Cách nay đúng
52 năm, Tàu đỏ mở “Đại cách mạng văn hóa”
Ngày 16
tháng 05, 1966
·
1966 – Ủy
ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ban bố "Thông tri 16/5", Đại Cách mạng vǎn hoá vô sản bắt đầu tại Trung Quốc.
Cách mạng Văn hóa
Đại Cách mạng Văn hóa Giai cấp Vô sản (chữ Hán giản thể: 无产阶级文化大革命; chữ Hán phồn thể: 無產階級文化大革命; Bính âm: Wúchǎn
Jiējí Wénhuà Dà Gémìng; Hán-Việt: Vô sản Giai cấp Văn hóa Đại Cách
mạng; thường gọi tắt là Đại
Cách mạng Văn hóa 文化大革命 wénhuà
dà gémìng, hay vắn tắt hơn là Văn
Cách 文革, wéngé) là
một phong trào chính trị xã hội tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa diễn ra trong 10 năm từ tháng 5/1966 tới
tháng 10/1976, gây tác động rộng lớn và sâu sắc lên mọi mặt của cuộc sống chính
trị, văn hóa, xã hội ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nên cũng được
gọi là "10 năm hỗn loạn", "10 năm thảm họa" (tiếng Trung: 十年动乱, 十年浩劫, Thập niên động loạn, thập niên hạo kiếp). Ngoài ra, cuộc
cách mạng này đã làm thay đổi quan niệm xã hội, chính trị và đạo đức của quốc
gia này một cách sâu sắc và toàn diện.
Cultural Revolution propaganda poster. It depicts Mao
Zedong, above a group of soldiers from the People's Liberation Army. The caption says, "The Chinese People's
Liberation Army is the great school of Mao Zedong Thought."
Cuộc cách mạng này được Mao Trạch Đông khởi
xướng và lãnh đạo từ ngày 16 tháng 5 năm 1966, với mục tiêu chính thức là
"đấu tranh với giai cấp tư sản trong lĩnh vực tư tưởng và sử dụng những
tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay đổi diện mạo tinh thần của
toàn bộ xã hội". Tuy nhiên, mục đích chính của cách mạng này được một
số người cho là một cách để Mao Trạch Đông lấy lại quyền kiểm soát Đảng Cộng sản Trung Quốc sau cuộc Đại nhảy vọt bị thất
bại dẫn đến sự tổn thất quyền lực đáng kể của Mao Trạch Đông so với đối thủ
chính trị là Lưu Thiếu Kỳ và cũng
để loại bỏ những người bất đồng ý kiến như Đặng Tiểu Bình, Bành Đức Hoài,...
Lưu
Thiếu Kỳ
Đặng Tiểu Bình
năm 1979
Nguyên soái
Bành Đức Hoài
Dù Mao Trạch Đông tự tuyên bố chính thức là Văn cách kết thúc
năm 1969, ngày nay người ta vẫn cho rằng cuộc cách mạng này còn bao gồm cả giai
đoạn từ 1969 đến 1976 khi Tứ nhân bang (Giang
Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên) bị bắt giữ.
Giang Thanh (chữ Hán: 江青; bính âm: Jiang Qing; nghệ danh là Lam Bình; 1914–1991) là người
vợ thứ ba của Mao Trạch Đông, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân
Trung hoa.( Jiang Qing)
Trương Xuân Kiều (tiếng Trung giản thể: 张春桥; phồn thể: 張春橋; bính âm: Zhāng Chūnqiáo; Wade-Giles: Chang Ch'un-chiao)
(1917–21 tháng 4 năm 2005). Ông nguyên là ủy viên Bộ chính trị Đảng cộng sản Trung
Quốc một trong bốn người thuộc tứ nhân bang một thời gian dài làm bất ổn tình hình kinh tế, chính
trị Trung Quốc.( Zhang
Chunqiao)
Vương Hồng Văn (tháng 12 năm 1935-3 tháng 8 năm 1992) (tiếng Trung: 王洪文) là một
nhà chính trị, đảng viên Đảng Cộng sản Trung
Quốc. Ông là một trong 4 thành viên
của nhóm Tứ nhân bang trong thời kỳ Cách mạng văn hóa (1966-1976) của Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa.( Wang
Hongwen)
Diêu Văn Nguyên (chữ Hán: 姚文元; bính âm: Yáo Wényuán) (1931 – 23 tháng 12 năm 2005) (tiếng Trung: 姚文元) là một nhà
phê bình văn học và là một nhà chính trị, đảng viên Đảng Cộng sản Trung
Quốc.( Yao
Wenyuan)
Tổng cộng 1,5 đến 1,8 triệu người bị giết chết hay tự sát,
khoảng 20 triệu người bị đưa về nông thôn lao động cưỡng bức trong nhiều năm.
Khoảng 200 triệu người bị thiếu ăn thường xuyên.
Bối
cảnh
Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc được thành lập, Mao Trạch
Đông muốn áp dụng mô hình của Stalin để xây dựng đất nước. Mao Trạch Đông tin
rằng mô hình của Stalin là phương thức tiến hành cải tạo chủ nghĩa cộng sản tại
Trung Quốc.
