Cách nay đúng 98 năm, William Boeing lập ra công ty Boeing
Ngày 15
tháng 07, 1916
·
1916 – William
Boeing hợp
thành tổ chức Công ty Sản phẩm Hàng không Thái Bình Dương tại Seattle, Washington, Hoa Kỳ, tiền thân của hãng Boeing.
Boeing
The Boeing Company - Công ty Boeing
Sản phẩm Máy bay thương mại
máy bay quân sự
đạn dược
các hệ thống tàu vũ trụ
máy bay quân sự
đạn dược
các hệ thống tàu vũ trụ
Số nhân viên 52.091 (1 tháng 9 năm
2005)
Boeing (đọc như là "Bô-inh") là hãng sản
xuất máy bay lớn nhất thế giới có tổng hành dinh tại Chicago, Illinois.
Đến năm
2007, Boeing vẫn là tập đoàn sản xuất vũ khí lớn nhất thế giới và tuột xuống vị
trí thứ 3, sau Lockheed Martin và BAE System vào năm 2008.[1]
Lockheed Martin (NYSE: LMT) là một hãng chế
tạo máy bay, vũ khí, hoả tiễn,
vệ tinh và các kỹ thuật tân tiến quốc phòng.
BAE Systems plc is
a British multinational defence, security, and aerospace company.
Its headquarters are in London in the United Kingdom and it has operations
worldwide
Lịch sử
Trước
những năm 1950
Công ty được thành lập tại thành phố Seattle, Washington bởi William
E. Boeing vào
ngày 15 tháng
7 năm 1916, cùng với George Conrad Westervelt, một
kỹ sư của Hải quân Hoa Kỳ, và được đặt tên là "B&W" theo chữ viết
tắt của tên người sáng lập.
William Edward Boeing (1 tháng 10 năm 1881 – 28/9/1956) là một kỹ sư hàng
không người Mỹ, là người
sáng lập ra hãng Boeing.
George Conrad Westervelt (December 30, 1879 – March 15, 1956) was a U.S. Navy engineer who created the company "Pacific Aero
Products Co." together with William Boeing.
Sau đó công ty được đổi tên thành "Pacific Aero
Products" và vào năm 1917, công ty trở thành "Boeing Airplane
Company". William Boeing học ở Đại học Yale và ban
đầu làm trong công nghiệp khai thác gỗ, nơi ông ta đã trở nên giàu có. Nơi đó
ông cũng thu thập được những kiến thức về các cấu trúc bằng gỗ mà sau này trở
nên có giá trị trong việc thiết kế và lắp đặt máy bay.
Vào năm 1927, Boeing thiết lập một hãng hàng không, đặt tên là
Boeing Air Transport (BAT). Một năm sau đó, BAT cùng với Pacific Air Transport và Boeing Airplane Company sáp nhập lại
thành một công ty lớn.
Công ty đổi tên thành United
Aircraft and Transport Corporation vào năm
1929 và mua Pratt
& Whitney, Hamilton Standard Propeller
Company và Chance Vought.
United Aircraft sau đó mua National Air Transport vào năm 1930. Đạo luật Air Mail năm 1934 cấm các hãng hàng không và các nhà
sản xuất dưới cùng một tổng công ty, do đó công ty lại tách ra thành 3 công ty
nhỏ hơn - Boeing Airplane Company, United
Airlines và United Aircraft Corporation (tiền thân của United Technologies).
Kết quả là William Boeing bán hết các cổ phiểu của ông ta.
Không lâu sau đó, một thỏa thuận với Pan American World Airways (Pan Am) đạt được để phát triển và đóng các
máy bay chở khách cất cánh từ mặt nước và có khả năng chuyên chở khách vượt đại
dương. Chuyến bay đầu tiên của Boeing
314 Clipper là vào
tháng 6 năm 1938.
Chiếc Boeing 314 "Clipper" trên mặt nước
Đó là máy bay dân dụng lớn nhất vào lúc đó, với sức chứa 90 hành
khách trong các chuyến bay ban ngày, và 40 hành khách trong các chuyến bay đêm.
Một năm sau đó, dịch vụ máy bay hành khách đầu tiên từ Hoa Kỳ đến Anh được
khai trương. Sau đó các tuyến bay khác được mở ra, và không lâu sau đó Pan Am
bay với Boeing 314 đến khắp nơi trên thế giới.
Đó là máy bay chuyên chở đầu tiên trên thế giới có cabin được
bơm khí nén, có khả năng bay ở độ cao 20.000 ft — trên hầu hết các biến
động về thời tiết.
