Cách nay đúng 128 năm, họa sĩ Vincent_van_Gogh tự sát bằng cách
dùng súng lục bắn vào ngực.
Ngày 27
tháng 07, 1890
·
1890 – Trong tình trạng bệnh lý ngày càng trầm trọng, họa
sĩ Vincent van Gogh (hình tự họa) dùng
súng tự bắn vào ngực mình, ông qua đời hai ngày sau đó.
Vincent van Gogh
Chân
dung tự họa (1887)
Tên khai sinh Vincent Willem van Gogh
Quốc tịch Hà Lan
Vincent Willem van Gogh (Tiếng Hà
Lan: [ˈvɪnsɛnt ˈʋɪləm vɑn ˈɣɔx] ; 30
tháng 3 năm 1853 – 29 tháng 7 năm 1890) là một danh hoạ Hà Lan thuộc trường phái hậu ấn tượng.
Nhiều bức tranh của ông nằm trong số những
tác phẩm nổi tiếng nhất, được yêu thích nhất và cũng đắt
nhất trên thế giới. Van Gogh là nghệ sĩ tiên
phong của trường phái biểu hiện và có ảnh hưởng rất lớn tới mỹ thuật hiện đại, đặc
biệt là tới trường phái dã thú (Fauvism) và trường phái biểu hiện tại Đức.
Thời thanh niên, Van Gogh làm việc trong
một công ty buôn bán tranh, sau đó là giáo viên và nhà truyền giáo tại một vùng mỏ nghèo. Ông thực sự trở thành họa sĩ
từ năm 1880 khi
đã 27 tuổi.
Thoạt đầu, Van Gogh chỉ sử dụng các gam màu
tối, chỉ đến khi được tiếp xúc với trường phái ấn tượng (Impressionism) và Tân ấn tượng (Neo-Impressionism)
ở Paris, ông mới
bắt đầu thay đổi phong cách vẽ của mình. Trong thời gian ở Arles miền
Nam nước Pháp, Van Gogh kết hợp các màu sắc tươi sáng của hai chủ
nghĩa này với phong cách vẽ của mình để tạo nên các bức tranh có phong cách rất
riêng.
Chỉ trong 10 năm cuối đời, họa sĩ đã sáng
tác hơn 2000 tác phẩm, trong đó có khoảng 900 bức họa hoàn chỉnh và 1100 bức vẽ
hoặc phác thảo.
Phần lớn các tác phẩm nổi tiếng nhất của
Van Gogh được sáng tác vào hai năm cuối đời, thời gian ông lâm vào khủng hoảng
tinh thần tới mức tự cắt bên tai trái vì tình bạn tan vỡ với họa sĩ Paul Gauguin.
Sau đó Van Gogh liên tục phải chịu đựng các
cơn suy nhược thần kinh và cuối cùng ông đã tự kết liễu đời mình.
Ngày 27 tháng 7, trên một cánh đồng hoa
hướng dương, ông tự bắn vào ngực bằng một khẩu súng lục. Ông mất 2 ngày sau đó
vì vết thương quá nặng.
Người quan trọng nhất trong cuộc đời Van
Gogh là em trai ông, Theodorus van Gogh, người đã luôn lo lắng và hỗ trợ tài chính cho Van Gogh.
Tình anh em giữa Vincent và Theo đã được ghi lại qua rất
nhiều lá thư họ trao đổi kể từ tháng 8 năm 1872.
Hoa hướng dương, phiên bản thứ 4, tháng 8 năm 1889
Sinh thời, Van Gogh không đạt được thành
công, và bị coi là một kẻ điên và thất bại. Ông trở nên nổi tiếng sau khi tự
tử. Ông hiện lên trong trí tưởng tượng công chúng như một thiên tài vĩ đại bị
hiểu lầm, họa sĩ là "nơi mà các bài tranh luận về điên cuồng và sáng tạo
giao nhau" . Danh tiếng của ông tiếp tục lan rộng vào đầu thế kỷ 20
khi các yếu tố của phong cách vẽ của ông được kết hợp bởi các nhà họa sĩ
theo trường phái dã thú và trường phái biểu hiện. Ông đã đạt được thành công lớn trên trường tranh luận,
thương mại và phổ biến trong những thập niên tiếp theo. Ông được nhớ đến như là
một hoạ sĩ tài hoa mà bạc mệnh, với một tâm can bị giằng xé, tiêu biểu cho lý
tưởng lãng mạn về người nghệ sĩ bị giày vò.
Thư
từ
Em trai van Gogh, Theo năm 1878. Theo là
nguồn động lực lớn về tài chính cũng như tình cảm trong suốt cuộc đời anh trai
Nguồn thông tin toàn diện nhất về Van Gogh là thư từ giữa ông và
em trai, Theo. Tình
bạn lâu dài của họ, và hầu hết những gì được biết đến là tư tưởng và triết lý
nghệ thuật của Vincent, được ghi lại trong hàng trăm bức thư trao đổi từ năm
1872 đến năm 1890. Theo van Gogh là
một đại lý nghệ thuật và cung cấp cho anh trai sự hỗ trợ về tài chính và tình
cảm, và tiếp cận với những người có ảnh hưởng trong bối cảnh nghệ thuật đương
đại.
Theo giữ tất cả các bức thư của Vincent gửi đến, Vincent cũng
giữ được vài bức thư ông nhận được. Sau khi cả hai mất, vợ góa của Theo là
Johanna thu xếp cho xuất bản một số thư của họ. Một số xuất bản vào năm 1906 và
1913; phần lớn được xuất bản năm 1914. Các
lá thư của Vincent rất hùng biện và biểu cảm mạnh mẽ và được miêu tả là có một
"sự thân mật giống như nhật ký", và
được đọc thành từng phần như tự truyện . Dịch
giả Arnold Pomerans đã
viết rằng ấn bản của họ đã thêm một "chiều sâu mới để hiểu được thành tựu
nghệ thuật của Van Gogh, hiếm có họa sĩ nào chúng tôi có thể hiểu được đến
vậy" .
Có hơn 600 lá thư từ Vincent đến Theo và khoảng 40 lá từ Theo
đến Vincent. Có 22 lá gửi đến em gái là Wil, 58 lá cho họa sỹ Anthon van Rappard, 22 lá
cho Émile Bernard cũng
như các thư cá nhân cho Paul
Signac, Paul
Gauguin và nhà phê bình Albert Aurier. Một
số được minh họa bằng phác họa. Nhiều lá thư không đề ngày tháng, nhưng các nhà
sử học nghệ thuật đã có thể đặt phần lớn thư theo thứ tự thời gian. Một vài vấn
đề về dịch và ngày tháng vẫn còn, chủ yếu với những lá thư hồi ở Arles. Dù
Vincent viết khoảng 200 bức thư bằng tiếng Hà Lan, Pháp và Anh. Có
một khoảng đứt đoạn trong hồ sơ thư từ khi ông sống ở Paris cùng với em và
không cần phải viết thư.
Tiểu
sử
Thời niên
thiếu (1853-1869)
Đại gia đình nhà van Gogh
Hàng trên: Theodorus và Anna Cornelia van Gogh
Hàng dưới (từ trái qua): Vincent Willem, Anna Cornelia, Theo, Elisabetha Huberta, Willemina Jacoba và Cornelius Vincent
Hàng trên: Theodorus và Anna Cornelia van Gogh
Hàng dưới (từ trái qua): Vincent Willem, Anna Cornelia, Theo, Elisabetha Huberta, Willemina Jacoba và Cornelius Vincent
Vincent van Gogh sinh năm 1853 tại Groot-Zundert, một
làng nhỏ gần thành phố Breda thuộc
tỉnh Bắc Brabant phía Nam Hà Lan. Ông
là con trai của bà Anna Cornelia Carbentus và ông Theodorus van Gogh, một giáo sĩ của Giáo hội cải cách Hà Lan. Van
Gogh được đặt tên giống với ông nội và người anh cả đã chết non trước
đó một năm. Có ý kiến cho
rằng việc có tên trùng với tên người anh chết sớm đã có ảnh hưởng tâm lý sâu
sắc tới người họa sĩ trẻ và những tác phẩm của ông, tiêu biểu là các bức chân
dung hai người đàn ông. Thực ra thì việc sử dụng tên Vincent là phổ biến trong
dòng họ Van Gogh, ông nội của họa sĩ cũng tên là Vincent van Gogh (1789-1874), một
người tốt nghiệp khoa thần
học tại Đại học Leiden và có sáu người con,
trong đó ba người làm nghề buôn bán tranh, bao gồm một Vincent khác, người
thường được nhắc đến trong các bức thư của Van Gogh như là "chú
Cent". Dòng họ Van Gogh vốn là một dòng họ chuyên hành nghề buôn bán tranh
hoặc làm các công việc có liên quan đến nghệ thuật.