Dưới thời kỳ Khrushchev lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu
phủ nhận mô hình của Stalin, còn được gọi chủ nghĩa xét lại. Mao Trạch Đông
chống lại chủ nghĩa hữu khuynh, mở rộng đấu tranh giai cấp, bác bỏ chủ nghĩa
xét lại về Stalin. Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra quan điểm Mao Trạch Đông
phát động Đại Cách mạng Văn hóa để bắt đầu ngăn chặn chủ nghĩa tư bản phục hồi,
duy trì Đảng trong sạch và tìm con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng chính
mình. Trong Đảng, Mao Trạch Đông chỉ trích đối lập, Chủ tịch nước Lưu Thiếu Kỳ,
Tổng Bí thư Đặng Tiểu Bình và chính sách khác là "sai lầm", mâu thuẫn
giữa Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông gia tăng, về con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình đưa ra quan điểm trái ngược với Mao Trạch
Đông, để phát triển quan điểm của mình họ đã lập các nhóm nhỏ mà không cần
thông báo trước với Mao Trạch Đông. Chính trong thời điểm này, Ủy ban Trung
ương Đảng và Mao Trạch Đông đề xuất chủ nghĩa sửa đổi, Đảng và Nhà nước đang
đối mặt với chủ nghĩa tư bản phục hồi hết sức nguy hiểm, vài năm trước tại nông
thôn thực hiện chính sách "bốn sạch" (tiếng Trung: 四清, tứ thanh), và tại thành thị là
"năm diệt" (tiếng Trung: 五反, ngũ phiên) và thể hiện sự phê
phán các tư tưởng, vận động quần chúng ra sức đấu tranh bảo vệ Đảng và Nhà
nước.
Phong
trào bốn sạch
Năm 1956, Đại hội Đảng lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô chỉ
trích Stalin, Mao Trạch Đông phản đối đưa ra quan điểm trái chiều. Tháng
4/1959, tại Hội nghị Trung ương 7 khóa VIII Đảng Cộng sản Trung Quốc, Mao Trạch
Đông đưa ra quan điểm, nhấn mạnh sức mạnh được tập trung vào Ủy ban Thường vụ
Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương do ông lãnh đạo. Ngày 2/7/1959, Hội nghị Bộ
Chính trị mở rộng và Hội nghị Trung ương 8 khóa VIII họp tại Lư Sơn, tại Hội
nghị này đã đưa ra quan điểm "đánh đổ tập đoàn phản động Bành" và
"bảo vệ con đường đúng đắn của Đảng, đập tan chủ nghĩa cơ hội xét
lại". Hội nghị Lư Sơn ban đầu dự định khắc phục sai lầm cực "tả"
có tính thuyết phục xuất hiện trong Đại nhảy vọt năm 1958, nhưng đề xuất không
được đồng ý trong cuộc họp. Ngày 14/7, Bộ trưởng Quốc phòng Bành Đức Hoài gửi
thư cho Mao Trạch Đông "Thư gửi Chủ tịch tham khảo", chỉ trích Mao
Trạch Đông rằng Đại nhảy vọt là "tính chất cuồng tín của giai cấp tiểu tư
sản" và "cần phải ngăn chặn sự nguy hiểm của chủ nghĩa Stalin".
Những lời chỉ trích của Bành Đức Hoài tương tự như những lời lẽ của Khrushchev,
Bí thư thứ nhất Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô cách đây một năm, khi
mối quan hệ Trung-Xô sụp đổ.
Sau khi Mao Trạch Đông nhận được bức thư đã phân phát trong cuộc
thảo luận, Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiên, Chu Tiểu Chu và nhiều người khác đồng ý.
Hoàng Khắc Thành (giản thể: 黄克诚; phồn thể: 黃克誠; bính âm: Huáng Kèchéng; sinh ngày 1 tháng 10 năm 1902 mất ngày 28 tháng 12 năm 1986) là đại tướng Quân Giải phóng Nhân
dân Trung Quốc và là trong 10 người
được phong quân hàm Đại tướng trong Quân Giải phóng Nhân
dân Trung Quốc.
Lạc Phủ (chữ Hán: 洛甫; 1900 - 1976) tên thật Trương Văn Thiên (Tiếng Trung giản thể:
张闻天; Tiếng Trung phồn thể: 張聞天; bính âm:
Zhang Wéntiān) là Tổng Bí thư thứ VI của Đảng Cộng sản Trung
Quốc từ năm 1935 đến năm 1943.
-----------
Ngày 23/7, Mao Trạch Đông, người chưa bao giờ bày tỏ quan điểm
của mình, cân nhắc xu hướng áp đảo trong đảng để khẳng định ý kiến của Bành
Đức Hoài rằng lá thư cho thấy "sự rung chuyển của giai cấp tư sản" và
tấn công vào đảng. Mao Trạch Đông tức giận với Bành Đức Hoài: "Ông đang
chống lại Trung ương, bức thư đã phân phát, để quần chúng đấu tranh, tổ chức
lực lượng, thiết lập lại Đảng và thế giới theo khuôn khổ của ông". Ngày
2/8, Mao Trạch Đông đã phát biểu và huy động để phản đối "cuộc tấn công
lan rộng của chủ nghĩa cơ hội". Ông tuyên bố rõ ràng rằng không còn là vấn
đề chống lại "cực tả" nữa. Bắt đầu từ ngày hôm sau, mỗi nhóm bắt đầu
chỉ trích Bành Đức Hoài, Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiên, Chu Tiểu Chu tương
ứng.
