quốc gia Ả Rập lân cận
liền tấn công Israel, khởi đầu chiến tranh Ả Rập-Israel.
Chiến tranh Ả Rập-Israel 1948
Đại úy Avraham
Adan dựng lá cờ Israel tại Umm Rashrash (nay là Eilat) đánh dấu kết thúc chiến tranh.
Cuộc Chiến
tranh Ả Rập-Israel năm 1948, được người Do Thái gọi là Chiến tranh giành độc lập và Chiến
tranh giải phóng, còn người Palestine gọi là al Nakba (tiếng Ả Rập: النكبة, "cuộc Thảm họa") là
cuộc chiến đầu tiên trong một loạt cuộc chiến giữa Israel và các nước Ả Rập láng giềng.
Cuộc chiến nổ ra ngay khi Chế độ ủy trị Anh tại Palestine kết thúc ngày 15 tháng 5 năm 1948, tiếp
tục giai đoạn nội chiến 1947-1948, khi người Ả rập bác bỏ Nghị
quyết 181 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp
Quốc nhằm
lập ra một quốc gia Ả rập và một quốc gia Do Thái trên mảnh đất này. Cuộc chiến diễn ra phần
lớn trên lãnh thổ Ủy trị Palestine thuộc Anh và trong một thời gian ngắn tại
bán đảo Sinai. Cuộc chiến kết thúc với Hiệp định ngưng bắn 1949, nhưng cuộc Xung đột Ả Rập-Israel vẫn tiếp diễn.
Nguồn gốc cuộc chiến
Sau khi Đế chế Ottoman bị đánh
bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, phía
Đồng minh nhóm họp tại San Remo, Ý
ngày 18–26 tháng 4 để bàn bạc các điều khoản cho hiệp ước với Thổ Nhĩ Kỳ.
Kết luận của cuộc họp chủ yếu xác nhận các điều khoản của cuộc
đàm phán London lần thứ nhất và thỏa thuận Sykes-Picot ngày 16 tháng 5 năm 1916
và Tuyên cáo Balfour ngày 12 tháng 11 năm 1917. Theo
thỏa thuận, Pháp được ủy nhiệm quản lý Syria còn Anh được ủy nhiệm quản lý vùng Lưỡng Hà và Palestine, đường biên giới sẽ được các
cường quốc tham gia đàm phán xác lập.
Trong cuộc họp ở Cairo và Jerusalem giữa Winston
Churchill và
hoàng tử Abdullah (sau là vua Abdullah đệ nhất của Jordan) tháng 3 năm 1921, họ
đồng ý Abdullah sẽ cai quản lãnh thổ Transjordan (trong vòng 6 tháng) để đại
diện cho phía Palestine.
Tới mùa hè năm 1921, vùng Transjordan vẫn còn nằm trong Lãnh thổ
ủy trị, nhưng không nằm trong các điều khoản về Quê hương
cho người Do thái. Ngày
24 tháng 7 năm 1922, Hội quốc liên chấp
thuận các điều khoản về việc ủy nhiệm cho Anh các vùng đất Palestine và
Transjordan. Ngày 16 tháng 9, Hội quốc liên chính thức phê chuẩn bản ghi nhớ
của Huân tước Balfour, xác nhận ngoại trừ Transjordan trong các điều khoản về
việc thành lập một quốc gia cho người Do thái.
Tới năm 1922, dân
cư Palestine bao gồm khoảng 589.200 người Hồi giáo,
83.800 người Do Thái,
71.500 người Thiên chúa giáo và
7.600 người khác (thống kê năm 1922 ).
Tuy
nhiên, tại vùng này diễn ra một cuộc di cư lớn của người Do thái (đa phần chạy
tị nạn khỏi sự truy bức tại châu Âu). Cuộc chạy tị nạn và lời kêu gọi thành lập
quốc gia Do thái gây nên phản ứng quyết liệt từ phía dân cư Ả rập bản địa, vì
người Ả rập đồn là người Do thái âm mưu nô dịch người Ả rập và trục xuất dân cư
bản địa không phải là Do thái.
Dưới sự lãnh đạo của Amin al-Husayni, đại
Giáo trưởng Hồi giáo ở Jerusalem, người
Ả rập nổi lên chống lại người Anh và liên tục tấn công dân cư Do thái. Các cuộc
tấn công lẻ tẻ bắt đầu từ cuộc nổi loạn của người Ả rập năm 1920 và cuộc nổi
dậy ở Jaffa năm 1921. Trong cuộc nổi dậy năm 1929, 67 người Do thái bị giết tại Hebron, những
người sống sót được nhà chức trách Anh di tản.
Cuộc nổi
dậy của người Ả rập (1936–1939) và hệ quả
Cuối những năm 1920, đầu 1930, một số đảng phái của người Palestine trở nên mất kiên nhẫn với
tình trạng bè phái, mất đoàn kết trong cộng đồng, cũng như sự bất lực của tầng
lớp lãnh đạo người Palestine, nên bắt đầu một phong trào bài Anh và bài Do thái
của giới bình dân, lãnh đạo bởi những đảng như Hội Thanh niên Hồi giáo. Họ cũng
tổ chức tẩy chay và bất hợp tác theo hình mẫu Ấn Độ. Hầu hết những phong trào
mới khởi phát này đều bị dập tắt bởi giới nhân sỹ địa phương hoạt động cho bộ
máy chính quyền Anh, đặc biệt là "giáo trưởng Hồi giáo" và người bà
con của ông là Jamal al-Husayni. Cái
chết của nhà truyền giáo Izz ad-Din al-Qassam bởi tay của cảnh sát Anh tại Jenin tháng
11 năm 1935 làm cho người Hồi giáo đặc biệt tức giận. Một đám đông lớn đưa tiễn
thi thể ông đi mai táng tại Haifa. Vài
tháng sau, một cuộc tổng bãi công do người Ả rập khởi xướng đồng loạt diễn ra
và kéo dài cho đến tháng 10 năm 1936. Trong mùa hè năm đó, hàng ngàn mẫu ruộng
và vườn cây của người Do thái bị chặt phá, người Do thái bị tấn công và bị giết
hại, khiến cho một số cộng đồng Do thái, như ở Beisan và Acre, phải bỏ chạy
lánh nạn.
Tiếp theo cuộc tổng bãi công, cùng với khuyến nghị của phái đoàn
Peel chia vùng này thành một tiểu quốc Do thái và một quốc gia Ả rập thống nhất
với Jordan, một
cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ ra trên toàn lãnh thổ. Trong vòng 18 tháng tiếp
theo, người Anh mất quyền kiểm soát Jerusalem, Nablus, và
Hebron. Trong khoảng thời gian từ 1936–1939, quân Anh, được hỗ trợ bởi 6.000
cảnh sát Do thái vũ trang, đàn
áp cuộc nổi dậy của người Ả rập. Kết quả là có 5.000 người Ả rập bị chết và
10.000 người bị thương. Tổng cộng, 10 phần trăm số đàn ông Ả rập trưởng thành
bị chết, bị thương, bị bắt giữ hay phải bỏ trốn. Cộng đồng Do thái có 400 người
chết, còn chính quyền Anh mất 200 người.
Một diễn biến quan trọng trong thời kỳ này, là việc viên sĩ quan
cao cấp của Anh Charles Orde Wingate, (người ủng hộ chủ trương tái lập quốc gia
cho người Do thái),
thành lập Đội đặc nhiệm đêm gồm thành viên của Haganah, chỉ huy bởi sĩ quan
Anh, và đã giành được nhưng "thắng lợi quan trọng chống lại quân nổi loạn
Ả rập tại vùng hạ Galilee và Thung lũng Jezreel", bằng
cách đột kích vào các làng Ả rập. Haganah huy động đến 20.000 cảnh sát, quân dã
chiến và các đội tuần tra đêm. Cũng phải kể đến việc từ năm 1936 đến năm 1945,
đồng thời với việc hợp tác với Tổng bộ Do thái, chính quyền Anh tịch thu 13.200
súng từ người Ả rập, và 521 súng từ người Do thái.