Khi Van Gogh lên bốn thì người em trai của ông, Theodorus (Theo)
ra đời ngày 1 tháng 5 năm 1857. Ông
còn có một người em trai khác là Cor và ba người em gái là Elizabeth, Anna và
Wil. Khi còn bé, Van Gogh là một đứa trẻ trầm tính, ít nói và sâu sắc.
Năm 1860 ông
theo học ở trường làng Zundert đến năm 1861 thì
bắt đầu học ở nhà cùng em gái Anna dưới sự hướng dẫn của một nữ gia sư.
Năm 1864, Van
Gogh lên Zevenbergen để
vào học tại một trường nội trú, ông cảm thấy rất đau khổ vì
phải xa gia đình và vẫn còn nhắc đến nỗi buồn này kể cả khi đã trưởng thành.
Ngày 15 tháng 9 năm 1866, Van
Gogh vào học tại trường Willem II College tại
thành phố Tilburg, tại đây ông được học vẽ dưới sự hướng dẫn
của Constantijn C. Huysmans, một họa sĩ đã có đôi chút thành công ở Paris. Tháng
3 năm 1868, Van
Gogh bất ngờ bỏ học để quay về nhà. Về sau ông nhắc lại thời niên thiếu của
mình như một giai đoạn u tối, lạnh lẽo và cằn cỗi.
Buôn bán
tranh và truyền giáo (1869-1878)
Tháng 7 năm 1869, ở
tuổi 16, Van Gogh bắt đầu nghề buôn bán tranh tại công ty Goupil & Cie ở Den
Haag, đến tháng 6 năm 1873 ông
được phái đến London. Trong
thời gian ở thành phố này ông trọ tại số 87 đường Hackford, Brixton. Đây
là thời gian vui vẻ của Van Gogh khi ông thành công trong việc buôn bán và đã
có thể kiếm nhiều tiền hơn cha mình dù mới ở tuổi 20, vợ của Theo sau này đã
nhận xét rằng đây có lẽ là giai đoạn hạnh phúc nhất trong cuộc đời Vincent. Ông
còn có tình cảm với cô Eugénie Loyer, con gái của bà chủ nhà trọ nhưng
khi Van Gogh bày tỏ tình cảm với cô thì lại bị Eugénie từ chối với lý do cô đã
hẹn hò với một người khác. Vincent van Gogh bắt đầu trở nên cô độc và sùng đạo.
Sau khi được bố và chú gửi đến Paris, Van
Gogh bắt đầu biểu lộ sự không hài lòng với việc coi nghệ thuật chỉ là những món
hàng và bộc lộ quan điểm của mình với khách hàng. Vì thế đến ngày 1 tháng
4 năm 1876, Van
Gogh quyết định chấm dứt công việc buôn bán tranh.
Tình cảm tôn giáo của Van Gogh bắt đầu phát triển tới mức ông
nghĩ rằng mình đã tìm được thiên hướng thực sự cho cuộc đời, ông trở lại Anh
làm việc không công, đầu tiên là giáo viên thay thế tại một trường nội trú nhỏ
nhìn ra cảng Ramsgate nơi
ông đã thực hiện vài bức ký họa. Sau khi ngôi trường chuyển về Isleworth, Middlesex,
Vincent cũng chuyển đi cùng nhưng rồi nhanh chóng bỏ nghề giáo viên để trở
thành trợ tá cho một giáo sĩ của Phong trào Giám Lý với mục đích đưa sách
phúc âm đến khắp nơi.
Vào Giáng sinh năm 1876, Van Gogh trở về nhà và làm
việc cho một hiệu sách ở Dordrecht trong
vòng sáu tháng, ông dành phần lớn thời gian để vẽ nguệch ngoạc hoặc dịch Kinh
thánh sang tiếng
Anh, tiếng
Pháp và tiếng Đức. Bạn
cùng phòng của Vincent trong thời kỳ này là một giáo viên trẻ tên là Görlitz,
ông này về sau đã nhận xét rằng Vincent ăn uống rất đạm bạc và thường thích ăn
chay. Trong
một cố gắng giúp đỡ nguyện vọng trở thành mục sư của Van Gogh, gia đình ông gửi
Van Gogh tới Amsterdam tháng 5 năm 1877. Tại
thành phố này ông sống cùng người chú Jan van Gogh, một phó đô đốc hải quân, và
học ôn để thi vào khoa Thần học dưới sự hướng dẫn của Johannes Stricker, một
nhà thần học có tiếng tăm. Tuy vậy Vincent vẫn trượt kì thi đầu vào và ông rời
khỏi nhà chú Jan tháng 7 năm 1878để học
một khóa ba tháng tại trường truyền giáo đạo Tin
Lành (Vlaamsche Opleidingsschool) tại Laeken, gần Brussels.
Borinage
và Brussels (1879-1880)
Ngôi nhà nơi Van Gogh sống trong thời gian ở
Cuesmes năm 1880, tại nơi
đây Van Gogh đã quyết định trở thành một họa sĩ
Tháng 1 năm 1879, Van
Gogh được giao chức vụ người truyền giáo tạm thời tại một làng ở Petit Wasmes thuộc
vùng mỏ than Borinage của Bỉ với
nhiệm vụ đem lại niềm tin tôn giáo cho những người có lẽ là bất hạnh và tuyệt
vọng nhất châu Âu. Vincent đã lựa chọn cuộc sống giống như
những con chiên của ông để chia sẻ sự khó khăn với họ, ông ngủ trên chiếc nệm
rơm trong một túp lều nhỏ phía sau căn nhà của người làm bánh mỳ đã cho ông tá
túc. Tuy
vậy những người quản lý giáo phận cuối cùng lại thải hồi ông vì lý do "hạ
thấp phẩm cách của một giáo sĩ" vì đã chọn cách sống nghèo khổ như vậy.
Van Gogh chuyển về Brussels rồi lại đến làng Cuesmes ở
Borinage trước khi phải quay về "nhà" ở Etten dưới
sức ép của gia đình. Ông ở đây cho đến tháng 3 năm 1880. Trong
thời gian này nhiều mâu thuẫn đã nảy sinh giữa Vincent và cha, cha của họa sĩ
thậm chí còn yêu cầu ông phải vào một nhà thương điên tại Geel. Cuối
cùng Vincent phải trốn về Cuesmes nơi ông trọ trong gia đình người thợ mỏ
Charles Decrucq cho
đến tháng 10. Càng ngày ông càng cảm thấy hứng thú với những con người bình
thường và cảnh vật xung quanh mình và bắt đầu ghi lại những hình ảnh đó bằng
những bức vẽ.
Năm 1880, theo đề nghị của người em trai Theo, Vincent bắt đầu theo
nghiệp hội họa một cách nghiêm chỉnh. Mùa thu năm 1880, ông đến Bruxelles để
theo học họa sĩ Hà Lan nổi tiếng Willem Roelofs, người
đã thuyết phục Van Gogh thi vào Trường mỹ thuật Hoàng gia. Tại đó họa sĩ không
chỉ được học về giải phẫu, mà còn biết thêm những quy tắc chuẩn trong
việc dựng hình và phối cảnh.
Sự
nghiệp
Etten
(1881)
Tháng 4 năm 1881, Van
Gogh tới sống tại vùng đồng quê cùng gia đình ở Etten và tiếp tục vẽ, ông
thường lấy những người hàng xóm làm mẫu cho mình. Trong suốt mùa hè, họa sĩ
dành phần lớn thời gian đi dạo và nói chuyện với người chị họ Kee Vos-Stricker
và Johannes Stricker. Kee
hơn Vincent bảy tuổi và đã có một đứa con trai tám tuổi, tuy vậy ông vẫn tìm
cách cầu hôn và bị từ chối thẳng thừng: "Không, không bao giờ, không bao
giờ" (tiếng Hà Lan: niet, nooit, nimmer). Cuối
năm 1881 ông
đến Amsterdam để xin gặp Kee nhưng một lần nữa bị từ chối. Trong
tuyệt vọng, người họa sĩ đã giơ bàn tay trái hơ lên ngọn lửa đèn và nói:
"Hãy cho tôi nhìn thấy cô ấy chỉ trong thời gian tôi có thể để tay trên
ngọn lửa này". Bố
của Van Gogh và cả Stricker phản đối quyết liệt ý định cưới Kee của ông và
quyết định cắt trợ giúp tài chính. Đến Giáng sinh thì họa sĩ quyết định rời nhà
đi Den
Haag.