Đại nhảy
vọt
Năm 1958, sau kế hoạch Năm năm lần thứ nhất, Mao Trạch Đông kêu gọi
phát triển một "chủ nghĩa xã hội triệt để" trong nỗ lực đưa đất nước
sang xã hội cộng sản tự cung tự cấp. Để đạt được mục tiêu này, Mao khởi xướng
kế hoạch Đại nhảy vọt, thiết lập các "Xã Nhân dân đặc
biệt" (thường gọi là Công xã nhân dân) ở nông thôn thông qua việc sử
dụng lao động tập thể và vận động quần chúng. Nhiều cộng đồng dân cư đã được
huy động để sản xuất một mặt hàng duy nhất-đó là thép. Và Mao Trạch Đông tuyên
bố sẽ tăng sản lượng nông nghiệp lên gấp đôi mức năm 1957. Nhưng trên thực
tế,sản lượng nông nghiệp thời kì đó của Trung Quốc còn không bằng thời vua Càn
Long và thời nhà Thanh.[cần dẫn nguồn]
Cuộc Đại nhảy vọt là một thất bại về kinh tế. Các
ngành công nghiệp rơi vào
tình trạng bất ổn vì nông dân sản xuất quá nhiều thép chất lượng thấp trong khi các ngành khác bị
bỏ rơi. Hơn nữa, những người nông
dân không
qua đào tạo và được trang bị nghèo nàn để sản xuất thép, phần lớn dựa vào khu
vực sân sau nhà để đạt chỉ tiêu sản xuất thép do các quan chức địa phương đặt
ra. Trong khi đó, các công cụ nhà nông chính bị nấu chảy để làm thép khiến quy
mô sản xuất nông nghiệp bị thu
nhỏ. Điều này dẫn đến sự sụt giảm sản lượng của phần lớn các mặt hàng ngoại trừ
gang và thép không đạt tiêu chuẩn chất lượng. Tồi tệ hơn nữa, để tránh bị phạt, chính quyền địa
phương thường xuyên phóng đại các con số và che giấu khiến cho vấn đề thêm trầm
trọng trong nhiều năm.
ầu như chưa phục hồi từ nhiều thập kỷ chiến tranh, nền kinh tế
Trung Quốc thêm một lần nữa rơi vào khủng hoảng. Năm 1958, Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt buộc phải thừa nhận rằng những số liệu
thống kê sản xuất đã bị phóng đại. Ngoài ra, phần nhiều lượng thép sản xuất ra
không tinh khiết và vô ích. Trong khi đó, sự hỗn loạn trong các khu sản xuất
tập thể, thời tiết xấu và việc xuất khẩu lương thực nhằm đảm bảo an ninh lương
thực đã dẫn đến một trận đói kém cực lớn. Thực phẩm trong tình trạng hết sức
khan hiếm và sản xuất giảm đáng kể. Theo nhiều nguồn khác nhau, số người chết
do nạn đói này gây ra ước tính 20 đến 30 triệu người.
Sự thất bại của cuộc Đại nhảy vọt có tác động lớn lên uy tín của Mao Trạch Đông bên trong Đảng. Năm 1959, ông ta từ chức Chủ tịch nhà nước, và sau đó Lưu Thiếu Kỳ lên
thay. Tháng 7 năm 1959, những người lãnh đạo cấp cao của
Đảng triệu tập tại Lư Sơn để thảo luận về các quyết sách của Đảng,
nhất là các tác động của cuộc Đại nhảy vọt. Tại hội nghị, nguyên soái Bành Đức Hoài, khi đó là Bộ
trưởng Quốc phòng Trung Quốc, đã chỉ trích chính sách của
Mao Trạch Đông trong cuộc Đại nhảy vọt là đã quản lý kém và đi ngược lại các
quy luật kinh tế..
Trong lúc Hội nghị Lư Sơn đóng vai trò như một hồi chuông báo tử cho
nguyên soái Bành, cũng là nhà phê bình lớn tiếng nhất của Mao, điều này đã dẫn
đến một sự chuyển giao quyền lực vào tay những người thuộc phái ôn hòa cầm đầu
là Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, những người nắm quyền kiểm
soát chính
phủ. Sau
Hội nghị, Mao Trạch Đông đã tìm cách tước bỏ các chức vụ chính thức của Bành
Đức Hoài và buộc tội ông ta là kẻ "cơ hội cánh hữu". Bành Đức Hoài bị
thay bởi Lâm Bưu, một
vị tướng khác trong lực lượng quân cách mạng và sau này là người đóng vai trò
chủ đạo trong việc thực hiện các chính sách của Chủ nghĩa Mao Trạch Đông.
Nguyên soái
Lâm Bưu
Xung
đột giữa Lưu Thiếu Kỳ và Mao Trạch Đông
Vào đầu những năm 1960, mặc dù Mao Trạch Đông vẫn còn giữ chức
Chủ tịch Đảng, trách nhiệm chính trong sự thất bại của cuộc Đại nhảy vọt đã
buộc ông ta phải giam mình khỏi những vấn đề thường nhật của nhà nước và chính
phủ. Nhiều chính sách Đại nhảy vọt của ông ta bị đảo ngược, các tác động tiêu
cực của chúng giảm nhẹ và dần dần biến mất. Trong số những cải cách của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình thì
việc xóa bỏ phần nào tình trạng sản xuất tập thể được xem là thực dụng và hiệu
quả hơn. Trong suốt quá trình này, Lưu Thiếu Kỳ đặt ra cụm từ nổi tiếng,
"Mua tốt hơn tự sản xuất, và cho thuê tốt hơn so với đi mua". Điều
này đã mở ra một biên giới mới trong kinh tế Trung Quốc và đối lập với lý
thuyết "tự cung tự cấp"
của Mao Trạch Đông.
Những chính sách kinh tế thành công của Lưu Thiếu Kỳ đã thu hút
sự ủng hộ từ bên trong Đảng. Cùng với Đặng Tiểu Bình, Kỳ dường như muốn trục
xuất Mao Trạch Đông ra khỏi bộ máy quyền lực nhưng vẫn giữ ông ta trong vai trò
biểu tượng quốc gia. Đáp lại, Mao Trạch Đông đã khởi xướng Phong trào Giáo dục Xã hội Chủ
nghĩa vào năm
1962 để lấy lại nền tảng chính trị của mình. Mục tiêu chính của phong trào là
khôi phục lòng nhiệt thành cách mạng của các đảng viên và quần chúng. Đáng chú
ý hơn, phong trào này còn tập trung vào cải cách hệ thống giáo dục tiểu học và
trung học. Một trong những khía cạnh nổi bật nhất của nó là sự kết hợp của đơn
vị hành chính xã và lao động nhà máy vào giáo dục. Phong trào đã đạt được kết
quả là đưa chủ nghĩa Mao vào
giới trẻ Trung Quốc.