Cuộc tấn công của người Ả rập vào cộng đồng dân cư Do thái có 3
hệ quả lâu dài: thứ nhất, người Do thái phát triển rộng thêm lực lượng dân quân
bí mật, chủ yếu là Haganah ("Lực lượng phòng vệ"), mà sau
này là nhân tố quyết định chiến thắng năm 1948. Thứ nhì là các cuộc tấn công
làm người ta càng tin tưởng là hai cộng đồng này không thể chung sống hòa bình,
nên ý tưởng phân chia lãnh thổ nảy sinh. Thứ ba là người Anh đối phó với sự
chống đối của người Ả rập bằng cách phát hành sách trắng (trong đó công bố
chính sách của chính quyền Anh) hạn chế ngặt nghèo người Do thái di cư. Tuy
nhiên, với Chiến tranh thế giới thứ hai hiển hiện trước mắt, ngay cả số quota
di cư hạn chế này cũng không thể nào đạt được. Sách trắng khiến cho một bộ phận
người Do thái trở nên cực đoan, quyết không hợp tác với người Anh, sau khi Đại
chiến thế giới kết thúc.
Bộ máy
chính quyền Anh và việc huấn luyện quân sự cho người Do thái và Ả rập
Từ năm 1936 trở đi, chính quyền Anh tạo điều kiện huấn luyện,
trang bị và tuyển mộ một loạt lực lượng an ninh và cơ sở tình báo hợp tác với Tổng bộ Do thái (tức chính quyền Do thái thời kỳ tiền lập
quốc). Trong số đó phải kể đến lực lượng "Vệ binh", bao gồm từ 6.000
đến 14.000 Cảnh sát trù bị Do thái, 6.000
đến 8.000 Cảnh sát Định cư tinh nhuệ và Đội đặc nhiệm ban đêm, tiền
thân của đơn vị Đặc nhiệm đường không của Anh. Ngoài
ra còn có lực lượng xung kích tinh nhuệ FOSH, tức Đại đội dã chiến, với
khoảng 1.500 thành viên để thay thế lực lượng HISH (tức "Lực lượng dã
chiến") đông đảo hơn vào năm 1939. Cơ
quan SHAI, tức cục tình báo và chống phản gián của Haganah, là
tiền thân của Mossad (cơ quan tình báo Israel sau này).
Chính quyền Anh cũng tuyển mộ chừng 6.000 người Ả rập Palestine
trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai và 1.700 người khác được tuyển vào
lực lượng cảnh sát biên giới Liên-Jordan, hay T.J.F.F.. Thêm
vào đó, người Anh cung cấp sĩ quan cho đạo quân Lê Dương Ả rập của Jordan, và
cấp cho quân đội Ai Cập xe tải, súng trường và phi cơ.
Người Anh như vậy rất nghịch lý là đã trang bị cho cả
hai phe trong cuộc xung đột sắp nổ ra.
Chiến tranh thế giới thứ
hai
Ngày 6 tháng 8 năm 1940, Anthony
Eden, Bộ trưởng Chiến tranh của Anh, thông báo cho Quốc hội Anh là
Chính phủ đã quyết định tuyển mộ người Ả rập và Do thái vào các tiểu đoàn Royal East Kent Regiment (còn gọi là the "Buffs").
Trong buổi ăn trưa với tiến sĩ Chaim
Weizmann (lãnh
tụ người Do thái) ngày 3 tháng 9, Winston
Churchill chấp
thuận việc tuyển mộ trên quy mô lớn người Do thái sống trong vùng lãnh thổ Ủy
nhiệm của Anh tại Palestine và huấn luyện sĩ quan Do thái.
Hơn 10 ngàn người khác (trong đó không quá 3 ngàn người từ
Palestine) sẽ được tuyển mộ và huấn luyện tại Anh.
Đối mặt với đà tiến công của Nguyên soái Đức Rommel ở Ai Cập, người Anh quyết định cho 10.000
binh lính Do thái "Buffs" vốn phân thành từng đại đội thống nhất
thành các đơn vị ở mức tiểu đoàn, đồng thời động viên thêm 10.000 binh lính nữa, cùng với 6.000 Cảnh sát trù bị và
từ 40.000 cho đến 50.000 vệ binh. Kế hoạch được phê chuẩn bởi Nguyên soái John
Dill. Lực lượng tác chiến đặc biệt (SOE) ở Cairo chấp
nhận đề nghị của Haganah tiến hành các hoạt động du kích ở miền bắc Palestine
do bộ phận Palmach của Haganah thực hiện, để bảo vệ lãnh thổ,
đồng thời từ đó đột kích các tuyến liên lạc và tiếp tế của Đức quốc xã, nếu
cần.
Tình báo Anh cũng huấn luyện một mạng lưới thông tin viên sử dụng radio
dưới quyền Moshe
Dayan để
chuẩn bị hoạt động gián điệp chống quân chiếm đóng Đức
Sau nhiều lần do dự, ngày 3 tháng 7 năm 1944, chính phủ Anh đồng ý thành lập Lữ đoàn Do thái, với các sĩ
quan gồm cả Do thái và không phải Do thái được tuyển chọn kỹ càng.
Ngày 20 tháng
9 năm 1944, một sĩ quan thông tin thuộc Văn phòng chiến tranh thông báo
việc thành lập Cụm Lữ đoàn Do thái trong Quân đội Anh.
Lá cờ Zion của người Do
thái được chính thức chấp nhận làm chiến kỳ của Lữ đoàn. Lực lượng này bao gồm hơn
5.000 quân tình nguyện Do thái từ Palestine, chia làm ba tiểu đoàn bộ binh và
một số đơn vị hỗ trợ.
Ngay khi chiến tranh kết thúc, người Anh quay ngoắt lại với
chính sách thực hiện trước chiến tranh. Họ tịch thu vũ khí, và một số thành viên
của Haganah bị bắt và bị đưa ra tòa, trong đó phải kể đến trường hợp Eliahu
Sacharoff, bị kết án 7 năm tù chỉ vì sở hữu 2 viên đạn nhiều hơn so với giấy
phép.g
Bản đồ phân
chia Palestine của Liên hiệp quốc
Kế hoạch
phân chia lãnh thổ của Liên Hiệp Quốc
Ngày 29 tháng
11 năm 1947, Đại hội đồng Liên hiệp quốc chấp thuận nghị quyết số 181, giải
quyết cuộc xung đột Ả rập-Do thái bằng cách phân chia Palestine thành hai quốc
gia, Do thái và Ả rập.
Mỗi quốc gia sẽ bao gồm 3 vùng lãnh thổ chính, liên kết
bởi các dải lãnh thổ đặc quyền hẹp; người Ả rập cũng sẽ được vùng đất Jaffa nằm lọt
trong lãnh thổ của người Do thái.
Với chừng 32% dân số, người Do thái sẽ được
56% lãnh thổ, trong đó có 499.000 người Do thái và 438.000 người Palestine cư
ngụ, mặc dù phần lãnh thổ này tính cả hoang mạc Negev ở phía nam. Người
Palestine được 42% lãnh thổ, với dân cư gồm 818.000 người Palestine và 10.000
người Do thái. Vì tính chất tôn giáo thiêng liêng của Jerusalem, nên
vùng này, bao gồm cả Bethlehem, với
100.000 dân Do thái và cũng khoảng chừng ấy dân Ả rập sẽ được quản trị bởi Liên
hiệp quốc.
Jerusalem
Bản đồ chỉ vị
trí thành phố Bethlehem
Mặc dù một số người Do thái chỉ trích kế hoạch này, bản nghị quyết
được đông đảo nhân dân Do thái ủng hộ. Ban lãnh đạo Zion chấp nhận nghị quyết
như là "sự cần thiết tối thiểu", vui
mừng là họ nhận được sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế, dù rằng họ vẫn lấy làm
tiếc là họ không được chia nhiều lãnh thổ hơn.