Drenthe
và Den Haag (1882–1883)
Nhìn từ ban công ở Den Haag, màu nước
Tháng 1 năm 1882, Van
Gogh đến Den Haag và sống với người họ hàng Anton
Mauve, một họa sĩ và cũng là người khuyến khích Vincent tiếp tục nghề
vẽ. Tuy vậy quan hệ của hai người nhanh chóng trở nên lạnh nhạt, có lẽ vì Mauve
phát hiện ra việc Vincent đi lại như vợ chồng với một cô gái điếm nghiện rượu
tên là Clasina Maria Hoornik (thường được biết đến với tên Sien). Sien
đã có một đứa con gái 5 tuổi và cô ta cũng đang mang thai trong lúc làm quen
với Vincent. Ngày 2 tháng
7, Sien sinh thêm một bé trai lấy tên là Willem. Khi cha của Van
Gogh phát hiện ra mối quan hệ này, ông đã liên tục gây sức ép buộc con mình
phải bỏ cô gái điếm và hai con của cô ta. Tuy vậy họa sĩ vẫn tiếp tục sống với
Sien.
Một người chú khác của Van Gogh là Cornelis, cũng là một nhà
buôn tranh, đã đặt hàng họa sĩ 20 bức vẽ mực về Den Haag, chúng được hoàn thành
vào cuối tháng 5. Tháng
6 năm 1883, Van
Gogh phải nằm viện ba tuần vì mắc bệnh
lậu[31]. Đến
mùa hè, họa sĩ bắt đầu sáng tác bằng sơn dầu.
Mùa thu năm 1883, sau một năm chung sống với Sien, Van Gogh bỏ
cô và hai đứa trẻ. Có thể vì thiếu tiền nên Sien buộc phải quay trở lại
nghề mại dâm, cuộc sống của hai người trở nên ít hạnh
phúc hơn và Vincent cảm thấy nó không thể phù hợp cho sự phát triển về mặt nghệ
thuật của mình. Sau khi ông bỏ đi, Sien trao đứa con gái cho mẹ cô, còn cậu bé
Willem được gửi cho anh trai Sien, còn bản thân cô rời đến Delft và
sau đó là Antwerp. Sau
này, Willem còn nhớ được rằng trong lần cậu được thăm mẹ ở Rotterdam năm
lên 12 tuổi, khi bác của cậu cố khuyên Sien lấy chồng để Willem có cha, mẹ cậu
đã trả lời rằng: "Nhưng em biết cha của nó là ai. Cha của nó là
một họa sĩ em từng chung sống cách đây gần 20 năm ở Den Haag. Tên anh ấy là Van
Gogh".
Năm 1904Sien
gieo mình xuống sông Scheldt tự vẫn.
Sau khi rời Den Haag, Van Gogh chuyển tới tỉnh Drenthe ở
phía Bắc Hà Lan, ông sống một mình ở đây đến tháng 12 thì chuyển về sống với bố
mẹ lúc này đang ở Nuenen, Bắc
Brabant.
Nuenen
(1883–1885)
Tại Nuenen, Van Gogh tập trung hết
sức lực vào việc sáng tác. Mùa thu năm 1884, con
một người hàng xóm của họa sĩ là Margot Begemann, một cô gái hơn Vincent tới 10
tuổi, đã phải lòng ông và Vincent cũng đáp lại tình cảm này. Hai người đã hứa
hôn với nhau nhưng chịu sự phản đối của cả hai gia đình. Sau đó Margot cố tự tử
bằng strychnine và
Van Gogh phải vội đưa cô đến bệnh viện.
Ngày 26
tháng 3 năm 1885, cha
của Van Gogh qua đời sau một cơn đột quỵ, cái chết này đã gây ra nỗi buồn sâu sắc
trong lòng họa sĩ. Cùng lúc đó, giới nghệ thuật ở Paris lần đầu tiên đã quan
tâm tới các tác phẩm của Van Gogh, và chính họa sĩ trong mùa xuân năm 1885 đã
hoàn thành tác phẩm được coi là sáng tác chính đầu tay của ông, bức Những người ăn khoai(tiếng Hà Lan: De Aardappeleters). Tháng 8
cùng năm, các tác phẩm của Van Gogh lần đầu tiên được triển lãm tại Den Haag.
Tháng 9, họa sĩ bị buộc tội đã làm một trong những mẫu của mình có thai, và mặc
dù về sau người này đã thừa nhận cha của đứa trẻ không phải là Van Gogh nhưng
vị giáo sĩ của làng đã cấm dân làng không được tiếp tục làm mẫu cho Van Gogh.
Trong thời gian ở Nuenen, màu sắc ưa thích của Van Gogh là các
tông màu đất, đặc biệt là màu nâu tối, ông không cho thấy sự phát triển cách
dùng màu tươi sáng, phong cách xuất hiện ở các tác phẩm xuất sắc nhất của ông
sau này. Khi Vincent phàn nàn với Theo khi cho rằng em trai đã không làm hết
sức để có thể bán tranh của mình ở Paris, Theo đã trả lời rằng các tác phẩm của
Van Gogh quá u tối và nằm ngoài phong cách phổ biến thời đó là các bức họa tươi
vui của các họa sĩ theo trường phái Ấn tượng. Làm việc hai năm ở Nueen, họa
sĩ đã sáng tác rất nhiều bức vẽ và màu nước, ngoài ra còn có gần 200 bức họa
hoàn chỉnh.
Antwerp
(1885–1886)
Tháng 11 năm 1885 Van
Gogh chuyển tới Antwerp và thuê một căn buồng nhỏ phía trên
một cửa hiệu bán tranh ở phố Rue des Images. Họa
sĩ có rất ít tiền và ăn uống đạm bạc, ông dành phần lớn số tiền Theo gửi cho để
mua vật liệu sáng tác và trả tiền cho người mẫu. Bánh mỳ, cà phê và thuốc lá là
những thứ Vincent dùng thường xuyên nhất. Tháng 2 năm 1886, Van
Gogh viết thư cho Theo kể lại chuyện ông nhớ mình được ăn thịt nóng lần cuối là
từ tháng 5 năm trước đó và hàm răng của họa sĩ bắt đầu yếu dần gây ra nhiều đau
đớn.
Ngoài thời gian sáng tác, Van Gogh nghiên cứu thêm về lý thuyết
màu sắc và đi chiêm ngưỡng các tác phẩm tại bảo tàng thành phố, đặc biệt là các
bức tranh của Peter
Paul Rubens, những tác phẩm đã khích lệ họa sĩ trong việc dùng các màu sắc
tươi sáng hơn như màu son, màu xanh cô
ban và màu xanh
lục. Ông cũng mua một số bức tranh khắc gỗ của Nhật
Bản (Ukiyo-e) và sử dụng nó làm nền cho một số tác phẩm
của mình[32]. Trong thời gian này ông cũng
bắt đầu nghiện rượu absinthe và
còn phải chữa bệnh (rất có thể là giang
mai[33]) dưới
sự điều trị của bác sĩ Cavenaile.
Tháng 1 năm 1886, Van
Gogh trúng tuyển vào Trường Mỹ thuật Antwerp (École des Beaux-Arts d'Anvers).
Trong phần lớn tháng 2 họa sĩ bị ốm, phần lớn là do lao lực, ăn uống kém và hút
quá nhiều thuốc.
Paris
(1886–1888)
Tháng 3 năm 1886, họa
sĩ chuyển tới Paris để học tại xưởng vẽ của Fernand Cormon. Ban
đầu ông và Theo ở tại đường Rue Laval trong khu đồi Montmartre. Đến
tháng 6 thì hai anh em chuyển về một căn hộ rộng hơn ở số 54 phố Rue Lepic, nằm
ở phía trên đồi. Vì thời gian này hai anh em ở gần nhau, các bức thư liên lạc
giữa hai người không còn và người ta không biết rõ những hoạt động của họa sĩ
trong thời gian ông ở Paris.
Vincent làm việc vài tháng trong xưởng vẽ của Cormon nơi ông
thường tiếp xúc với họa sĩ người Úc John Peter Russell cũng
như hai họa sĩ người Pháp là Émile Bernard và
đặc biệt là Henri de Toulouse-Lautrec.
Trong thời gian này ở Paris, không khó để chiêm ngưỡng và nghiên
cứu tác phẩm của các họa sĩ theo trường phái Ấn tượng. Ví dụ năm 1886, hai
triển lãm lớn của các họa sĩ tiên phong trong trường phái này đã được tổ chức ở
thủ đô nước Pháp, đó là Triển lãm lần thứ 8 và cuối cùng của các họa sĩ Ấn
tượng và Triển lãm của các họa sĩ độc lập (Artistes Indépendants). Trong
hai cuộc trưng bày này, lần đầu tiên chủ nghĩa Tân ấn tượng (Neo-Impressionism) ra mắt
công chúng với các bức tranh của Georges
Seurat và Paul
Signac. Bản thân Theo van Gogh cũng buôn bán rất nhiều bức tranh thuộc
trường phái Ấn tượng của các họa sĩ nổi danh như Claude
Monet, Alfred
Sisley, Edgar Degas và Camille
Pissarro, tuy vậy Vincent rõ ràng là gặp khó khăn trong việc nắm bắt
tinh thần của các tác phẩm đang được ưa chuộng này. Bắt đầu có những mâu thuẫn
giữa hai anh em và đến cuối năm 1886 thì hai người bắt đầu sống riêng nhưng rồi
lại nhanh chóng làm lành vào mùa xuân năm 1887.