Năm 1963, Mao Trạch Đông bắt đầu công kích Lưu Thiếu Kỳ công
khai hơn. Ông ta tuyên bố rằng đấu tranh giai cấp vẫn đang được tiến hành và
phải được học hỏi và áp dụng "ngày một, tháng một, và năm một", và
bóng gió rằng các thành phần cố hữu của giai cấp tư sản (ám chỉ
Lưu Thiếu Kỳ) vẫn còn tồn tại mặc dù cách
mạng đã
thành công. Năm 1964, Phong trào Giáo dục Xã hội Chủ nghĩa tiến triển trở thành Phong trào Bốn-dọn-dẹp, một
phong trào chính trị - xã hội rộng lớn hơn nhằm mục đích "làm sạch chính
trị, kinh tế, tư tưởng, và tổ chức của bọn phản động". Mao Trạch Đông xem
chiến dịch này là nhắm vào các thành phần trung lưu vừa
được thiết lập nhưng đã trở nên xa rời quần chúng, trong khi Lưu Thiếu Kỳ lại
muốn một cách tiếp cận từ dưới lên để loại bỏ những tội phạm nhỏ, tầng lớp địa chủ và thành phần phản động. Sự bất đồng trong
quan điểm về bản chất của phong trào đã tạo ra xung đột giữa Mao Trạch Đông và
Lưu Thiếu Kỳ.
Khẩu
chiến chính trị
Cuối năm 1959, nhà sử học và cũng là Phó Thị trưởng Bắc
Kinh Ngô Hàm xuất bản phiên bản đầu tiên của bộ kịch
lịch sử tựa đề Hải Thụy bãi quan (海瑞罢官). Trong vở kịch, một viên quan trung thành tên Hải Thụy bị sa
thải bởi một tên hoàng đế biến chất. Trong khi vở kịch nhận được sự ca ngợi từ
phía Mao thì năm 1965 vợ Mao Trạch Đông là Giang
Thanh và đồng
minh của bà ta là Diêu Văn Nguyên, biên tập viên cho một tờ báo
ở Thượng Hải, đã viết bài báo công kích vở kịch. Diêu gọi vở kịch là "một
thứ cỏ độc" hãm hại Mao với ngụ ý Mao như một tên hoàng đế suy đồi và Bành Đức Hoài như một
công chức trung thực.
Bài báo Thượng Hải đó lan truyền khắp nước và nhiều tờ nhật báo
hàng đầu khác đã xin đăng lại. Thị trưởng Bắc Kinh là Bành
Chân, một người ủng hộ Ngô Hàm, đã
thành lập một ủy ban nghiên cứu bài báo và công bố rằng những lời chỉ trích của
Diêu Văn Nguyên là không chính đáng. Ngày 12 tháng 2 năm 1966, Ủy ban (gọi là
"Nhóm
Năm tên chịu trách nhiệm về cuộc Đại Cách mạng văn hóa")
đã công bố một báo cáo mà về sau được biết đến với tên "Đại cương tháng
Hai" (二月提纲) nhằm tìm cách giới hạn tranh luận về nhân vật Hải Thụy trong
khuôn khổ văn chương và lôi kéo sự chú ý của dư luận ra khỏi các hàm ý chính
trị.
Tuy nhiên, Giang
Thanh và Diêu Văn Nguyên tiếp
tục tố cáo cả Ngô Hàm và Bành
Chân trên
báo chí. Ngày 16 tháng 5, dưới sự chỉ đạo của Mao, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc đã ban hành một thông báo chính thức về
cuộc Đại Cách mạng văn hóa. Trong tài liệu này, Bành Chân bị chỉ trích gay gắt
và nhóm "Năm tên" bị giải tán và được thay thế bởi Nhóm Cách mạng văn hóa. Ngày
18 tháng 5, Lâm Bưu tuyên bố trong một bài phát biểu rằng
"Chủ tịch Mao là một thiên tài, và mọi thứ Chủ tịch nói đều thực sự tuyệt
vời; những lời nói của Chủ tịch sẽ tạo ra ý nghĩa cuộc sống của hàng trăm ngàn
người trong chúng ta". Vì vậy, bắt đầu giai đoạn đầu của sự sùng bái nhân
cách Mao Trạch Đông do Giang Thanh, Lâm Bưu và những kẻ cùng phe điều hành.
Ngày 25 tháng 5, một giảng viên triết học tại Đại học Bắc Kinh tên là
Nhiếp Nguyên Tử (聂元梓) đã viết một tấm áp
phích lớn và dán ở bảng tin công cộng. Nhiếp công kích giới lãnh đạo Đảng trong
trường và các quan chức của Đảng ở Bắc Kinh là "bọn côn đồ đen tối chống
lại Đảng", ngụ ý rằng có các thế lực đen tối trong Chính phủ và các trường
đại học đang cố gắng ngăn chặn tiến trình cách mạng. Vài ngày sau đó, Mao ra
lệnh phổ biến những lời của Nhiếp ra khắp nước và gọi đó là "tấm áp phích
lớn tuyên truyền cho Chủ nghĩa Mác đầu
tiên ở Trung
Quốc". Ngày 29 tháng 5, tại trường trung học thuộc Đại học Thanh Hoa, đơn vị Hồng vệ binh đầu
tiên được thành lập. Mục đích của đơn vị này là trừng phạt và cô lập cả giới
trí thức lẫn những kẻ thù chính trị của Mao.