Trong Chiến tranh thế giới thứ hai,
Boeing đóng một số lượng lớn các máy bay ném bom. Rất nhiều công nhân là vợ của
những người lính ngoài mặt trận. Vào đầu năm 1944, sản xuất đã được đẩy mạnh
đến mức trên 350 máy bay được đóng trong một tháng. Để ngăn chặn oach tạc từ
trên không, các xưởng sản xuất đã được ngụy trang bằng cây cỏ và các sản phẩm
từ trang trại. Trong những năm chiến tranh, những công ty sản xuất máy bay hàng
đầu của Hoa Kỳ hợp tác với nhau. Máy bay ném bom B-17 được
thiết kế bởi Boeing và được lắp đặt bởi Lockheed Aircraft Corp. và Douglas Aircraft Co., trong
khi B-29 cũng
được lắp đặt bởi Bell
Aircraft Co. và Glenn L. Martin Company.
B-17 Flying Fortress (Pháo đài bay
B-17) là kiểu máy bay ném bom hạng
nặng 4 động cơ được phát triển cho Không lực Lục quân
Hoa Kỳ (USAAC) và được đưa vào sử dụng
vào cuối những năm 1930
B-29 của Không
lực Lục quân Hoa Kỳ
Sau chiến tranh, hầu hết các đơn đặt hàng về máy bay ném bom bị
hủy bỏ và 70.000 người mất việc tại Boeing. Công ty hướng tới việc hồi phục
nhanh chóng bằng cách bán Stratocruiser, một
loại máy bay 4 động cơ chở khách thương mại hạng sang được phát triển từ B-29.
Tuy vậy, số lượng bán của kiểu máy bay này không được như mong đợi và công ty
Boeing phải tìm các cơ hội khác để vượt qua hoàn cảnh đó. Công ty đã thành công
trong việc bán các máy bay quân sự chuyển đổi lại để có thể chuyên chở binh sĩ
và tiếp tế nhiên liệu trên không.
Boeing 707
Những năm
1950
Vào giữa thập niên 1950 kỹ
thuật đã tiến bộ một cách vượt bậc, đem lại những khả năng cho Boeing phát
triển và sản xuất những sản phẩm mới hoàn toàn. Một trong những sản phẩm mới là hoả tiễn điều khiển tầm ngắn được dùng để đánh chặn
máy bay của kẻ thù. Vào thời gian Chiến tranh Lạnh trở nên
như một chuyện thường ngày, Boeing sử dụng các kỹ thuật hoả tiễn tầm ngắn để
phát triển và sản xuất hoả tiễn liên lục địa.
Vào năm 1958, Boeing bắt đầu xuất xưởng B707, máy
bay phản lực chở khách đầu tiên của Hoa Kỳ, đáp lại chiếc De Havilland Comet của Anh, Sud Caravelle của Pháp và Tupolev Tu-104
'Camel' của Liên bang
Xô viết; là những máy bay thuộc loại thế hệ đầu tiên của máy bay phản
lực chở khách dân dụng.
Với chiếc B707, một loại máy bay bốn động cơ chở được 156 hành
khách, Hoa Kỳ trở thành một trong những người dẫn đầu trong việc sản xuất máy
bay phản lực dân dụng. Một vài năm sau đó, Boeing thêm vào một phiên bản thứ
hai của máy bay này, chiếc B720 nhanh hơn và có tầm bay ngắn hơn. Một vài năm
sau nữa, Boeing giới thiệu B727, một
loại máy bay phản lực dân dụng khác có cùng kích cỡ, thế nhưng chỉ có 3 động cơ
và thiết kế cho các tuyến bay tầm trung.
Máy bay B727 ngay lập tức được chấp nhận như là một máy bay an
toàn và tiện nghi bởi hành khách, phi hành đoàn và các hãng hàng không. Mặc dù
sản xuất đã ngưng từ 1984, vào đầu thiên niên kỷ gần 1.300 chiếc B727 vẫn còn
đang phục vụ trong các hãng hàng không khắp thế giới.
Những năm
1960
Máy bay
lên thẳng Piasecki được
mua bởi Boeing vào năm 1960, và được công nhận như là chi nhánh Vertol của Boeing. Loại hai động cơ CH-47
Chinook, sản xuất bởi Vertol, bay lần đầu tiên vào năm 1961. Loại máy
bay lên thẳng với sức nâng hạng nặng này vẫn một loại phương tiện chuyên chở
chủ lực cho đến ngày hôm nay. Vào năm 1964, Vertol cũng bắt đầu sản xuất CH-46 Sea Knight.
Boeing 737-300 (thế hệ 2)
B707 và B747 làm thành lực lượng nòng cốt cho các hãng hàng
không lớn trong thập niên 1970
Trong năm 1967, Boeing giới thiệu một loại máy bay chở khách tầm
ngắn và tầm trung với hai động cơ B737.