Cho rằng kế hoạch phân chia không công bằng với người Ả rập, khi
tính đến tỷ trọng dân cư, đại diện của người Ả rập Palestine và Liên đoàn Ả rập
chống đối quyết liệt kế hoạch của Liên hiệp quốc, thậm chí bác bỏ quyền của
Liên hiệp quốc can thiệp vào cuộc xung đột.
Họ
nhất định cho rằng "quyền cai quản Palestine phải thuộc về cư dân của nó,
theo các điều khoản Hiến chương Liên hiệp quốc". Theo Điều 73b của Hiến chương, Liên hiệp quốc phải dựng
lên chính quyền tự quản của chính dân cư sống trong lãnh thổ.
Nội chiến
1947–1948 trong vùng đất ủy trị
Ngay sau khi Liên hợp quốc chấp thuận kế hoạch phân chia, cộng
đồng Do thái như vỡ tung lên vì hoan hỉ, trong khi cộng đồng Ả rập tỏ ra hết
sức bất mãn. Chẳng bao lâu sau, xung đột nổ ra và ngày càng lan rộng, chém
giết, báo thù và phản báo trả thù nối tiếp nhau, khiến cho hàng chục người ở cả
hai phe thiệt mạng.
Trong khoảng thời gian từ tháng 12 năm 1947 cho tới hết tháng 1
năm 1948, ước tính có khoảng 1000 người bị giết và 2000 người bị thương. Tới
cuối tháng 3, thương vong đã lên tới 2000 người chết và 4000 người bị thương, tương
đương với khoảng 100 người chết và 200 người bị thương mỗi tuần, với dân số chỉ
vỏn vẹn 2 triệu người.
Từ tháng 1 trở đi, các hoạt động ngày càng mang tính quân sự,
với hàng trung đoàn Quân giải phóng Ả rập can thiệp vào phía người Palestine,
bố trí quanh một số thị trấn ven biển cũng như củng cố các vùng Galilee và Samaria. Abd al-Qadir al-Husayni cũng đến từ Ai Cập tham chiến với vài trăm
thành viên của Quân đội thánh chiến.
Map of the Galilee region
Sau khi tuyển mộ được vài ngàn quân tình nguyện, al-Husayni tổ
chức phong tỏa 100.000 cư dân Do thái ở Jerusalem. Để
đáp lại, ban lãnh đạo Yishuv tìm cách tiếp tế cho thành phố với đoàn xe tiếp
viện lên tới 100 xe bọc thép, nhưng chiến dịch tiếp viện ngày càng trở nên
thiếu thực tế, vì càng ngày càng có nhiều người bị giết trong chiến dịch tiếp
tế. Tới tháng 3, chiến thuật của Al-Hussayni mang lại thành công, hầu hết đoàn
xe tiếp tế bị phá hủy, cuộc phong tỏa trở nên toàn diện, và hàng trăm thành
viên Haganah tham gia cứu viện thành phố bị giết. Tình
hình những người bị kẹt lại trong các khu Do thái ở vùng hoang mạc Negev và miền
bắc trở nên khốn quẫn.
The Negev (Hebrew: הַנֶּגֶב, Tiberian vocalization: han-Néḡeḇ ; Arabic: النقب an-Naqab) is a desert and semidesert region of
southern Israel.
Vì những người Do thái được chỉ thị phải bám trụ bằng mọi giá, tình
hình bất ổn trên toàn quốc ảnh hưởng đến người Ả rập còn nặng nề hơn, chừng 100.000
Palestine, chủ yếu là những người ở tầng lớp trung lưu khá giá, chạy ra nước
ngoài hoặc chuyển đến Samaria để tránh chiến tranh.
Tình hình này buộc nước Mỹ phải xem xét lại sự ủng hộ mà họ dành
cho kế hoạch Phân chia, làm cho Liên đoàn Ả rập tin rằng, người Palestine, với
sự hỗ trợ của Quân giải phóng Ẩ rập, có thể phá hỏng kế hoạch Phân chia. Mặc
khác, người Anh lại ra quyết định ngày 17 tháng 2 năm 1948 ủng hộ
việc sát nhập các lãnh thổ Ả rập vào Jordan.
Thủ lĩnh người Do thái Ben-Gurion tái tổ chức Haganah, ban
hành nghĩa vụ quân sự bắt buộc, tất cả phụ nữ và đàn ông đều phải tham gia huấn
luyện quân sự.
David Ben-Gurion (Hebrew: דָּוִד
בֶּן-גּוּרִיּוֹן; pronounced [daˈvɪd ben gurˈjo:n] ( listen), born David Grün; 16 October 1886 – 1 December
1973) was the primary national founder of the State of Israel and the first Prime Minister of Israel.
Nhờ vào nguồn tài chính do Golda
Meir quyên
góp được từ những cảm tình viên ở Mỹ, và sự hỗ trợ của Stalin cho phong trào Zion, đại diện Do thái ký
được những hợp đồng mua vũ khí quan trọng.
Golda Meir[nb 1] (born Golda
Mabovitch, Голда Мабович; Golda Meyerson/Myerson May 3,
1898 – December 8, 1978) was an Israeli teacher, kibbutznik, stateswoman, politician and the fourth Prime Minister of Israel.
Các nhân viên Haganah thu mua vũ khí tồn kho từ thời Chiến tranh thế
giới thứ hai để góp phần trang bị cho quân đội. Cuối tháng ba, lần đầu tiên họ
tiến hành chiến dịch Balak để chuyển vũ khí và trang thiết bị về Palestine.
Haganah (Hebrew: הַהֲגָנָה, lit. The Defence) was a Jewish paramilitaryorganization
in the British Mandate of Palestine (1921–48), which became the core of the Israel Defense Forces (IDF).
Ben-Gurion cũng giao nhiệm vụ cho Yigal Yadin lên kế hoạch đối phó trong trường hợp các
quốc gia Ả rập can thiệp vũ trang. Kết quả là kế hoạch Dalet ra đời và được đưa
vào thực hiện kể từ tháng 4, mà với kế hoạch đó, kể từ giai đoạn thứ hai của
cuộc chiến, Haganah chuyển từ thế phòng ngự sang phản công.
Chiến dịch đầu tiên, mật danh Nachshon, bao
gồm việc phá vỡ cuộc phong tỏa Jerusalem. Một
ngàn năm trăm chiến sĩ lữ đoàn Guivati thuộc Haganah và lữ đoàn Harel thuộc Palmach tham gia chiến dịch mở đường từ ngày 5 tháng 4 tới ngày 20 tháng
4. Chiến dịch thành công với khoảng hai tháng lương thực được
chuyển tới Jerusalem để phân phát cho dân chúngThành
công của chiến dịch càng lớn bởi Al-Hassayni bị chết trận. Cùng thời gian, binh sĩ thuộc Irgun và Lehi (ngoài
vòng kiểm soát của Haganah) tiến hành thảm sát hơn một trăm người Ả rập, đa
phần là dân thường tại Deir Yassin, gây chấn động cộng đồng Ả rập, khiến cho
các thủ lĩnh Do thái phải lo ngại và lên tiếng chỉ trích
Cũng trong thời gian đó, chiến dịch lớn đầu tiên của Quân giải
phóng Ả rập bị "thất bại thảm hại", vì bị đánh tơi tả tại Mishmar
Ha'emek, và
còn bị đồng minh là bộ tộc người Druze đào ngũ bỏ sang phe Do thái.
Theo kế hoạch Dalet, các lực lượng Haganah, Palmach và Irgun tiến
chiếm các khu vực dân cư hỗn hợp Ả rập-Do thái. Các thành phố Tiberias, Haifa, Safed, Beisan, Jaffa và Acre lần lượt thất thủ, khiến cho hơn 250.000
người Palestine phải chạy tị nạn.