Ngày 1 tháng 6 năm 1966, tờ Nhân dân Nhật báo đã phát
động một cuộc công kích vào các lực lượng phản động trong giới trí thức. Sau
đó, giới chủ tịch các trường đại học và những người trí thức nổi tiếng khác bị
truy tố. Ngày 28 tháng 7 năm 1966, đại diện Hồng vệ binh đã viết thư cho Mao
nói rằng các cuộc thanh trừng trên diện rộng và tất cả những sự kiện chính
trị-xã hội có liên quan đều được thực hiện chính xác và công minh. Mao đáp lại
với sự ủng hộ toàn diện của mình bằng tấm áp phích lớn tựa đề "Oanh tạc
các trụ sở" (tiếng Trung: 炮打司令部——我的一张大字报). Mao viết rằng, bất
chấp cuộc Cách mạng vô sản đã được tiến hành, giai cấp thống trị vẫn bị thâu
tóm bởi các thành phần tư sản, các nhà tư bản và những người theo chủ nghĩa xét
lại, và rằng các thành phần phản cách mạng này vẫn còn tồn tại, thậm chí ngay
trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của Đảng. Điều này thực ra là một cuộc khẩu
chiến chống lại Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình và những người cùng phe với họ.
Diễn
biến
1966
Ngày 8 tháng 8 năm 1966, Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thông qua
"quyết định liên quan đến Cuộc Cách mạng Văn hóa Vô sản" (còn gọi là
"Thông cáo 16 điểm").
Quyết định này quy định rằng Cuộc Cách mạng văn hóa Vô sản là "một cuộc
cách mạng lớn đụng chạm đến tất cả mọi người và thiết lập một giai đoạn mới
trong sự phát triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trong nước, một giai đoạn
sâu rộng hơn".
“
|
Mặc dù giai cấp tư sản đã bị lật đổ, chúng vẫn cố gắng sử dụng
những tư tưởng và lề thói cũ của giai cấp bóc lột để đầu độc quần chúng nhân
dân, nắm bắt tâm chí họ và cố gắng khôi phục giai đoạn tư sản. Giai cấp vô sản
phải làm điều ngược lại: Đó là tranh đấu với giai cấp tư sản trong lĩnh vực
tư tưởng và sử dụng những tư tưởng và lề thói mới của giai cấp vô sản để thay
đổi diện mạo tinh thần của toàn bộ xã hội. Hiện tại, mục tiêu của chúng ta là
đấu tranh và đè bẹp những kẻ hữu khuynh muốn phá bỏ cấu trúc thượng tầng của
chủ nghĩa xã hội...
|
”
|
— "Thông
cáo 16 điểm"
|
Vì vậy, quyết định đó lấy phong trào sinh viên sẵn có và phát
triển nó lên một cấp độ chiến dịch đại chúng toàn quốc, kêu gọi sự tham gia của
không những sinh viên mà còn cả công nhân, nông dân, quân nhân, trí thức cách
mạng và các cán bộ cách mạng để tiến hành nhiệm vụ chuyển đổi cấu trúc thượng
tầng bằng cách treo các áp phích ký tự lớn và tổ chức các cuộc tranh luận sôi
nổi. Theo ý Mao thì Trung Quốc cần "một cuộc cách mạng văn hóa" để
đưa Chủ nghĩa xã hội trở lại. Các quyền tự do quy định theo Thông cáo 16 điểm
sau đó được đưa vào Hiến pháp Trung Quốc như là "Bốn quyền tuyệt vời nhất
của nền dân chủ vĩ đại": Quyền tự do ngôn luận, phát biểu ý kiến, quyền
được viết các áp phích ký tự lớn và quyền được tổ chức các tranh luận lớn. Thực
ra, trong bốn quyền đó, một số quyền đã bao hàm lẫn nhau.
Những người mà không có mối liên quan với Đảng Cộng sản sẽ được
thử thách và thông thường bị buộc tội tham nhũng và bị bỏ tù. Những quyền tự do
này được bổ sung bởi quyền được bãi công, mặc dù quyền này đã bị suy yếu bởi sự
dính dáng của quân đội vào nền chính trị dân sự vào tháng 2 năm 1967. Tất cả
những quyền này đã bị xóa bỏ khỏi Hiến pháp sau khi Chính phủ của Đặng Tiểu Bình dập tắt Phong
trào Bức tường Dân chủ năm
1979.
Ngày 16 tháng 8 năm 1966, hàng triệu Hồng vệ binh từ khắp các
nơi trên đất nước tập trung tại Bắc Kinh để có cơ hội thấy mặt Chủ tịch Mao.
Ngay trên đầu cổng Thiên
An Môn, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Lâm Bưu đã xuất hiện và diễn thuyết trước 11 triệu
Hồng vệ binh, và nhận được rất nhiều tràng reo hò từ đám đông. Mao ca ngợi hành
động của Hồng vệ binh trong các chiến dịch gần đây là "phát triển Chủ
nghĩa xã hội và dân chủ".
Ngày 1/6/1966, trên Nhân dân Nhật báo có bài xã luận với tựa đề
“Bài trừ mọi tư tưởng cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ, tập quán cũ đầu độc nhân
dân do giai cấp bóc lột dựng nên” mở đầu Chiến dịch tiêu hủy Bốn cái cũ. Trong
chiến dịch này tất cả những gì liên quan đến các loại tôn giáo đều bị Hồng vệ
binh ngược đãi thẳng tay. Nhiều công trình tôn
giáo như
chùa chiền, nhà thờ, tu viện Hồi
giáo, và các nghĩa trang đều bị đóng cửa, đôi khi còn bị cướp phá
hoặc bị đập bỏ. Nhiều cổ vật, sách cổ, tranh ảnh, thư pháp... bị phá hủy, đốt
bỏ. Điều khủng khiếp nhất của chiến dịch là việc sử dụng bừa bãi hình thức tra
tấn, giết chóc dẫn đến các vụ tự tử do nạn nhân không chịu được tra tấn và nhục
nhã. Trong tháng 8 và tháng 9, chỉ riêng ở Bắc Kinh đã có 1772 người bị sát
hại. Tại Thượng Hải, trong tháng 12 có 704 vụ tự tử và 534 ca
tử vong liên quan đến Cách mạng Văn hóa. Trong thời gian này ở Vũ Hán cũng chứng kiến 62 vụ tự sát và 32 vụ giết
người.[4]
Chính quyền cũng không dám ngăn chặn hành động của Hồng vệ binh.