Sau đó Van Gogh đến Asnières và
làm quen với Paul Signac. Tại đây Vincent cùng người bạn của ông là
Emile Bernard đã thử nghiệm một số bức tranh theo trường phái Điểm họa ("pointillé").
Tháng 11 năm 1887, Theo
và Vincent đã gặp và kết bạn với họa sĩ Paul
Gauguin, người vừa mới quay lại Paris sau thời gian sống ở nước ngoài[34]. Cuối năm này, Van Gogh đã tổ
chức một buổi triển lãm chung với Bernard, Anquetin và Toulouse-Lautrec ở nhà hàng
Restaurant du Chalet trên đồi Montmartre. Tại buổi triển lãm này, Bernard và
Anquetin đã bán được các tác phẩm đầu tiên, còn Vincent thì trao đổi được tác
phẩm với Gauguin, người ngay sau đó đã rời đi Pont-Aven.
Tháng 2 năm 1888, cuối
cùng Van Gogh cũng cảm thấy chán ngán cuộc sống ở Paris, ông rời Kinh đô Ánh
sáng sau khi đã hoàn thành hơn 200 bức họa trong 2 năm ở đây. Chỉ vài giờ trước
khi rời thành phố, ông cùng Theo đã có chuyến thăm lần đầu tiên và cũng là duy
nhất đến nhà của họa sĩ Seurat[35].
Quán cà phê
đêm ở Arles,
tháng 9 năm 1888
Arles
(tháng 2 năm 1888–tháng 5 năm 1889)
Ngày 21
tháng 2 năm 1888, Van
Gogh đến Arles. Trong
hai tháng, ông làm việc cùng họa sĩ người Đan Mạch Christian
Mourier-Petersen. Ngày 1 tháng
5, họa sĩ ký hợp đồng thuê một căn hộ bốn buồng với giá 15 franc một
tháng nằm bên phải của Nhà Vàng tại
số 2 Quảng trường Lamartine. Tháng 6, Van Gogh đi thăm thị trấn ven biển Saintes-Maries-de-la-Mer. Tại đây ông nhận dạy vẽ cho
một sĩ quan tên là Paul-Eugène
Milliet, người sau đó cũng trở thành bạn của họa sĩ. Từ tháng 8, ông
bắt đầu sáng tác về đề tài hoa hướng dương.
Ngày 23
tháng 10, Gauguin đến Arles theo
lời mời của Van Gogh. Trong suốt tháng 11 hai họa sĩ làm việc cùng nhau, cũng
trong tháng này Van Gogh đã sáng tác bức tranh nổi tiếng Cánh đồng nho đỏ. Tháng
12 cả hai họa sĩ đi thăm Montpellier và
chiêm ngưỡng các tác phẩm của Courbet và Delacroix trong bảo tàng Museé Fabre. Tuy nhiên
sau đó tình bạn của hai người trở nên xấu đi vì những xung đột về nghệ thuật.
Van Gogh sợ rằng Gauguin sẽ rời bỏ ông, căng thẳng lên đến đỉnh điểm vào
ngày 23 tháng 12 năm 1888 khi
Vincent đuổi theo Gauguin với một lưỡi dao cạo trong tay và sau đó lại tự
cắt phần dưới tai trái của chính mình, gói nó vào một tờ báo,
đưa cho cô gái điếm Rachel ở nhà thổ trong vùng và yêu cầu cô này giữ cẩn thận.
Cuối cùng thì Gauguin vẫn rời Arles và không bao giờ gặp lại Van Gogh một lần
nữa. Vincent phải nhập viện trong tình trạng nguy kịch, ông ngay lập tức được
Theo đến thăm nom. Tháng 1 năm 1889, Van
Gogh trở lại "Nhà Vàng" nhưng liên tục phải đến bệnh viện vì
gặp ảo giác, ông còn mắc chứng hoang tưởng khi nghĩ mình bị đầu độc. Đến tháng
3, sau khi nhận được yêu cầu từ những người hàng xóm, cảnh sát đã quyết định
đóng cửa ngôi nhà của Van Gogh. Đến tháng 4 thì ông dọn về căn phòng của bác
sĩ Felix Rey sau
khi những trận lụt làm hư hại các tác phẩm của ông. Bác sĩ Felix Rey cho
rằng Van Gogh bị chứng động kinh một phần do uống quá nhiều cà phê và rượu, lại
ăn ít thức ăn. Ông đã kê thuốc an thần giảm đau và khuyên Van Gogh uống
rượu cinchona có chứa chiết xuất ký ninh.
Tuy nhiên, theo bà Bernadette Murphy -
tác giả quyển "Van Gogh's War: The True Story" .Bà đã tìm ra bức
vẽ của bác sĩ Felix Rey trong
một kho lưu trữ ở California. Nó nằm trong đống giấy tờ của tiểu thuyết
gia Irving Stone -
người đã trao đổi thư từ với bác sĩ Rey năm 1930. Bốn năm sau, tác giả Stone đã
xuất bản cuốn tự truyện hư cấu Lust for Life, trong
đó diễn viên Kirk Douglas vào vai Van Gogh. Bà đã tìm được một
bức thư trong đó có các hình vẽ tai trái của Van Gogh trước và sau khi ông tự
cắt tai mình. Người vẽ chính là bác sĩ Felix Rey, người đã điều trị vết thương
cho danh họa trong bệnh viện. Hình vẽ là đường nét phác họa hình dạng tai của
Van Gogh trên tờ giấy kê đơn thuốc. Hình thứ nhất vẽ cái tai còn nguyên vẹn.
Hình thứ hai cho thấy cái tai chỉ còn lại một mẩu nhỏ phía dưới. Vậy là danh
họa đã xẻo gần như toàn bộ tai, chứ không chỉ một mẩu.[36]
Saint-Rémy
(tháng 5 năm 1889–tháng 5 năm 1890)
Ngày 8 tháng
5 năm 1889 Van
Gogh phải nhập viện tại bệnh viện tâm thần Saint-Paul-de-Mausole nằm trong một
tu viện cũ ở Saint Rémy de Provence không
xa Arles. Tu viện nằm cách biệt với thị trấn và ở giữa những cánh đồng ngô, nho và ô liu. Theo
van Gogh sắp xếp cho anh trai có hai buồng nhỏ trong bệnh viện, một buồng dành
riêng làm xưởng vẽ. Trong thời gian chữa trị tại đây, phòng khám và khu vườn
của bệnh viện đã trở thành những đề tài chính của họa sĩ. Một số tác phẩm của
Van Gogh trong thời kỳ này có đặc trưng là các xoáy ốc, tiêu biểu là bức tranh
nổi tiếng Đêm đầy sao. Trong tháng 9, họa sĩ thực
hiện hai phiên bản mới của bức Phòng ngủ ở Arles và đến tháng 2 năm 1890 thì
ông vẽ bốn bức chân dung có tên L'Arlésienne (Người
Arles, chỉ bà Ginoux), dựa trên những phác thảo bằng chì than của Gauguin.
Tháng 1 năm 1890, tác phẩm của Van Gogh được Albert Aurier ca
ngợi tại trên tạp chí Mercure de France, nhà
phê bình này đã gọi Vincent là một thiên tài. Trong tháng 2, Van Gogh được
nhóm Les XX, một tập hợp các họa sĩ
tiên phong ở Brussels, mời tham gia triển lãm tranh thường niên
của nhóm. Sau đó, khi tranh của Van Gogh được trưng bày trong triển lãm của
nhóm Nghệ sĩ Độc lập (Les Artistes Indépendants) ở Paris, Monet đã
nhận xét rằng tác phẩm của Vincent là tuyệt vời nhất trong cả triển lãm[37].
Auvers-sur-Oise
(tháng 5 đến tháng 7 năm 1890)
Vincent van Gogh, tranh phấn màu của Toulouse-Lautrec,
1887
Tháng 5 năm 1890, Van
Gogh rời bệnh viện và đến trị liệu với bác sĩ Paul Gachet ở Auvers-sur-Oise, nằm
gần Paris, nơi ông có thể ở gần hơn với em trai Theo. Bác sĩ Gachet được Camille
Pissarro giới thiệu cho anh em Van Gogh vì trước đó ông này đã từng
chữa cho một số họa sĩ và bản thân cũng là một họa sĩ nghiệp dư. Ấn tượng đầu
tiên của Vincent về Gachet là "ông ta trông còn ốm yếu hơn cả
tôi"[38]. Sau
đó Van Gogh đã vẽ hai bức chân dung bác sĩ bằng màu dầu, một bức khác khắc
axit, cả ba bức đều miêu tả Gachet trong một tư thế u sầu. Trong tuần cuối ở
Saint-Rémy, Van Gogh lại nhớ lại những kỷ niệm ở phương Bắc[39] và
một số trong khoảng 70 bức tranh ông vẽ trong 70 ngày ở Auvers-sur-Oise, như
bức Nhà thờ ở Auvers đã
gợi đến những phong cảnh ở phương Bắc.