Cùng thời gian, người Anh về cơ bản đã rút quân, tình hình khiến
cho lãnh đạo các quốc gia Ẩ rập phải can thiệp, nhưng họ chưa hoàn toàn sẵn
sàng, và không thể tập trung kịp lực lược cần thiết để đảo ngược tình hình
chiến sự. Đa phần người Palestine kỳ vọng vào đạo quân Lê Dương Ả rập của vua
Jordan là Abdullah I, nhưng ông không muốn tạo ra một quốc gia của người
Palestine, mà chỉ muốn sát nhập lãnh thổ ủy nhiệm Palestine vào Jordan, nên
tiến hành bắt cá hai tay, giữ liên lạc với cả ban lãnh đạo người Do thái và
Liên đoàn Ẩ rập.
Để chuẩn bị phản công, Haganah mở chiến dịch Yiftah và Ben-'Ami để củng cố các khu định cư Do thái tại Galilee, và
chiến dịch Kilshon, thiết lập một mặt trận liên tục quanh Jerusalem.
Bà Golda
Meir và vua
Abdullah I gặp mặt ngày 10 tháng 5 để thảo luận, nhưng cuộc họp không mang lại
kết quả cụ thể gì, mà cả những thỏa thuận trước đó cũng không được xác lập lại.
Ngày 13 tháng 5, quân Lê Dương Ả rập, được dân quân hỗ trợ, tấn công và đánh
chiếm Kfar Etzion. Trong
tổng số 131 người Do thái tham gia phòng thủ có 127 người tử trận, quân Ả rập
tàn sát hết số người sống sót bị bắt làm tù binh.
Ngày 14 tháng 5 năm 1948, David
Ben-Gurion tuyên
bố quốc gia độc lập Israel ra đời, ngày hôm sau quân đội các quốc gia Ả rập can
thiệp, cuộc chiến tranh 1948 bước vào giai đoạn hai.
Lực lượng tham chiến
ban đầu
Đánh giá
lực lượng
Benny Morris cho rằng, dù người Ả rập "e ngại một
cách có lý" khả năng quân sự của người Do thái, họ vẫn tin rằng trong vòng
vài thập niên, hoặc vài thế kỷ, "người Do thái, cũng như các vương quốc Thập tự chinh, cuối cùng cũng sẽ bị thế giới
Ả rập đè bẹp".
Vào thời điểm trước khi chiến tranh bùng nổ, khối Ả rập dường
như sẽ huy động khoảng 23.000 binh lính (10.000 quân Ai Cập, 4.500 quân Jordan,
3.000 quân Iraq, 3.000 quân Syria, 2.000 quân tình nguyện Quân giải phóng Ả rập
ALA, 1.000 quân Liban và một số quân Ả rập Saudi, cộng với lực lượng dân quân
Palestine tại chỗ. Lực lượng Yishuv Do thái bao gồm 35.000 quân thuộc Haganah,
3.000 người của Stern và Irgun cộng với vài ngàn người định cư có vũ trang.
Dù rằng dân số Israel nhỏ hơn rất nhiều lần so với dân số các
quốc gia Ả rập tham chiến, nhưng người Do thái chiến đấu vì sự tồn vong của
chính mình, cộng với tổ chức hợp lý và ban lãnh đạo thống nhất nên đã có thể
tập trung cao độ sức người sức của cho cuộc chiến. Các quốc gia Ả rập tham
chiến để giúp đỡ người Ả rập Palestine không có sự phối hợp hành động, mục tiêu
và quyền lợi không phù hợp nhau, thiếu một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy họ chiến
đấu như người Do thái nên khi điều kiện trở nên bất lợi thì tinh thần chiến đấu
nhanh chóng sa sút. Hơn thế nữa, phe Ả rập thiếu sự chuẩn bị chu đáo, nên dù
được tăng viện rất đáng kể thì càng về sau tương quan lực lượng càng sút kém so
với người Israel. Người Israel nhận được sự tiếp trợ quân sự hữu hiệu từ cộng
đồng Israel hải ngoại, cộng với đoàn người tị nạn Do thái tiếp tục đổ về
Palestine, đa phần trong số đó là những người sống sót sau cuộc diệt chủng
trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nên tinh thần quyết chiến rất cao vì họ
không còn đường lùi nữa.
Lực lượng
Yishuv
Tới tháng 11 năm 1947, Haganah từ một lực lượng dân quân bán vũ
trang đã trở thành một tổ chức quân đội quốc gia được tổ chức chặt chẽ. Lực
lượng này gồm có một cánh quân cơ động gọi là HISH, với 2.000 chiến binh thường
trực cả nam lẫn nữ và 10 ngàn quân dự bị, tuổi từ 18 đến 25, cùng một lực lượng
tinh nhuệ Palmach, bao
gồm khoảng 2.100 chiến binh và một ngàn quân dự bị. Quân dự bị được huấn luyện
khoảng 3-4 ngày một tháng, còn lại thì sinh hoạt như dân thường. Lực lượng cơ
động có thể nhận hỗ trợ từ lực lượng đồn trú HIM (Heil Mishmar, hay lực lượng vệ binh), bao
gồm những người tuổi ngoài 25. Tổng cộng Yishuv có khoảng 35.000 quân với từ
15.000 cho tới 18.000 chiến binh và 20.000 binh sĩ đóng trong doanh trại.. Hai
tổ chức bí mật Irgun và Lehi có
khoảng từ 2.000–4.000 và 500–800 thành viên. Có vài ngàn người đã từng phục vụ
trong quân đội Anh thời Chiến tranh thế giới thứ hai, dù không phải là thành
viên của bất kỳ tổ chức bí mật nào, nhưng sẽ đóng góp kinh nghiệm quân sự quan
trọng cho cuộc chiến Walid Khalidi cho rằng Yishuv còn có lực
lượng Cảnh sát định cư Do thái, khoảng 12.000 người, các tiểu đoàn Thanh niên
Gadna, và người định cư vũ trang. Chỉ
có rất ít trong số các đơn vị kể trên được huấn luyện quân sự trước thời điểm
tháng 12 năm 1947.
Năm 1946, Ben-Gurion quyết định là lực lượng Yishuv phải tự bảo
vệ lấy mình trong trường hợp cả người Ả rập Palestine và các quốc gia Ả rập
láng giềng tiến hành một "chiến dịch thu mua vũ khí quy mô lớn tại các
nước phương Tây". Tới tháng 9 năm 1947 Haganah có "10.489 súng
trường, 702 súng máy hạng nhẹ, 2.666 tiểu liên, 186 súng máy hạng trung, 672
cối cỡ nòng 50mm và 92 cối cỡ nòng 76 mm", và còn mua được thêm nhiều vũ
khí khác trong vòng vài tháng đầu nổ ra chiến sự. Lực lượng Yishuv cũng có
"cơ sở sản xuất vũ khí tương đối tân tiến", và trong khoảng thời gian
từ tháng 10 năm 1947 đến tháng 7 năm 1948 "sản xuất được 3 triệu viên đạn
súng trường, 150.000 lựu đạn, 16.000 súng tiểu liên Sten và 210 quả đạn cối
76mm". Thoạt
đầu, Haganah không có súng máy hạng nặng, xe bọc thép, vũ khí chống tăng hay
pháo phòng không, cũng như không có xe tăng và máy bay chiến đấu.
Người ta không nhất trí được về số lượng vũ khí Yishuv sở hữu
khi chế độ ủy nhiệm chấm dứt. Theo Karsh, trước khi chuyến hàng vũ khí từ Tiệp Khắc chuyển đến, cứ 3 chiến sĩ thì chỉ có một
khẩu súng, và thậm chí với lực lượng Palmach, cứ 3 chiến sĩ thì chỉ có hai súng. Theo
Collins và LaPierre, tới tháng 4 năm 1948, Haganah có trong tay 20.000 súng
trường và tiểu liên Sten cho 35.000 binh sĩ trên danh sách, còn
theo Walid Khalidi thì "các lực lượng trên có thừa vũ khí".