Xie Fuzhi, cảnh sát trưởng quốc gia, cho biết: "Đừng nói rằng họ sai khi
đánh đập những kẻ xấu; nếu trong cơn thịnh nộ mà họ có đánh ai đó đến chết thì
cũng có thể hiểu được."
Trong hai năm, đến tận tháng 7 năm 1968 (ở vài nơi, thời gian có
thể lâu hơn), các nhóm hoạt động của Hội sinh viên như lực lượng Hồng vệ binh
đã mở rộng lĩnh vực quyền lực của mình, và gia tăng các nỗ lực tái thiết Xã hội
chủ nghĩa. Họ bắt đầu bằng cách phát tờ rơi giải thích cho hành động phát triển
và củng cố Chủ nghĩa xã hội của họ và đưa tên các nhân vật bị khép tội
"phản cách mạng" lên trên bảng tin của trường. Họ tập hợp lại thành
từng nhóm lớn, tổ chức các buổi tranh luận lớn, và viết các vở kịch mang tính
"giáo dục". Họ tổ chức các cuộc họp công cộng để chỉ trích những lời
bào chữa của các bị cáo "phản cách mạng".
Thế giới này là của các bạn, cũng như của chung chúng ta, nhưng
xét cho cùng thì nó vẫn là của các bạn. Các bạn, những người trẻ tuổi tràn đầy
nhiệt huyết, đang ở độ thăng hoa của cuộc đời giống như mặt trời lúc tám hoặc
chín giờ sáng. Chúng tôi hy vọng vào các bạn. Thế giới thuộc về các bạn. Tương
lai Trung Quốc thuộc về các bạn.
Hồng bảo thư, ấn bản tiếng Anh
Đây là một trong nhiều trích đoạn từ cuốn Hồng bảo thư mà sau
này Hồng vệ binh luôn mang theo như một sự chỉ dẫn hành động từ phía Mao Trạch
Đông. Đó là kim chỉ nam cho hành động vì mục tiêu tương lai của Hồng vệ binh.
Những trích dẫn trực tiếp từ lời của Mao đã dẫn đến các hành động khác của Hồng
vệ binh dưới quan điểm của các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mao khác. Mặc dù Thông cáo 16 điểm và các tuyên bố khác từ các nhà lãnh đạo
cấp cao khác của Chủ nghĩa Mao đều ngăn cấm hình thức "bạo động vũ
trang" (武斗) và
ủng hộ "đấu tranh tâm lý" (文斗),
nhưng những cuộc đấu tranh này thường dẫn đến việc sử dụng vũ lực. Ban đầu,
những cuộc khẩu chiến giữa các nhóm hoạt động thậm chí trở thành bạo lực, nhất
là khi họ bắt đầu tước vũ khí của quân đội năm 1967. Những người khởi xướng Chủ
nghĩa Mao đã giới hạn hoạt động của Hồng vệ binh trong khuôn khổ hình thức
"bất bạo động", nhưng đôi khi chính điều đó lại dường như khuyến
khích bạo lực; và chỉ sau các vụ cướp vũ khí quân đội của Hồng vệ binh, họ mới
bắt đầu đàn áp các phong trào quần chúng. Lưu Thiếu Kỳ bị đưa vào một trại tạm
giam và qua đời tại đó năm 1969. Đặng Tiểu Bình cũng bị đưa đi "cải
tạo" ba lần và cuối cùng phải làm việc trong một nhà máy cơ khí cho đến khi Chu Ân
Lai đưa ông
trở lại vài năm sau đó. Tuy nhiên, phần lớn những người bị bắt giữ không được
may mắn như vậy và nhiều người trong số họ không bao giờ được quay trở lại.
Hành động của Hồng vệ binh được chủ tịch Mao Trạch Đông ca ngợi.
Ngày 22 tháng 8 năm 1966, ông ban hành một thông cáo chung, trong đó quy định
cấm mọi sự can thiệp từ phía cảnh sát vào hoạt động của Hồng vệ binh. Người nào
làm trái với Thông cáo đó sẽ bị gán cho tội danh "phản cách mạng".
Ngày 5 tháng 9 năm 1966, một thông cáo khác được ban hành khuyến
khích tất cả Hồng vệ binh đến Bắc Kinh trong một quãng thời gian xác định. Tất
cả chi phí, bao gồm ăn ở và đi lại sẽ được chính quyền chi trả. Ngày 10 tháng
10 năm 1966, một đồng minh của Mao là Lâm Bưu đã công khai chỉ trích Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình là
"những kẻ dẫn đường cho Chủ nghĩa Tư bản" và là "mối đe
dọa" đến Chủ nghĩa Xã hội. Sau
đó, Bành Đức Hoài cũng bị
đưa đến Bắc Kinh và bị truy tố trước quần chúng.
1967
Ngày 3 tháng 1 năm 1967, Lâm Bưu và Giang
Thanh đã sử
dụng truyền thông và cán bộ địa phương để tạo ra cái gọi là "Bão táp tháng
Giêng", trong đó nhiều quan chức cấp cao Thượng Hải cũng bị
chỉ trích nặng nề và bị đem ra truy tố. Điều
này đã mở đường cho Vương Hồng Văn nắm
quyền quản lý thành phố với chức danh người đứng đầu Ủy ban Cách mạng thành
phố. Do đó, chính quyền thành phố bị bãi bỏ. Ở Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ và Đặng
Tiểu Bình một lần nữa trở thành mục tiêu của sự chỉ trích, nhưng những chỉ
trích khác cũng nhắm vào các việc làm sai trái của Phó thủ tướng Trần
Vân. Các quan chức chính phủ hay đảng viên địa phương cũng nhân cơ
hội này để cáo buộc địch thủ tội "phản cách mạng".