Tình trạng bệnh lý của Van Gogh ngày càng trầm trọng, ngày 27
tháng 7 năm 1890, ở
tuổi 37, người họa sĩ đã bước ra cánh đồng và tự bắn vào ngực bằng một
khẩu súng lục. Không nhận ra rằng mình đã bị thương
nặng, Vincent quay trở lại hoàn thành bức tranh Chân
dung Adeline Ravoux. Hai ngày sau ông qua đời trên giường ngủ,
câu cuối cùng mà Theo nghe được từ miệng anh trai mình là:
"La tristesse durera toujours" - "Nỗi
buồn sẽ kéo dài mãi mãi"
Vincent được chôn tại
nghĩa trang của vùng Auvers-sur-Oise[40]. Không
lâu sau cái chết của anh trai, Theo cũng nhập viện vì bị động
kinh, ông mất ngày 25
tháng 1 năm 1891 tại Utrecht, chỉ 6 tháng sau cái chết của Vincent.
Năm 1914, Theo
được cải táng về bên cạnh người anh trai yêu quý của ông.
Phong
cách và tác phẩm
Phát
triển thiên hướng nghệ thuật
https://s20.postimg.cc/4zkom2kzx/Vincent_van_Gogh_-_Starry_Night.jpg
Van Gogh đã vẽ và tô màu nước trong khi còn ngồi trên ghế nhà
trường, nhưng chỉ có một vài bức tranh loại này tồn tại và cũng không chắc chắn
về tác giả [41]. Khi
ông bắt đầu nghiệp vẽ khi đã lớn, ông bắt đầu ở cấp tiểu học. Vào đầu năm 1882,
chú của ông, Cornelis Marinus, chủ một phòng trưng bày nghệ thuật đương đại nổi
tiếng ở Amsterdam, đã yêu cầu có một bức tranh vẽ La Hay. Tác
phẩm của Van Gogh không đạt được mong đợi. Marinus đã ủy nhiệm Van Gogh lần thứ
hai, chỉ rõ vấn đề rất chi tiết, nhưng lại phải thất vọng với kết quả. Van Gogh
đã kiên trì; ông đã thử nghiệm ánh sáng trong studio của mình bằng các thay đổi
cửa chớp và thử với các chất liệu vẽ khác nhau. Trong hơn một năm, ông chỉ làm
việc trên những đơn hình mẫu - nghiên cứu rất tỉ mỉ với màu đen và trắng. Thời
điểm đó, các bức vẽ của ông đã bị chỉ trích. Sau này, chúng đã được công nhận
là những kiệt tác đầu tiên. [42]
Vào tháng 8 năm 1882, em trai Theo đã cho ông tiền để mua chất
liệu để có thể vẽ ngoài trời (en-plein-air). Vincent đã viết rằng bây
giờ anh có thể "tiếp tục vẽ với nghị lực mới" [43] Từ
đầu năm 1883, ông làm việc trên các sáng tác đa hình mẫu. Ông đã chụp ảnh lại
một số bức, nhưng khi em trai của ông nhận xét rằng chúng thiếu sự sống động và
tươi tắn, ông đã tự hủy chúng và chuyển sang sơn dầu. Van Gogh đã chuyển sang
các họa sỹ nổi tiếng của trường phái Hague như Weissenbruch và Blommers, và
nhận được những lời khuyên về kỹ thuật từ họ. Ông cũng học hỏi từ các hoạ sĩ
như De Bock và Van der Weele, cả hai đều là thế hệ thứ hai của trường phái
Hague [44]. Khi
ông chuyển đến Nuenen sau thời gian ở Drenthe, ông bắt đầu một số bức tranh lớn
nhưng cũng hủy hầu hết trong số chúng. Những người ăn khoai (The Potatto Eaters) và
bản vẽ đi kèm là những gì duy nhất còn sót lại [44]. Sau
chuyến viếng thăm Rijksmuseum, Van
Gogh đã viết về sự ngưỡng mộ của ông đối với những nét đánh bút nhanh, tinh tế
của các bậc thầy Hà Lan, đặc biệt là Rembrandt và Frans Hals [45]. Ông
biết rằng nhiều lỗi của ông là do thiếu kinh nghiệm và chuyên môn kỹ
thuật [44], vì
vậy vào tháng 11 năm 1885 ông sang Antwerp và
sau đó là Paris để học hỏi và phát triển kỹ năng của mình [46].
Người gieo hạt, 1850
Theo đã phê bình Những người ăn khoai vì bảng
màu tối của nó, ông nghĩ nó không phù hợp với một phong cách hiện đại. [47]Trong
thời gian lưu lại của Van Gogh ở Paris giữa năm 1886 và năm 1887, ông đã cố
gắng làm chủ một bảng màu mới, sáng hơn. Chân dung của ông vẽ Père Tanguy (1887)
cho thấy sự thành công của ông với bảng màu sáng hơn, và là dấu hiệu của một
phong cách cá nhân đang phát triển [48]. Bài
luận của Charles Blanc về màu sắc đã làm ông quan tâm rất nhiều, và ông đã làm
việc với màu sắc bổ sung. Van Gogh tin rằng tác động của màu sắc đã vượt qua
các mô tả bình thường; ông nói rằng "màu sắc tự nó đã thể
hiện một cái gì đó" [49]. [50] Theo
Hughes, Van Gogh đã nhận ra màu sắc có "giá trị về tâm lý và đạo
đức", như được minh họa trong những màu đỏ tươi và màu xanh lá cây của
bức Quán cà phê đêm (The
Night Cafe), một tác phẩm mà ông muốn "thể hiện sự đam mê ghê gớm của nhân
loại". [51] Màu
vàng có ý nghĩa nhiều nhất đối với ông, bởi vì nó tượng trưng cho chân lý cảm
xúc. Ông sử dụng màu vàng như là một biểu tượng cho ánh sáng mặt trời, cuộc
sống, và Chúa. [52]
Van Gogh đã cố gắng để trở thành một họa sĩ về cuộc sống và
thiên nhiên ở nông thôn, [53] và
trong suốt mùa hè đầu tiên của ông ở Arles, ông đã sử dụng bảng màu mới để vẽ
cảnh quan và cuộc sống nông thôn truyền thống [54]. Ông
có niềm tin rằng có một sức mạnh tồn tại đằng sau thiên nhiên
đã khiến ông cố gắng để có một cảm giác về sức mạnh đó, cũng như vậy dối với
tinh tuý của thiên nhiên trong nghệ thuật của mình, đôi khi thông qua việc sử
dụng các biểu tượng [55] Những
diễn giải của ông về Người gieo hạt (The Sower), một bản sao
tranh của Jean-François Millet, phản ánh niềm tin tôn giáo
của Van Gogh: người gieo hạt như Chúa
Giê-su gieo sự sống dưới ánh mặt trời nóng bỏng [56] Đây
là những chủ đề và họa tiết mà ông thường quay trở lại để tái sử dụng và phát
triển.[57] Những
bức tranh hoa của ông chứa đầy biểu tượng, nhưng thay vì sử dụng biểu tượng
Thiên chúa giáo truyền thống, ông tự tạo ra những biểu tượng của mình, đó là
cuộc sống dưới ánh mặt trời và công việc là một dụ ngôn về
cuộc đời. [58] Hồi
ở Arles, ông đã có được sự tự tin sau khi vẽ hoa mùa xuân và học cách nắm bắt
ánh sáng mặt trời, ông đã sẵn sàng để vẽ Người gieo hạt .[49]
Van Gogh ở trong cái mà ông gọi là "lớp phủ của thực
tại", [59] và
phê bình những tác phẩm cách điệu quá mức [60]. Ông
đã viết sau này rằng sự trừu tượng trong bức Đêm đầy sao đã đi quá xa, còn hiện
thực thì "lùi về sau quá nhiều". [60] Hughes
mô tả bức tranh như là một khoảnh khắc cực kỳ ngây ngất về thị giác: các ngôi
sao đang ở trong một xoáy tuyệt vời, có thể làm ta gợi nhớ lại cơn sóng thần
Hokusai, sự chuyển động trên trời cao được phản chiếu bởi sự chuyển động của
cây bách trên mặt đất bên dưới, và tầm nhìn của họa sĩ đã được "dịch thành
một lớp sơn dày, mạnh mẽ". [61]
Kí ức ở vườn Etten, 1888. Bảo tàng Hermitage, St Petersburg
Giữa năm 1885 và cái chết của ông vào năm 1890, Van Gogh dường
như đang xây dựng một oeurve (một bộ các tác phẩm), đó sẽ là một
bộ sưu tập phản ánh cái nhìn cá nhân của ông và có thể thành công về mặt thương
mại. Ông bị ảnh hưởng bởi định nghĩa của Blanc về phong cách, rằng một bức
tranh đích thực yêu cầu sử dụng tối ưu màu sắc, phối cảnh và các nét đánh bút.