Lực lượng
Ả rập
Cộng đồng Ả rập không có một lực lượng quân sự thống nhất trên
toàn quốc, mà có hai tổ chức thanh niên bán vũ trang, lực lượng thân Husayni Futuwa và lực lượng chống Husayni Najjada ("quân đoàn trù bị"). Theo Karsh,
các nhóm trên có khoảng 11.000–12.000 thành viên, nhưng
theo Morris thì Najjada với đại bản doanh đặt tại Jaffa và có từ 2.000–3.000
thành viên, đã bị tan rã trong thời kỳ trước khi chiến tranh 1948 nổ ra, khi
Husayni tìm cách giành lấy quyền kiểm soát tổ chức này, còn lực lượng Futuwa
chưa bao giờ đông hơn vài trăm người Khi chiến sự bùng nổ, các nhóm dân quân địa
phương mọc ra như nấm ở các thành phố và thị trấn, dưới quyền Hội đồng Quốc gia
Ả rập địa phương.
Tháng 12, Abd al-Qadir Husseini đến Jerusalem với vài trăm quân
được huấn luyện ở Syria làm hạt nhân cho đạo quân Thánh chiến Hồi giáo. Lực
lượng của ông đa phát triển với hàng trăm thành viên mới là thanh niên từ các
làng xung quanh và một số cựu binh phục vụ trong quân đội Anh.
Trang bị của lực lượng Palestine khá nghèo nàn, người Anh đã
tịch thu phần lớn vũ khí của họ trong cuộc nổi dậy 1936–39 và Chiến tranh thế
giới thứ hai Một báo cáo năm 1942 của tình báo Haganah
ước tính số lượng vũ khí nằm trong tay người Palestine vào khoảng 50 ngàn khẩu
súng, nhưng có lẽ đây chỉ là con số phóng đại.
Quân giải phóng Ả rập (Jaysh al-Inqadh al-Arabi) được
Liên đoàn Ả rập thành lập với lực lượng gồm khoảng 6.000 quân tình nguyện, chỉ
huy bởi Fawzi al-Qawuqji, địa
bàn hoạt động theo kế hoạch là miền bắc Palestine, bao gồm cả Samaria.
Đạo quân Lê Dương Ả rập của Jordan được đanh giá là đơn vị tinh
nhuệ nhất của phe Ả rập. Họ được vũ trang, huấn luyện và chỉ huy bởi sĩ quan
Anh, gồm khoảng 8.000–12.000 người, chia làm bốn trung đoàn bộ binh/cơ giới hỗ
trợ bởi 40 pháo và 75 xe bọc thép. Tới tháng 1 năm 1948, họ được tăng cường
thêm 3.000 lính biên phòng Liên-Jordan. Quân
Lê Dương Ả rập tham chiến tháng 5 năm 1948 và chỉ đánh nhau ở các khu vực mà
vua Abdullah muốn sáp nhập vào Jordan: vùng Bờ Tây và Đông Jerusalem.
Năm 1948 quân đội Iraq gồm 21.000 người chia làm 12 lữ đoàn và
khoảng 100 máy bay Anh. Ban đầu, Iraq gửi 3.000 đến 5.000 quân tham chiến, bao gồm 4 lữ
đoàn bộ binh, một tiểu đoàn xe bọc thép và lực lượng hậu cần. Quân Iraq được
đặt dưới quyền điều động của Jordan Khi cuộc ngưng bắn đầu tiên diễn ra, quân
Iraq tăng lên 10.000 người. Quân
viễn chinh Iraq cao điểm lên tới từ 15.000 đến 18.000 người.
Các đơn vị Iraq đầu tiên đến Jordan tháng 4 năm 1948 dưới quyền
chỉ huy của tướng Nur ad-Din Mahmud. Ngày 15 tháng
5 công
binh Iraq xây cầu phao vượt sông Jordan và tấn công khu định cư Gesher nhưng không thành công. Sau thất bại đó
quân Iraq tiến về tam giác chiến lược Nablus-Jenin-Tulkarm, nhưng
bị đánh tổn thất nặng nề trong cuộc tấn công của người Do thái vào Jenin từ
ngày 3 tháng 6, nhưng
vẫn bám trụ lại được. Hoạt động quân sự của quân Iraq chấm dứt kể từ thời điểm
này
Năm 1948 Ai cập chỉ có thể tung ra được 40.000 quân, 80% thanh
niên trong độ tuổi quân dịch không đủ tiêu chuẩn để nhập ngũ, còn bộ máy hậu
cần còn sơ khai của Ai Cập chỉ có thể tiếp tế rất ít cho các đơn vị bộ binh
triển khai ngoài biên giới. Ban đầu, lực lượng viễn chinh 10.000 người được gửi
đến Palestine dưới quyền tướng Ahmed Ali al-Mwawi. Lực
lượng này bao gồm 5 tiểu đoàn bộ binh, một tiểu đoàn xe bọc thép được trang bị
xe tăng Mark IV và Matilda của Anh, một tiểu đoàn pháo binh 16 pháo 25 bảng, và
một tiểu đoàn 8 pháo sáu bảng, một tiểu đoàn súng máy hạng trung, cùng với lính
hậu cần. Không quân Ai Cập có hơn 30 máy bay Spitfire, 4 Hawker Hurricane và 20
C-47 Skytrain cải tiến thành máy bay ném bom. Cho tới cuộc ngưng bắn thứ hai,
Ai Cập đã có 20.000 quân, chia làm 13 tiểu đoàn, vũ trang bởi 135 xe tăng và 90
pháo.
Syria có 12.000 quân tham chiến khi chiến tranh nổ ra, chia làm
3 lữ đoàn bộ binh và một tiểu đoàn xe tăng. Không quân Syrian có 50 máy bay, 10
chiếc mới nhất trong số đó là những máy bay từ thế hệ Chiến tranh thế giới thứ
hai. Ngày 14 tháng
5 quân
Syria tràn vào Palestine với Lữ đoàn bộ binh số 1 hỗ trợ bởi một tiểu đoàn xe
bọc thép, một đại đội xe tăng R 35 và R 37 Pháp, một tiểu đoàn pháo binh và các
đơn vị khác. Trong ngày 15-16 họ tấn công làng Zemach, tới ngày 18 họ lại tấn công tiếp
và chiếm được làng, nhưng họ phải bỏ làng này sau khi quân Syrian bị đánh bại
tại Degania vài ngày sau. Tiếp đó, quân Syria giành
được thắng lợi tại Mishmar HaYarden ngày 10 tháng 6, rồi chuyển sang phòng ngự,
chỉ thỉnh thoảng tấn công vài khu định cư nhỏ, đơn lẻ của Israel
Quân Liban là đạo quân nhỏ nhất, chỉ gồm 3.500 người Theo Gelber, tháng 6 năm 1947 Ben-Gurion
"đạt được thỏa thuận với các giới chức tôn giáo Maronite (một nhánh Ky-tô
giáo ở Liban) để quân Liban không tham chiến". Một
lực lượng tượng trưng gồm 1.000 quân Liban vượt biên giới vào miền bắc Galilee
và bị quân Israeli đẩy lui rồi còn tiến chiếm một dải đất hẹp ở miền nam Liban
cho tới khi hiệp định ngưng bắn được ký kết.
Ả rập Saudi gửi chừng 800 lính–1.200 tham chiến cùng quân Ai Cập, Yemen cũng gửi
một đạo quân nhỏ tới tham chiến.
Chiến tranh Ả Rập-Israel
năm 1948
Giai đoạn
1: 14 tháng 5 tới 11 tháng 6 năm 1948
Chế độ ủy trị của Anh tại Palestine theo kế hoạch sẽ chấm dứt
vào ngày 15 tháng
5, nhưng ban lãnh đạo Do thái, cầm đầu bởi Thủ tướng tương lai David
Ben-Gurion, tuyên bố độc lập ngày 14 tháng
5 và được
Liên Xô, Mỹ và nhiều nước khác nhanh chóng công nhận ngay sau đó
Trong vòng vài ngày sau, chừng 1.000 quân Liban, 5.000 quân
Syria, 5.000 quân Iraq, 10.000 quân Ai Cập tấn công quốc gia Israel non trẻ.