Ngày 8 tháng Giêng, Mao đã ca ngợi những hành động này thông qua
tờ báo của Đảng là tờ Nhân dân Nhật báo, khuyến khích các quan chức
địa phương phê bình và tự phê bình nếu có dính líu tới hoạt động "phản
cách mạng". Điều này dẫn đến các cuộc thanh trừng trên diện rộng và liên
tiếp giữa các quan chức địa phương khiến cho chính quyền nhân dân ở nhiều địa
phương bị tê liệt hoàn toàn. Tham gia vào các cuộc thanh trừng "phản cách
mạng" này là cách duy nhất để tránh bị thanh trừng, nhưng cũng không có gì
đảm bảo.
Vào tháng
hai, Giang
Thanh và Lâm Bưu, dưới
sự ủng hộ của Mao, đã nhấn mạnh rằng "đấu tranh giai cấp" cần mở rộng
sang ngành quân đội. Nhiều tướng lĩnh chủ chốt trong Quân Giải phóng Nhân dân Trung
Hoa đã tỏ
thái độ lo ngại và phản đối Cách mạng văn hóa; họ gọi đó là "một sự sai
lầm". Cựu Bộ trưởng Ngoại giao là Trần
Nghị đã tỏ
ra tức giận ngay trong cuộc họp Bộ Chính trị, và nói rằng sự chia bè kết phái
sẽ hủy hoại quân đội hoàn toàn và sau đó là đến Đảng.
Các tướng lĩnh khác, bao gồm Nhiếp Vinh Trăn, Hạ Long và Từ Hướng Tiền cũng
bày tỏ sự bất mãn. Họ lần lượt bị tố cáo bởi các phương tiện truyền thông quốc
gia dưới sự kiểm soát của Trương Xuân Kiều và Diêu Văn Nguyên. Cuối cùng thì tất cả bọn họ
đều bị thanh trừng bởi Hồng vệ binh. Cùng lúc đó, nhiều đơn vị Hồng vệ binh lớn
quay sang đối đầu với nhau do mâu thuẫn về lập trường cách mạng khiến cho tình
hình thêm phức tạp và làm đất nước thêm hỗn loạn.
Do vậy, Giang Thanh đã ra thông báo dừng tất các hành động không
lành mạnh bên trong lực lượng Hồng vệ binh. Ngày 6 tháng 4, Lưu Thiếu Kỳ đã bị
lên án công khai và rộng rãi bởi nhóm thành viên gồm Giang
Thanh, Khang
Sinh, thậm chí có cả Mao. Tiếp theo đó là một kháng nghị và các cuộc
tuần hành của quần chúng, đáng chú ý nhất là cuộc tuần hành ở Vũ Hán ngày 20 tháng 7. Trong nơi này, Giang Thanh
đã công khai tố cáo bất kỳ "hành động phản cách mạng nào"; sau đó
đích thân bà ta bay tới Vũ Hán để chỉ trích Zaidao Chen, tướng phụ trách
khu vực Vũ Hán.
Ngày 22 tháng 7, Giang Thanh chỉ đạo Hồng vệ binh thay thế Quân
Giải phóng Nhân dân Trung Hoa nếu cần thiết, do đó làm cho lực lượng vũ trang
hiện tại bị vô hiệu. Sau lần ca ngợi ban đầu của Giang Thanh, Hồng vệ binh bắt
đầu cướp phá các doanh trại và các tòa nhà quân đội. Hành động này đã không thể
bị ngăn chặn bởi các tướng lĩnh quân đội và kéo dài tới tận mùa thu năm 1968.
1968
Mùa xuân 1968, một
chiến dịch lớn nổ ra nhằm mục đích đẩy mạnh tôn sùng Mao Trạch Đông lên mức
ngang thần thánh. Ngày 27 tháng 7 năm 1968, sự lấn quyền quân đội của Hồng vệ
binh chính thức kết thúc và chính quyền trung ương gửi các đơn vị quân đội tới
để bảo vệ nhiều khu vực là mục tiêu của Hồng vệ binh. Mao ủng hộ và thúc đẩy ý
tưởng cho phép quần chúng lắng nghe một trong những chỉ dẫn tối cao của mình.
Một năm sau đó, các nhóm Hồng vệ binh hoàn toàn tan rã vì Mao sợ rằng sự hỗn
loạn do họ gây ra có thể làm hại nền tảng căn bản của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Trong bất kỳ trường hợp nào thì mục tiêu của Hồng vệ binh đã đạt được và Mao đã
củng cố được quyền lực chính trị của mình.
Đầu tháng 10, Mao tiến hành chiến dịch thanh trừng
những quan chức không trung thành với ông ta. Họ bị đưa tới vùng nông thôn và
làm việc trong các trại lao động. Cũng trong tháng này, tại Đại hội Đảng lần
thứ 12-khóa 8, Lưu Thiếu Kỳ bị trục xuất vĩnh viễn ra khỏi Đảng và Lâm Bưu được đưa lên giữ chức Phó Chủ tịch Đảng và
được Mao chọn làm người kế tục. Địa vị và danh tiếng của Bưu chỉ xếp sau Mao
Lâm Bưu, người được Mao chọn kế vị, trở thành nhân vật nổi bật
nhất trong cuộc Đại Cách mạng văn hóa sau năm 1968. Tháng 12 năm 1971, Trung
Quốc (và thế giới) bị sốc sau khi một chiếc máy bay bị rơi ở Mông Cổ và Lâm Bưu được cho là một trong những hành
khách xấu số. Sự kiện này xảy ra sau một loạt những nỗ lực ám sát Mao bất
thành. Từ đó đến nay, chưa thể xác minh được các sự kiện liên quan đến Lâm Bưu
trong giai đoạn 1968-1971 với độ thuyết phục và chính xác được vì lý do nhạy
cảm chính trị xung quanh sự kiện máy bay rơi đó. Những năm tháng quyền lực của Lâm Bưu và
cái chết đầy bí ẩn của ông ta là chủ đề quan tâm của nhiều sử gia khắp thế giới
nhưng chưa một ai có thể đưa ra kết luận xác đáng về vấn đề đó.