Van Gogh đã áp dụng từ "có mục đích" đối với những bức tranh mà ông
nghĩ ông đã làm chủ được, trái ngược với những gì ông nghĩ là nghiên cứu hay
thử nghiệm [62]. Ông
đã vẽ rất nhiều những thử nghiệm như vậy, hầu hết là được giữ lại, một số thì
hủy như các thí nghiệm về màu sắc hoặc làm quà tặng cho bạn bè [63]. Tác
phẩm của Arles góp phần đáng kể cho oeurve của ông: những tác
phẩm mà ông cho là quan trọng nhất từ lúc đó là Người gieo hạt, Quán
cà phê đêm, Kí ức vườn ở Etten (Memory of the Garden in
Etten) và Đêm đầy sao. Với những lượng lớn nét cọ,
những điểm nhìn sáng tạo, màu sắc, đường viền và thiết kế, những bức tranh này
đại diện cho phong cách mà ông đã tìm kiếm [60].
Những
loạt tác phẩm chính
Sự phát triển về phong cách của Van Gogh thường liên quan đến
những khoảng thời gian ông sống ở những nơi khác nhau trên khắp châu Âu. Ông có
khuynh hướng đắm mình trong văn hoá địa phương và điều kiện ánh sáng, mặc dù
ông vẫn giữ một cái nhìn cá nhân rất cao. Con đường thăng tiến của ông với tư
cách là một họa sĩ rất chậm chạp, ông cũng tự nhận thức được những hạn chế của
mình. Ông thường xuyên về nhà, có thể để tìm ra những kích thích thị giác mới,
và tiếp tục phát triển kỹ năng của mình [64]. Nhà
sử học nghệ thuật Melissa McQuillan tin
rằng những lần di chuyển này cũng phản ánh những thay đổi về phong cách sau
này. Và Van Gogh cũng dùng những lần di chuyển này này để tránh xung đột và
cũng như một hình thức đấu tranh khi Van Gogh-một họa sĩ mơ mộng và lý tưởng
hóa cuộc sống lại phải đối mặt với sự thực nghiệt ngã của nó. [65]
Chân dung
L'Arlésienne: Bà Ginoux với những quyển sách, Tháng 11 1888. Bảo tàng Nghệ thuật Trung tâm, New York
Những bức chân dung đã cho Van Gogh cơ hội tốt nhất để kiếm thu
nhập. Ông tin rằng tranh chân dung là "thứ duy nhất trong các bức tranh
làm tôi cảm động sâu sắc và cho tôi cảm giác về vô tận" [66] [67]. Ông
viết cho chị gái mình rằng ông muốn vẽ chân dung mà sẽ trường tồn, và ông sẽ sử
dụng màu sắc để nắm bắt cảm xúc và tính cách của họ hơn là vẽ tả thực như chụp
ảnh[68] Những người thân cận nhất
với Van Gogh hầu như không có mặt trong loạt tranh chân dung của ông; ông hiếm
khi vẽ Theo, Van Rappard hoặc Bernard. Những bức chân dung của mẹ ông là vẽ từ
ảnh chụp [69].
Vào tháng 12 năm 1888, ông đã vẽ bức La Berceuse -
một hình mẫu mà ông cho là tốt như những bông hoa hướng dương ông từng vẽ. Bức
tranh có không dùng nhiều màu, những nét cọ khác nhau và các đường nét đơn
giản [60] Nó
dường như là đỉnh cao trong loạt chân dung của gia đình Roulin hoàn thành tại
Arles giữa tháng mười một và tháng mười hai. Các bức chân dung cho thấy một sự
thay đổi trong phong cách từ những nét cọ mềm, bị kiểm soát và ngay cả bề mặt
bức Chân dung của người đưa thư đến phong cách cuồng phóng, bề
mặt thô ráp, những nét cọ rộng và sử dụng dao bảng màu trong bức Bà
Roulin với em bé (Madame Roulin with Baby) [70]
Chân dung mẹ họa
sĩ, Tháng 10, 1888, Bảo tàng nghệ thuật Norton
Simon, Pasadena, California
Eugène Boch, (Nhà thơ trên nền đêm đầy sao), 1888, Musée
d'Orsay, Paris
Chân dung của
người đưa thư Joseph Roulin (1841–1903)
đầu tháng 8 1888, Bảo tàng Mỹ thuật, Boston
Chân dung
tự họa
Van Gogh đã tạo ra hơn 43 bức chân dung tự họa trong khoảng thời
gian từ 1885 đến 1889.[71] Hiếm
có họa sĩ nổi tiếng có thể vượt qua số chân dung tự họa như vậy, Rembrandt là
một ví dụ, ông có hơn 50 bức tự họa nhưng lại được vẽ trong khoảng 40 năm[71]. Chúng
thường được hoàn thành theo chuỗi, chẳng hạn như những bức vẽ ở Paris vào giữa
năm 1887, và tiếp tục như vậy cho đến một thời gian ngắn trước khi ông
mất [72] Nói
chung, những bức chân dung là những nghiên cứu, thử nghiệm của ông. Chúng được
vẽ trong những giai đoạn hướng vào nội tâm khi ông không muốn hòa hợp với người
khác, hoặc khi thiếu các hình mẫu, vậy là ông tự vẽ bản thân.[73] [66]
Chân dung tự họa phản ánh mức độ tự-xét-mình cao bất thường[74]. Thường thì chúng được dùng để
đánh dấu những giai đoạn quan trọng trong cuộc đời của ông, ví dụ như loạt
tranh Paris vào giữa năm 1887 được vẽ ở điểm ông được biết đến Claude
Monet, Paul
Cezanne và Signac[75]. Trong bức Chân dung
tự họa với mũ nỉ xám (Self-Portrait with Grey Felt Hat) các lớp sơn
lớn còn tràn ra ngoài tấm voan (canvas). Đó là một trong những bức chân dung tự
nổi tiếng nhất của ông trong thời kỳ đó, "với những cú đánh bút nhịp nhàng
được tổ chức tuyệt vời, và hào quang kì lạ xuất phát từ các tác phẩm Tân-Ấn
tượng chính là cái mà Van Gogh tự gọi là 'có mục đích' "[76]
Có thể chỉ nhìn các bức chân dung để đoán thực trạng của ông và
có thể là cả tương lai của ông (Nhân tướng học). [71] Tình
trạng tinh thần và thể chất của Van Gogh thường hiện rõ ràng; ông có thể hiện
lên khá bù xù, râu không cạo hoặc không được chăm sóc, với đôi mắt sâu hoắm,
hàm dưới yếu, hoặc bị mất răng. Một vài bức cho thấy ông với môi đầy đủ, khuôn
mặt dài hoặc hộp sọ nổi lên, hoặc trông gai góc, đó là các dấu hiệu cảnh báo
điềm dữ. Tóc của ông có thể là màu đỏ thông thường, hoặc vào một vài thời điểm
là màu tro. [71]
Cái nhìn của Van Gogh ít khi hướng vào người xem. Chân dung khá
phong phú về cường độ và sắc độ, và trong những bức vẽ sau tháng 12 năm 1888
đặc biệt, những màu sắc sống động làm nổi bật làn da xanh xao của ông.[73] Một
số bức mô tả ông với râu, một số khác không có. Đôi khi ta có thể được nhìn
thấy băng gạc trong các bức chân dung được thực hiện ngay sau khi ông cắt tai.
Chỉ có một vài bức ông khắc họa mình như một hoạ sĩ [71]. Những
bức vẽ Saint-Rémy cho thấy đầu từ bên phải, bên đối diện với tai bị hủy của
ông, đó là ông vẽ mình phản chiếu qua tấm gương [77] [78].
Những
bông hoa
Hoa hạnh nhân (Almond
Blossom), 1890. Bảo tàng Van Gogh, Amsterdam
Van Gogh đã vẽ nhiều tranh phong cảnh với hoa, có thể đến hoa
hồng, hoa violet, hoa diên vĩ và hoa hướng dương. Một số phản ánh sự quan tâm
của ông bằng ngôn ngữ của màu sắc, và cũng tương tự như tranh ukiyo-e của
Nhật [79]. Có
hai chuỗi tranh vẽ hoa hướng dương đang dần tàn. Chuỗi tranh đầu tiên được thực
hiện ở Paris vào năm 1887 và vẽ những bông hoa nằm trên mặt đất. Tập thứ hai
được hoàn thành một năm sau ở Arles, vẽ bó hoa trong bình đặt trong ánh nắng
buổi sáng sớm [80].