Bốn ngàn quân Jordan tấn công "Khu vực phân cách", bao gồm Jerusalem
và vùng phụ cận, cũng như các khu vực thuộc về quốc gia Ả rập theo kế hoạch
phân chia của Liên hiệp quốc. Họ cũng nhận được hỗ trợ từ các đội quân tình
nguyện từ Ả rập Saudi, Libya và Yemen.
Trong bản điện tín chính thức từ Tổng thư ký liên đoàn Ả rập cho
Tổng thư ký Liên hiệp quốc ngày 15 tháng
5 năm 1948, các quốc gia Ả rập công khai tuyên bố mục tiêu của họ là thiết
lập một "quốc gia Palestin thống nhất" thay cho hai quốc gia Do thái
và Ả rập như kế hoạch của Liên hiệp quốc. Họ tuyên bố kế hoạch này vô giá trị,
vì bị người Ả rập chiếm đa số bác bỏ, đồng thời nhất mực cho là sự vắng mặt
chính quyền hợp pháp ở đây khiến cho việc can thiệp quân sự để bảo đảm an toàn
tính mạng và tài sản cho người Ả rập.
Israel, Mỹ và Liên Xô lên án các quốc gia Ả rập can thiệp vào
Palestine là hành động hiếu chiến bất hợp lệ, trong khi Tổng thư ký Liên Hiệp
Quốc Trygve
Lie gọi đó
là "hoạt động hiếu chiến đầu tiên mà thế giới chứng kiến kể từ khi Đại
chiến thế giới lần thứ hai kết thúc". Trong khi đó thì Trung Quốc lại ủng
hộ phía Ả rập. Cả hai phe tăng cường nhân lực trong những tháng tiếp theo,
nhưng Israel giành được ưu thế do việc tổng động viên và phần nào do dòng người
tị nạn Do thái tiếp tục đổ về Israel tới 10.000 người mỗi tháng.
Lực lượng Israel năm 1948
Lực lượng ban đầu |
29.677
4 tháng 6 |
40.825
17 tháng 7 |
63.586
7 tháng 10 |
88.033
28 tháng 10 |
92.275
2 tháng 12 |106.900
23 tháng 12 |107.652
30 tháng 12 |
108.300
Ngày 26 tháng
5 năm 1948, Lực lượng phòng vệ Israel (IDF) được chính thức thành lập;
Haganah, Palmach và Irgun giải tán và sát nhập vào quân đội nhà nước Do thái
non trẻ.
Cùng với sự phát triển chiến sự, IDF nỗ lực mở rộng lực lượng
lớn mạnh hơn lực lượng Ả rập tham chiến. Tới tháng 7 năm 1948, IDF đã có 63.000
quân, tới đầu mùa xuân năm 1949 là 115.000 quân. Lực lượng Ả rập có khoảng
40.000 quân vào tháng 7 năm 1948, tăng lên 55.000 vào tháng 10 năm 1948, và
nhiều hơn một chút vào mùa xuân năm 1949.
Tất cả cơ sở hàng không của người Do thái đều được đặt dưới sự
điều khiển của Sherut Avir ("Dịch vụ đường không", hay SA)
từ tháng 10 năm 1947. Đoàn bay Galilee được thành lập tại Yavne'el tháng 3 năm 1948 và đoàn bay Negev được
thành lập tại Nir-Am tháng 4. Ngày 10 tháng
5, SA đã có 3 phân đội máy bay, bộ chỉ huy không quân, cơ sở bảo
dưỡng và hậu cần. Khi giao tranh bùng nổ ngày 15 tháng
5, SA trở thành Không quân Israel -IAF, nhưng trong những tuần đầu của chiến
tranh, máy bay Israel bao gồm các phi cơ hạng nhẹ không phải là
đối thủ của không quân Ả rập với máy bay T-6, Spitfire, C-47 và Avro Anson.
Phần lớn tổn thất của không quân Ả rập là từ cuộc không tập của Ai Cập vào sân
bay cũ của người Ramat David gần Haifa ngày 22 tháng
5, với 5 máy bay Spitfire bị bắn rơi. Cũng trong thời kỳ đó, cán
cân không lực chuyển về IAF với việc Israel mua được 25 máy bay Avia
S-199 từ Tiệp
Khắc, tạo nên tình trạng nghịch lý là phi công Israel lái máy bay chế tạo theo
nguyên mẫu Đức Bf-109 đối đầu
với máy bay Spitfire của Anh do phi công Ai Cập lái. Cuộc không tập đầu tiên
vào một thủ đô của người Ả rập diễn ra đêm 31 tháng
5/ngày 1 tháng 6, khi 3
máy bay Israel ném bom Amman. Tới
mùa thu năm 1948, IDF giành được quyền làm chủ bầu trời, cũng như chiếm ưu thế
áp đảo về hỏa lực và đội phi công dày dặn kinh nghiệm, với rất nhiều người phục
vụ trong thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai.
Nhiệm vụ đầu tiên của IDF là chặn quân đội Ả rập, không cho phép
họ tàn phá các khu định cư Do thái, cho tới khi quân cứu viện và vũ khí được
chuyển đến.
Các cuộc giao tranh quyết liệt nhất diễn ra ở Jerusalem và trên
con đường nối Jerusalem và Tel Aviv, giữa quân Lê Dương Ả rập và lực lượng
Israel. Vua Abdullah hạ lệnh cho Glubb Pasha, chỉ huy quân Lê Dương Ả rập tiến
vào Jerusalem ngày 17 tháng
5, và các cuộc giao tranh quyết liệt giành giật từng căn nhà diễn
ra từ 19 tháng
5 tới 28 tháng
5, với kết quả là quân Lê Dương Ả rập giành được thắng lợi, đánh
bật lực lượng Israel khỏi khu Ả rập cũng như khu Do thái ở khu vực Thành phố
Cổ. Tất cả dân chúng Do thái ở Thành phố Cổ đều bị quân Jordan trục xuất. Quân
Iraq thất bại khi tấn công các khu định cư Do thái (đáng kể nhất là trận đánh
tại Mishmar HaEmek), nên chuyển sang phòng thủ quanh Jenin, Nablus, và Tulkarm.
Ngày 24 tháng 5 năm 1948, lực lượng IDF tại Latrun, bao gồm Lữ đoàn bọc thép số 7
và Lữ đoàn Alexandroni tấn công quân Lê Dương Ả rập trong chiến dịch
"Bin-Nun A", rồi tới ngày 1 tháng 6, lại tấn công tiếp, nhưng cả hai
cuộc tấn công đều thất bại và bị tổn thất nặng nề với 139 người bị giết.
Ở phía bắc, quân Syria có cả xe bọc thép bị chặn đứng ở kibbutz Degania bởi người định cư chỉ có vũ khí hạng nhẹ.
Một xe tăng bị đánh bất khiển dụng bởi chai xăng cháy Molotov, tới giờ vẫn còn
nằm lại ở kibbutz này. Sau đó, một cuộc pháo kích bởi các cỗ pháo cổ từ thế kỷ
19 khiến cho quân Syria phải tháo lui. Trong những tháng tiếp theo, quân Syria,
cũng như dân quân Palestine và quân ALA bị đẩy lùi.
Ở phía nam, quân Ai Cập mở cuộc tấn công và chọc thủng được
tuyến phòng thủ của một số kibbutz của người Do thái, nhưng bị tổn thất nặng,
và cuối cùng bị chặn lại ở gần Ashdod. Lực
lượng vũ trang Israel không những đã bảo toàn được các vùng đất nằm trong tay
mình, mà còn mở rộng các lãnh thổ kiểm soát được.