Tháng 12 năm 1968, Mao triển khai Phong
trào Tiến về nông thôn. Phong trào kéo dài từ cuối thập kỷ 1960
đến đầu thập kỷ 1970 đã huy động hàng trăm ngàn trí thức trẻ sống ở các thành
phố đi về các vùng nông thôn để sống, lao động và học hỏi kinh nghiệm của những
người công nhân và nông dân. Từ "trí thức" lúc đó được dùng với nghĩa
rộng nhất là những học sinh mới tốt nghiệp trung học. Cuối những năm 1970,
những "trí thức trẻ" này cuối cùng cũng được phép trở về thành phố
quê nhà. Xét khía cạnh nào đó thì phong trào này là một cách thức điều chuyển
các thành viên Hồng vệ binh từ thành phố về nông thôn, nơi mà họ ít có khả năng
gây loạn nhất.
1969
Đại hội Đảng IX được tổ chức vào tháng 4 năm 1969, và phục vụ
như là một phương tiện để "hồi sinh" đảng với tư duy mới và cán bộ
mới sau khi nhiều thành phần lãnh đạo cũ đã bị loại trừ trong các cuộc đấu tranh
của những năm trước đó. Khuôn khổ thể chế của Đảng thành lập hai
thập kỷ trước đó đã bị hư hại gần như hoàn toàn: cho nên đại biểu Quốc hội lần
này thực ra đã được lựa chọn bởi Ủy ban cách mạng chứ không phải thông qua bầu
cử của đảng viên . Con
số đại diện của quân đội tăng lên nhiều so với đại hội trước đó (28% các đại
biểu là thành viên PLA), và việc bầu cử thêm nhiều thành viên PLA vào ủy ban
Trung ương mới phản ánh sự gia tăng này. Nhiều sĩ quan quân đội được lên chức trung
thành với thống soái PLA Lâm Bưu, thành
hình một phe phái mới phân chia giữa lãnh đạo quân đội và dân sự.
Hậu
quả
Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc đã để lại những hậu quả nghiêm
trọng không chỉ về kinh tế, xã hội mà cả về văn hóa. Trước
khi Mao Trạch Đông qua đời, người ta có ước tính rằng có khoảng 12 đến 20 triệu
người, gồm 5,4 triệu Hồng vệ binh, đi lao
động nặng
nhọc ở nông
thôn, trong đó là 1 triệu người dân Thượng Hải, tức là 18% dân số của thành
phố lúc đó.
Số nạn nhân bị chết trong giai đoạn này có nhiều ước tính khác nhau, nhưng chắc
chắn là rất lớn. Theo nhà nghiên
cứu Rudolph Rummel, từ năm 1964 đến năm 1975, khoảng 7,7 triệu người Trung Quốc bị giết và 1,5 triệu người chết do đói kém và xung đột dân sự , tổng cộng là 9,2 triệu người đã chết.
Khoảng 3 triệu Đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc bị kỷ luật và cầm tù, 60%
Đảng viên bị khai trừ, nhiều người trong số họ phải lao động nặng nhọc trong thời
gian diễn ra
Cách mạng văn hóa. Về mặt xã hội, trong thời Cách mạng văn hóa, nhiều trường đại học ở Trung
Quốc đã bị đóng cửa, dẫn đến hậu quả là cả một thế hệ không được tiếp cận với giáo dục đại học. Trong thập niên 1980, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Trung
Quốc khi đó
là Hồ Diệu Bang đã nhận
xét rằng khoảng 100 triệu người Trung Quốc chịu đau khổ của thời kỳ này.
Hồ Diệu Bang (tiếng Trung Quốc: 胡耀邦 Bính âm: Hú
Yàobāng, Wade-Giles: Hu Yao-pang; 20 tháng 11 năm 1915 – 15 tháng 4 năm 1989)
Văn hóa Trung Quốc, một nền văn hóa có truyền thống lịch sử 5000 năm, gần như
bị hủy hoại hoàn toàn trong Cách mạng văn hóa. Có một thực tế đáng buồn là bạn
bè quốc tế gần như khó có thể cảm nhận được giá trị cốt lõi của văn hóa cổ
truyền này. Đáng buồn hơn nữa đó là muốn tìm hiểu văn hóa Trung Hoa thật sự, ta
phải tìm hiểu bên ngoài Trung Quốc.
Nhận
định
Đặng Tiểu Bình đã nhận định như sau: "Cách mạng Văn Hóa
là một sai lầm. Chúng ta phải mạnh dạn chối bỏ sai lầm này của Mao trong những
năm tháng cuối đời của ông. Nhưng cũng cần nhìn vào sự thật. Sự thật là không
phải mọi sai lầm và quá đáng trong cuộc Cách mạng Văn Hóa đều do Mao." .
Trong nghị quyết năm 1981 của Hội
nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Cách
mạng văn hóa được nêu lên với kết quả là "gây ra bất ổn định xã hội, và
gây ra thảm họa cho Đảng, nhà nước, và nhân dân".
No comments:
Post a Comment