Theo Phòng
tranh Quốc gia London, cả hai đều được vẽ bằng một lớp sơn rất dày (Impasto),
gợi lên "bề mặt của rất nhiều đầu hạt". [81]
Trong những loạt tranh này, Van Gogh không tính toán trước sẽ vẽ
gì vì mối quan tâm bình thường của ông khi sơn các bức tranh của ông là chủ
quan và cảm xúc. Rất hiếm tranh trong loạt tranh này nhằm mục đích thể hiện kỹ
thuật và phương pháp của ông với Gauguin, [82] một
họa sĩ sắp tới thăm. Những bức tranh năm 1888 được tạo ra trong một thời kỳ lạc
quan hiếm có của nghệ sĩ. Vincent đã viết cho Theo vào
tháng 8 năm 1888, "Anh đang vui vẻ vẽ bức tranh của một người Mác-xây (Marseille)
ăn bouillabaisse (một món súp), điều đó sẽ không làm em ngạc
nhiên nếu đó là câu hỏi về việc vẽ những bông hoa hướng dương lớn... Nếu anh
thực hiện kế hoạch này, có thể sẽ có một tá hoặc một loạt tranh như vậy. Tất cả
sẽ là một bản giao hưởng của màu xanh lam và màu vàng. Anh đã vẽ chúng suốt cả
những buổi sáng này, từ lúc mặt trời mọc. Vì hoa sẽ héo nhanh chóng nên vấn đề
là phải làm toàn bộ việc trong một lần duy nhất. " [83]
Các tranh hoa hướng dương được vẽ để trang trí các bức tường
trong chuẩn bị cho chuyến thăm của Gauguin, và
Van Gogh đặt một số tác phẩm xung quanh phòng khách của Nhà tiếp khách
màu Vàng ở Arles. Gauguin đã
rất ấn tượng và sau đó mua lại hai phiên bản ở Paris.[82] Sau khi Gauguin ra về,
Van Gogh đã tưởng tượng hai phiên bản chính của hoa hướng dương như hai bên
của La Berceuse và đưa chúng vào triển lãm Les XX tại Brussels. Ngày
nay, những tác phẩm chính của bộ tranh là một trong những tác phẩm nổi tiếng
nhất của ông, chúng được tôn vinh vì màu vàng với sắc nghĩa ảm đạm, sự kết hợp
của bức tranh với Nhà Vàng ở Arles, những nét quét bút biểu
hiện mạnh mẽ, và sự tương phản tuyệt vời sáng-tối giữa hoa và nền. [84]
Cây
bách hay hoàng đàn
Có mười lăm tấm canvas mà ông mô tả cây bách, loài cây mà ông đã
bị mê hoặc khi thấy chúng ở Arles [85] .
Ông đã mang sự sống cho những cây cối, vốn được coi là biểu tượng của cái
chết [86]. Loạt
tranh cây bách mà ông bắt đầu ở Arles miêu tả những cây ở phía xa, ví dụ như
những cây chắn gió ở đồng ruộng; khi ông ở Saint-Rémy, ông đã đưa chúng đến gần
hơn.[87] Vincent đã viết cho Theo
tháng 5 năm 1889: "Những cây bách đó vẫn còn làm anh bận tâm, anh nên làm
một cái gì đó với chúng như anh đã làm với những bức tranh hoa hướng
dương"; ông tiếp tục nói, "Chúng thật xinh đẹp và cân đối, giống như
một cột tưởng niệm Ai Cập vậy"[88]
Vào giữa năm 1889, và theo yêu cầu của chị gái Wil, Van Gogh đã vẽ một số phiên
bản nhỏ hơn của bức Đồng lúa mỳ với những cây bách (Wheat
Field with Cypresses) [89]Các tác
phẩm được đặc trưng bởi những vòng xoáy và sử dụng kỹ thuật impasto với
lớp sơn dầu rất dày. Cũng phải kể đến Đêm đầy sao, trong đó cây
bách là điểm nhấn nổi bật trên mặt đất . [85]
Các tác phẩm khác trong thời kỳ này bao gồm Những cây
oliu ở vùng Alpilles (Olive Trees with the Alpilles in the Background)
(1889), trong bức thư gửi em trai Van Gogh viết: "Cuối cùng, anh cũng có
một bức phong cảnh với cây ô liu" [90]), Những
cây bách (Cypresses) (1889), Cây bách với hai hình mẫu (Cypresses
with Two Figures) (1889-90), và Con đường cùng cây bách và sao (Road
with Cypress and Star) (1890). [90] Trong
khi ở Saint-Rémy, Van Gogh đã dành thời gian đi ra ngoài
nhà thương, nơi ông vẽ là trong các vườn ươm oliu. Trong các tác phẩm đó, cuộc
sống thiên nhiên được thể hiện dữ dội, thô ráp, xoáy chặt lẫn nhau. Có vẻ đó là
một thế giới tự nhiên đã được nhân hóa. Theo Hughes, các tác phẩm đó chứa
đựng "một dòng năng lượng liên tục mà tự nhiên chỉ là biểu hiện của
nó" [86].
Những cây
ăn quả
Cây đào hồng trổ hoa (Hồi niệm về Mauve), màu nước, tháng 3 1888. Bảo tàng Kröller-Müller
Cây ăn quả trổ hoa (Flowering Orchards) là
một trong những loạt tác phẩm hoàn thành đầu tiên sau khi Van Gogh tới Arles
vào tháng 2 năm 1888. 14 bức tranh lạc quan, vui tươi và cho ta nhìn thấy mùa
xuân đang vươn mình. Chúng có phần nhạy cảm và thật tinh tế. Các bức tranh này
không vẽ con người. Ông đã vẽ khá nhanh, và mặc dù ông khắc họa loạt tranh này
đi theo trường phái Ấn tượng, một phong cách cá nhân mạnh
mẽ đã bắt đầu xuất hiện trong thời kỳ này. Những bông hoa chóng tàn, trời đất
thì vẫn xoay vần, dường như những điều này phù hợp với cảm giác vô thường và niềm tin của ông vào
một khởi đầu mới ở Arles. Trong lúc trăm hoa đua nở của mùa xuân, ông đã tìm
thấy "một thế giới của các họa tiết không thể Nhật
Bản hơn" [91].
Vincent đã viết cho Theo ngày 21 tháng 4 năm 1888 rằng ông đã vẽ 10 vườn cây và
"một bức tranh của một cây anh đào lớn, mà anh đã làm hỏng"[92].
Trong thời kỳ này, Van Gogh đã thuần thục được việc sử dụng ánh
sáng bằng cách chinh phục những khoảng tối và vẽ những cây như thể chúng là
nguồn ánh sáng - gần như theo một cách thiêng liêng.[91] Đầu
năm sau, ông vẽ một nhóm vườn nhỏ khác, bao gồm bức Cảnh quan Arles,
cây ăn quả ra hoa (View of Arles, Flowering Orchards) [93]. Van
Gogh bị mê hoặc bởi phong cảnh và thực vật ở miền nam nước Pháp, và thường
xuyên thăm viếng các vườn nông gần Arles. Trong ánh sáng sống động của khí hậu Địa Trung Hải, bảng màu của ông đã sáng lên
rõ rệt [94].
Đồng lúa
mỳ
Đồng lúa mỳ dưới bầu trời vần vũ, 1890, Bảo tàng Van Gogh, Amsterdam, Hà Lan
Van Gogh đã vẽ một số bức tranh trong các lần đi vãn cảnh quanh
vùng Arles. Ông đã vẽ tranh về mùa gặt, những cánh đồng lúa mỳ và các địa danh
nông thôn khác trong khu vực, có thể kể đến bức Cối xay cũ (The
Old Mill) (1888); một ví dụ điển hình về một kiến trúc đẹp nên thơ còn xa xa
đằng sau là cánh đồng lúa mỳ.[95] Tại những địa điểm khác
nhau, Van Gogh vẽ bức tranh từ góc nhìn cửa sổ nhà mình - như tại The Hague,
Antwerp, và Paris. Những tác phẩm kiểu này đã lên đến đỉnh cao trong loạt
tranh Đồng lúa mỳ (The Wheat Field), mô tả góc
nhìn qua cửa sổ của phòng ông trong nhà thương tại Saint-Rémy [96].