Cuộc ngưng bắn thứ nhất (11 tháng 6 tới 8 tháng 7 năm 1948)
Liên hiệp quốc tuyên bố ngưng bắn ngày 29 tháng
5, bắt đầu có hiệu lực từ ngày 11 tháng
6 và sẽ
kéo dài 28 ngày. Lệnh ngưng bắn được theo dõi bởi nhà thương thuyết của Liên
hiệp quốc là bá tước Thụy Điển Folke
Bernadotte. Một lệnh cấm vận vũ khí cũng được ban bố với dụng ý không cho
phép bên nào được lợi dụng lệnh ngưng bắn. Tới thời gian cuối cuộc ngưng bắn,
Bá tước Bernadotte đệ trình kế hoạch phân chia mới, theo đó vùng Galilee sẽ thuộc về người Do thái còn vùng Negev về
người Ả rập, nhưng cả hai phe đều bác bỏ kế hoạch này. Ngày 8 tháng 7, ngay
trước khi lệnh ngưng bắn hết hiệu lực, tướng Ai cập Naguib cho tái chiến bằng
cách tấn công Negba.
Giai đoạn
hai (8 tháng 7 tới 18 tháng 7 năm 1948)
Trong mười ngày giữa mùa hè năm 1948, giữa hai cuộc ngưng bắn,
người Israel tổ chức một loạt chiến dịch tấn công lớn, còn người Ả rập thì quay
ra phòng ngự. Chiến dịch Dani là chiến dịch quan trọng nhất, nhằm bảo vệ và mở
rộng hành lang nối liền Jerusalem và Tel Aviv bằng cách đánh chiếm các thị trấn
dọc theo hàng lang này là Lydda (sau
này đổi tên thành Lod) và Ramle. Sau khi các thị trấn này thất
thủ, 50.000 cư dân Ả rập bị buộc phải rời bỏ thị trấn, là cuộc chạy tị nạn lớn
nhất trong suốt cuộc chiến.
Trong giai đoạn hai của chiến dich, theo kế hoạch người Do thái
sẽ đánh chiếm vị trí chiến lược được phòng ngự cẩn mật Latrun, khống chế con đường Tel
Aviv-Jerusalem, và thành phố Ramallah, nhưng
chiến dịch này thất bại.
Chiến dịch thứ nhì là chiến dịch Dekel nhằm chiến vùng hạ
Galilee, bao gồm cả Nazareth. Kế
hoạch thứ ba, với lực lượng tham gia ít hơn, là chiến dịch Kedem với mục tiêu
đánh chiếm khu Thành cổ Jerusalem..
Chiến dịch Dani
Lod được bảo vệ phần lớn bởi quân đội Jordan,
nhưng lực lượng dân quân Palestine và Quân giải phóng Ẩ rập cũng có mặt. Thị
trấn bị tấn công từ phía bắc từ hướng Majdal al-Sadiq và al-Muzayri'a, và từ
phía đông từ hướng Khulda, al-Qubab, Jimzu và Danyal. Lần đầu tiên trong cuộc
chiến, máy bay ném bom được sử dụng để oanh kích thị trấn. Ngày 11 tháng
7 năm 1948 IDF
chiếm được thành phố. Ngày hôm sau, đến lượt Ramle cũng rơi vào tay người
Israel.
Ngày 15 tháng
7–16 tháng 7, người Israel tổ chức tấn công vào Latrun
nhưng không chiếm được thành phố. Một đơn vị thuộc lữ đoàn Yiftach, trang bị xe
bọc thép - trong đó có hai xe tăng Cromwell, liều lĩnh tấn công một lần nữa,
nhưng cũng bị thất bại. Mặc dù cuộc ngưng bắn lần thứ nhì bắt đầu từ ngày 18 tháng
7, người Israel tiếp tục nỗ lực nhằm đánh chiếm thành phố cho tới
ngày 20 tháng
7.
Chiến dịch Dekel
Trong khi chiến dịch Dani đang diễn ra ở miền trung, thì ở miền
bắc chiến dịch Dekel mở màn. Nazareth bị chiếm ngày 16 tháng
7, rồi sau khi cuộc ngưng bắn lần thứ nhì bắt đầu từ 19:00 ngày 18 tháng
7, toàn bộ miền hạ Galilee từ vịnh Haifa cho đến biển Galilee rơi
vào tay người Israel.
Chiến dịch Kedem
Theo kế hoạch ban đầu, chiến dịch nhằm chiếm Jerusalem sẽ diễn
ra vào ngày 8 tháng 7, ngay
sau cuộc ngưng bắn đầu tiên, do lực lượng Irgun và Lehi tiến hành. Tuy nhiên, David Shaltiel trì hoãn chiến dịch, có lẽ vì ông nghi ngờ
khả năng họ giành được thắng lợi nếu thiếu sự hỗ trợ từ Haganah, như trận thất
bại Deir Yassin.
Lực lượng Irgun được chỉ huy bởi Yehuda Lapidot (Nimrod) được lệnh đột phá từ "Cổng
mới", Lehi đột phá qua bức tường kéo dài từ "Cổng mới" đến Cổng
Jaffa, còn tiểu đoàn Beit Hiron thì tấn công từ núi Zion.
Trận chiến dự kiến bắt đầu từ ngày lễ Sabbath, lúc 20:00 giờ
ngày thứ sáu 16 tháng
7, một ngày trước cuộc ngưng bắn thứ hai. Chiến dịch bị trở ngại
ngay từ đầu, và phải hoãn lại, đầu tiên là tới 23:00 giờ, rồi sau đó là nửa
đêm. Mãi đến lúc 02:30 sáng trận đánh mới bắt đầu nổ ra. Binh lính của Irgun
đột phá được qua Cửa mới, nhưng các cánh quân khác đều không thực hiện được mục
tiêu, nên đến 05:45 sáng, Shaltiel hạ lệnh rút lui và ngưng bắn.
Cuộc
ngưng bắn thứ hai: 18 tháng 7 tới 15 tháng 10 năm 1948
Tới 19:00 giờ ngày 18 tháng
7, cuộc ngưng bắn thứ hai có hiệu lực sau những nỗ lực ngoại giao
căng thẳng của Liên hiệp quốc
Ngày 16 tháng
9, Bá tước Bernadotte đệ trình một bản kế hoạch mới theo đó
Jordan sẽ sát nhập các vùng đất Ả rập bao gồm Negev, al-Ramla, và Lydda. Quốc
gia Do thái mới sẽ bao gồm toàn bộ vùng Galilee, Jerusalem sẽ do cộng đồng quốc
tế quản lý, và người tị nạn sẽ được hồi hương hoặc được bồi thường. Kế hoạch
này lại bị cả hai phe bác bỏ. Ngày hôm sau, Bá tước Bernadotte bị nhóm Lehi ám
sát, và phó của ông là Ralph Bunche, người Mỹ, thay thế ông.
Giai đoạn
ba (15 tháng 10 năm 1948 tới 20 tháng 7 năm 1949)
Israel tổ chức tấn công
Từ ngày 15 tháng
10 tới
ngày 20 tháng
7 Israel
mở một loạt chiến dịch tấn công để đẩy lùi các đạo quân Ả rập và củng cố biên
giới của Israel.
Các trận đánh tháng 10 năm 1948
Ngày 24 tháng
10, IDF mở chiến dịch Hiram và đánh chiếm toàn bộ vùng Thượng Galilee,
đánh quân ALA và quân Liban lùi về Liban. Chiến dịch thành công mỹ mãn, và tới
cuối tháng, Israel không những giành được toàn bộ vùng Galilee mà còn tiến sâu
vào Liban 5 dặm (8,0 km) tới tận sông Litani.