Dù rất nhiều bức tranh sau này mang sắc ảm đạm nhưng chủ yếu thì
có màu lạc quan, và, đặc biệt là lúc gần cái chết của Van Gogh, phản ánh mong
muốn trở lại với trang thái tinh thần bình thường. Tuy nhiên, trong một số tác
phẩm cuối cùng, ông đã cho thấy mối quan tâm sâu sắc của mình [97] [98]. Viết
vào tháng 7 năm 1890, từ Auvers, Van Gogh nói rằng ông đã bị hút hồn
"trong một miền đất phẳng rộng lớn đang tựa vào những ngọn đồi, vô biên
như biển, với sắc vàng thật tinh tế" [99].
Van Gogh bị thu hút bởi các cánh đồng vào tháng 5 khi lúa mì còn
non và xanh. Bức Đồng lúa mỳ tại Auvers với nhà Trắng (Wheatfields
at Auvers with White House) cho thấy một bảng màu vàng và lam dịu hơn, tạo ra
sự hài hòa nhẹ nhàng [100].
Khoảng tháng 7 năm 1890 Van Gogh đã viết cho Theo về "những
cánh đồng lúa mì rộng lớn dưới bầu trời vần vũ"[101] Đồng
lúa mỳ với những con quạ (Wheatfield with Crows) cho thấy tâm trạng
của người họa sĩ trong những ngày cuối đời; Hulsker mô tả tác phẩm là một
"bức tranh tang tóc với bầu trời đầy ám ảnh cùng những con quạ mang điềm
dữ" [102]. Bảng
màu tối và những nét cọ nặng cho thấy ý nghĩa đe dọa [103].
Quá trình sáng tác
Van Gogh bắt đầu vẽ các bức màu nước từ khi còn đi học, tuy vậy
rất ít tác phẩm thời kì này còn được lưu giữ đến ngày nay. Khi thực sự bắt đầu
làm họa sĩ (năm 1880), Van Gogh đi lại từ bước cơ bản, đó là chép bức tranh
"Cours de dessin". Trong suốt hai năm đầu họa sĩ phải đi tìm đơn đặt
hàng cho mình, mãi đến mùa xuân năm 1882, người
chú Cornelis Marinus của Van Gogh mới đề nghị ông vẽ các bức tranh về Den Haag
để bán trong phòng tranh ở Amsterdam. Mặc dù công việc không được như Cornelis
mong muốn, Van Gogh vẫn được đặt hàng thêm và một lần nữa làm thất vọng chú của
mình.
Dù sao thì Van Gogh vẫn tiếp tục nghề họa sĩ, ông cải thiện việc
chiếu sáng cho xưởng vẽ và thử nghiệm với các chất liệu vẽ khác nhau. Sau hơn
một năm lao động miệt mài chỉ với những bức tranh "trắng và đen",
cuối cùng người ta cũng công nhận khả năng của Vincent ở thể loại này. Mùa xuân
năm 1883, Van
Gogh bắt đầu thực hiện các bức tranh phức tạp hơn, ngay khi Theo nhận xét rằng
các tác phẩm đó thiếu sự sinh động và tươi mới, Vincent đã tiêu hủy chúng và
tập trung vào sơn dầu. Cũng thời gian này, Vincent đến tham khảo các họa sĩ
thuộc Trường phái Den Haag như Weissenbruch và Blommers, ông
nhận được những lời khuyên về mặt kĩ thuật để sau đó khi đến Nuenen, Van Gogh đã có thể
thực hiện các bức vẽ khổ lớn. Đa số các tác phẩm này đã bị chính họa sĩ tiêu
hủy, bức Những người ăn khoai nổi tiếng là một trong số
rất ít các tác phẩm còn sót lại của thời kì này. Sau chuyến thăm Bảo tàng
Rijksmuseum ở Amsterdam, Vincent nhận ra rằng những thiếu sót
trong các tác phẩm của ông là do sự thiếu kinh nghiệm trong kĩ thuật vẽ, họa sĩ
đã đến Antwerp và sau đó là Paris để
trau dồi thêm kĩ năng này.
Sau khi học hỏi được kĩ thuật và kinh nghiệm từ những họa sĩ
theo trường phái Ấn tượng và Tân ấn tượng, Van Gogh tới Arles để phát triển các tác
phẩm theo hướng này. Nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, những ý tưởng cũ về
nghệ thuật và tác phẩm lại xuất hiện trong đầu họa sĩ. Đó là ý tưởng về việc
thực hiện những loạt tác phẩm về các chủ đề có liên quan hoặc tương phản nhau
để phản ánh suy nghĩ của người sáng tác.
Hồ
sơ bệnh tật
Van Gogh thường xuyên gặp phải các vấn đề về thần kinh, đặc biệt
trong những năm cuối đời. Đã có rất nhiều cuộc tranh luận nổ ra trong việc tìm
nguyên nhân thực sự cho chứng bệnh thần kinh của họa sĩ và tác động của nó lên
các tác phẩm của ông. Người ta đã đưa ra khoảng 30 chẩn đoán khác nhau cho
triệu chứng bệnh của Van Gogh[104], trong
đó phải kể tới chứng tâm thần phân liệt, rối loạn chức năng, giang
mai, ngộ độc màu vẽ, động
kinh và rối loạn chuyển hóa porphyrine cấp
tính. Bất kì chứng bệnh nào trong số trên cũng có thể là thủ phạm dẫn tới sự
suy nhược thần kinh của họa sĩ, tình trạng của ông còn bị làm trầm trọng thêm
do ăn uống thiếu chất, lao lực, mất ngủ và nghiện rượu, nhất là rượu absinthe.
Cũng có nhiều giả thuyết y học được đưa ra để giải thích việc
Van Gogh ưa dùng màu vàng trong các bức tranh của ông. Một giả thuyết cho rằng
việc này có thể xuất phát từ chứng nghiện absinthe của
Van Gogh, trong loại rượu này có chứa một loại neurotoxin tên
là thujone. Việc
hấp thụ thujone với liều cao có thể dẫn tới chứng thấy sắc vàng (xanthopsia). Tuy
nhiên, một công trình nghiên cứu năm 1991 đã
chỉ ra rằng những người nghiện absinthe sẽ phải trở nên gần như vô thức nếu hấp
thụ đủ lượng thujone gây chứng thấy sắc vàng. Cũng có giả thuyết cho rằng bác
sĩ Gachet có thể đã kê đơn cho Van Gogh dùng mao địa hoàng (digitalis)
để chữa chứng động kinh của ông. Việc này được suy đoán từ những bức chân dung
bác sĩ Gachet của Van Gogh, bên cạnh người mẫu thường có vài cây hoa mao địa
hoàng. Người dùng mao địa hoàng với liều lớn có thể dẫn tới triệu chứng quan
sát thấy những điểm màu vàng có quầng xung quanh (giống như trong bức Đêm
đầy sao)[105].
Người ta còn đưa ra một giả thuyết cho thể trạng yếu của họa sĩ,
đó là do ngộ độc chì. Các màu vẽ mà Van Gogh thường dùng đều có
gốc chì, và một trong các triệu chứng của nhiễm độc chì đó là căng võng
mạc dẫn tới thường xuyên nhìn thấy các quầng sáng, một đặc
điểm thường thấy trong các tác phẩm cuối đời của họa sĩ[106].
Năm 2014, kỹ sư hóa học người Hà Lan, Rene
Van Slooten, đã đưa ra giả thuyết Van Gogh đã sử dụng khí đốt để thắp sáng các
căn phòng nơi ông làm việc vào buổi đêm và Carbon monoxit và các kim loại nặng –
thậm chí cả uranium trong than đá chứa lẫn nhiều tạp chất
có thể là nguyên nhân gây ngộ độc cho ông. Nhưng giả thuyết của Slooten về nhà
danh họa Van Gogh vẫn không nhận được sự tán thành của số đông. Nhà thần kinh học đã nghỉ hưu kiêm chuyên
gia về Vincent Van Gogh, ông Piet Voskuil, cho
rằng giả thuyết của Van Slooten không đáng tin cậy.[107]
Di
sản và đánh giá
Van Gogh chết trong cảnh nghèo túng và chỉ mới có một chút danh
tiếng trong giới nghệ thuật châu Âu. Tuy vậy các sáng tác của ông về sau đã có
ảnh hưởng sâu sắc đến các họa sĩ sau này, đặc biệt là các họa sĩ thuộc trường phái Dã thú (Fauvism)
như Henri Matisse và các họa sĩ thuộc
trường phải Biểu hiện Đức thuộc nhóm Die Brücke. Chủ
nghĩa Biểu hiện trừu tượngtrong
nghệ thuật thập niên 1950 cũng bắt nguồn từ việc phát triển các ý tưởng sáng tác của
Van Gogh.
Năm 2004, trong Danh sách những người Hà Lan vĩ đại nhất trong lịch sử (De Grootste Nederlander) do
đài KRO tổ chức, Vincent van Gogh
được xếp thứ 10 và là nghệ sĩ có thứ hạng cao thứ 2 trong danh sách (sau họa
sĩ Rembrandt xếp thứ 9)[108].
No comments:
Post a Comment