Ngày 15 tháng
10 IDF mở chiến dịch Yoav ở phía bắc hoang mạc Negev với mục tiêu
chia cắt các cánh quân Ai cập dọc theo miền duyên hải và tuyến đường Beersheba-Hebron-Jerusalem,
nhằm chiếm lấy toàn bộ vùng Negev. Chỉ huy chiến dịch Yoav là chỉ huy Mặt trận
miền nam Yigal Allon. Chiến
dịch thành công rực rỡ, đánh tan tác hàng ngũ quân Ai cập, buộc quân Ai cập
phải rút khỏi miền bắc Negev, Beersheba và Ashdod. Ngày 22 tháng
10, đặc công của Hải quân Israeli đánh chìm kỳ hạm Ai Cập Amir Faruk.
Ngày 22 tháng
12, IDF đánh lùi các lực lượng Ai Cập còn lại khỏi lãnh thổ Israel
với chiến dịch Horev (còn gọi là chiến dịch Ayin). Mục tiêu chiến dịch nhằm
giải phóng toàn bộ miền Negev khỏi quân Ai Cập, loại trừ hiểm họa từ phía quân
Ai Cập khỏi sườn phía nam Israel và buộc Ai Cập phải chấp nhân một lệnh ngưng
bắn một khi toàn bộ hoang mạc Negev đã được giải phóng. Chiến dịch này mang lại
thắng lợi quyết định cho Israel, cùng với các cuộc đột kích của Israel vào Nitzana và bán đảo Sinai buộc
quân đội Ai Cập đang bị vây hãm ở dải Gaza phải chấp thuận rút lui và ngưng
bắn. Ngày 7 tháng 1, lệnh
tạm ngưng bắn được chấp thuận, quân Israel rút khỏi bán đảo Sinai và dải Gaza
do sức ép từ cộng đồng quốc tế.
Ngày 5 tháng 3, chiến dịch Uvda mở màn, tới ngày 10 tháng
3 quân
đội Israel đã tiến tới Umm Rashrash (sau này là Eilat) và chiếm được nó mà không phải nổ một phát súng. Các lữ đoàn
Negev và Golani tham gia chiến dịch dựng lá cờ Israel tô tạm bằng mực lên để
tuyên bố chủ quyền tại Umm Rashrash, đồng
thời cũng đánh dấu chiến tranh kết thúc.
Vũ khí
Cả hai bên sử dụng vũ khí tồn kho từ Đại chiến thế giới lần thứ
hai. Ai Cập sử dụng một số trang thiết bị của Anh, còn Syria sử dụng loại của
Pháp, Israel sử dụng vũ khí của Anh, Tiệp Khắc và Đức.
Type | Quân
đội Ả rập |
IDF
|(đặt dưới hầm và như ổ hỏa lực
cố định bởi |
| Automitrailleuses Dodge of
the Bich type, | Armoured Car/Truck,
| 1948-49,
65 mm mountain gun on |
French Howitzers "Napoleonchiks",
| 2-pounder
anti-tank gun, 6-pounder anti-tank|
Kết cục
Năm 1949, Israel ký các hiệp ước ngưng bắn riêng rẽ với Ai Cập
ngày 24 tháng 2,
Liban ngày 23 tháng 3,
ordan ngày 3 tháng 4, và
Syria ngày 20 tháng 7.
Biên giới mới của Israel, như theo thỏa thuận được ký kết, bao gồm chừng 78% lãnh thổ ủy nhiệm Palestine.
Tuy nhiên nếu tính đến lãnh thổ ủy nhiệm nguyên thủy của Anh (bao gồm cả Jordan cho tới mùa hè năm 1921), thì Israel chỉ chiếm 18% lãnh thổ Palestine và Jordan, (nhưng nhiều hơn kế hoạch phân chia của Liên hiệp quốc 50%).
Tuyến ngưng bắn về sau được biết đến với tên gọi "Tuyến xanh".
Dải Gaza và vùng Bờ Tây do Ai Cập và Jordan chiếm giữ.
Liban ngày 23 tháng 3,
ordan ngày 3 tháng 4, và
Syria ngày 20 tháng 7.
Biên giới mới của Israel, như theo thỏa thuận được ký kết, bao gồm chừng 78% lãnh thổ ủy nhiệm Palestine.
Tuy nhiên nếu tính đến lãnh thổ ủy nhiệm nguyên thủy của Anh (bao gồm cả Jordan cho tới mùa hè năm 1921), thì Israel chỉ chiếm 18% lãnh thổ Palestine và Jordan, (nhưng nhiều hơn kế hoạch phân chia của Liên hiệp quốc 50%).
Tuyến ngưng bắn về sau được biết đến với tên gọi "Tuyến xanh".
Dải Gaza và vùng Bờ Tây do Ai Cập và Jordan chiếm giữ.
Israel mất chừng 1% dân số trong cuộc chiến: 6.373 người thiệt
mạng, với 4.000 binh lính và số còn lại là thường dân. Không có số liệu chính
xác về thiệt hại của phía Ả rập, nhưng ước tính khoảng từ 10 đến 15 ngàn người
thiệt mạng.
Trong thời kỳ Nội chiến 1947-1948 tại lãnh thổ ủy trị và thời kỳ
chiến tranh Ả Rập - Israel, có chừng 750.000 người Palestine bỏ chạy hoặc bị
trục xuất.
Năm 1951 ủy ban Hòa giải của Liên Hiệp Quốc ước tính số người tị nạn Palestine rời bỏ Israel vào khoảng 711.000 người. Số này không bao gồm những người Palestine sống trong vùng lãnh thổ do Israel kiểm soát.
Danh sách các làng mạc bị bỏ hoang sau cuộc chiến gồm hơn 400 làng Ả Rập bị bỏ hoang, và khoảng 10 làng và khu phố Do thái.
Năm 1951 ủy ban Hòa giải của Liên Hiệp Quốc ước tính số người tị nạn Palestine rời bỏ Israel vào khoảng 711.000 người. Số này không bao gồm những người Palestine sống trong vùng lãnh thổ do Israel kiểm soát.
Danh sách các làng mạc bị bỏ hoang sau cuộc chiến gồm hơn 400 làng Ả Rập bị bỏ hoang, và khoảng 10 làng và khu phố Do thái.
Nguyên nhân cuộc di tản của người Palestine là vấn đề gây tranh
cãi trong giới sử gia, về việc các lãnh đạo Ả rập phải chịu bao nhiêu phần
trách nhiệm, (vì họ kêu gọi dân chúng di tản, hứa hẹn sẽ đưa người Ả rập trở
lại sau khi đã quét sạch người Do thái) và liệu cuộc di tản nằm trong kế hoạch
của ban lãnh đạo Yishuv hay chỉ là "kết quả của chiến tranh".
Vấn đề người tị nạn Palestine và cuộc tranh cãi quanh quyền hồi
hương của họ là một chủ đề lớn trong cuộc xung đột Ả rập-Israel. Người
Palestine hàng năm vẫn tổ chức biểu tình ngày 15 tháng 5, số lượng người tham
gia thay đổi hàng năm, dù rằng thời gian gầy đây, sau thất bại của cuộc hòa đàm
Trại David năm 2000, số người tham gia biểu tình phản đối Israel tăng lên.
Trong cuộc chiến, khoảng 10 ngàn người Do thái bị buộc phải rời
bỏ nhà cửa của họ, nhưng
trong vòng 3 năm sau cuộc chiến, khoảng 700.000 người định cư Do thái đến lập
nghiệp tại Israel, chủ yếu dọc theo vùng biên giới và các vùng đất vốn thuộc
người Ả Rập.
Khoảng 136.000 người trong số này nằm trong số 250.000 người Do thái phải tha hương sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Phần lớn số còn lại nằm trong số 758.000 cho đến 900.000 người Do thái sinh sống trong các quốc gia Ả rập phải rời bỏ nhà cửa do các cuộc tấn công của dân chúng nhằm vào người Do thái.
Khoảng 136.000 người trong số này nằm trong số 250.000 người Do thái phải tha hương sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Phần lớn số còn lại nằm trong số 758.000 cho đến 900.000 người Do thái sinh sống trong các quốc gia Ả rập phải rời bỏ nhà cửa do các cuộc tấn công của dân chúng nhằm vào người Do thái.
No comments:
Post a Comment