Nó đã trở thành loại máy bay phản lực dân dụng bán chạy nhất
trong lịch sử của ngành hàng không. Loại B737 vẫn được sản xuất, và các cải
tiến liên tục được đưa ra. Một vài kiểu cải tiến đã được phát triển, chủ yết để
tăng số lượng hành khách và tầm bay.
Lễ xuất xưởng của chiếc B747-100 đầu tiên diễn ra vào năm 1968, tại xưởng
đóng máy bay mới tại Everett, tiểu bang Washington, khoảng 1 tiếng đồng hồ lái xe
từ trụ sở Boeing ở Seattle.
United
Airlines Boeing 747-100
Chiếc máy bay bay chuyến đầu tiên một năm sau đó. Chuyến bay dân
dụng đầu tiên diễn ra vào năm 1970.
Những năm
1970
Vào đầu thập niên 1970, Boeing đối đầu với một cuộc
khủng hoảng mới. Chương trình Apollo mà
trong đó Boeing đã tham dự phần lớn trong thập niên trước hầu như là bị xóa bỏ.
Một lần nữa, Boeing hy vọng sẽ bù trừ với việc bán các máy bay chở khách dân
dụng. Vào thời gian đó, tuy vậy, có một giai đoạn khủng hoảng trong ngành hàng
không và do vậy Boeing đã không nhận được đơn đặt hàng nào trong vòng 1 năm. Cá
cược tương lai của Boeing, loại B747 mới bị đình trệ trong sản xuất và chi phí
cao hơn ban đầu dự tính. Một vấn đề khác là vào năm 1971, Quốc hội Hoa Kỳ quyết
định ngưng việc tài trợ cho việc phát triển máy bay siêu âm B2707, câu
trả lời của Boeing với Concorde do Anh và Pháp sản xuất, buộc công ty phải ngưng dự án.
Công ty cũng phải giảm số nhân viên từ trên 80.000 xuống khoảng còn một nửa,
chỉ trong khu vực Seattle. Vào tháng 1 năm 1970 chiếc B747 đầu tiên, một loại
máy bay chở khách đường dài 4 động cơ, bay chuyến thương mại đầu tiên. Chiếc
máy bay nổi tiếng này đã thay đổi hoàn toàn phương thức bay, với sức chứa 450
hành khách và khoang phía trên của nó. Cho đến 2001, Boeing là hãng sản xuất
máy bay duy nhất cung cấp một máy bay có khả năng như vậy và đã xuất xưởng được
gần 1.400 chiếc. (Airbus bây giờ
đưa ra A380, khi
xuất xưởng sẽ là máy bay hành khách lớn nhất). Kiểu B747 đã được cải tiến liên
tục để các kỹ thuật trong đó không bị lạc hậu. Các phiên bản lớn hơn cũng được
phát triển với tầng trên được kéo dài ra.
Thân hẹp Boeing 757 thay thế B707 và B727
Những năm
1980
Vào năm 1983, tình hình kinh tế bắt đầu khá lên. Boeing lắp ráp
chiếc máy bay dân dụng B737 thứ 1.000. Trong suốt những năm sau đó, máy bay dân
dụng và máy bay quân sự của công ty trở thành những thiết bị cơ bản của các
hãng hàng không và không quân. Vì lưu lượng hành khách đi máy bay tăng lên,
cạnh tranh trở nên gay gắt hơn, chủ yếu là từ một hãng sản xuất máy bay mới lên
từ châu Âu, công
ty Airbus. Boeing phải đưa ra một loại máy bay mới, và phát triển loại máy bay
với một lối đi giữa hai dãy ghế B757, loại
lớn hơn có hai lối đi B767 và những kiểu cải tiến của B737.
Một đề án quan trọng của những năm này là chương trình tàu con
thoi, mà Boeing đã đóng góp kinh nghiệm sản xuất hoả tiễn vũ trụ mà
công ty thu hoạch được trong thời kì Chương trình Apollo, mà công ty đã tham
gia. Boeing cũng tham gia vào các sản phẩm khác trong chương trình không gian,
và là hãng hợp đồng đầu tiên cho Trạm Vũ trụ Quốc tế. Cùng lúc đó, một số đề án
quân sự đi vào sản xuất, chẳng hạn như máy bay lên thẳng RAH-66 Comanche, hệ
thống phòng không Avenger và một thế hệ mới các hỏa tiễn tầm ngắn. Trong những
năm này, Boeing rất năng động trong việc nâng cấp những thiết bị quân sự hiện
có và phát triển những thứ mới.
Những năm 1990
Vietnam airlines B777-200ER
Vào tháng 4 năm 1994, Boeing giới thiệu loại máy bay phản lực
dân dụng hiện đại nhất, máy bay hai động cơ B777, với
sức chứa từ 300 đến 400 hành khách trong một cấu hình chuẩn có 3 cấp hành
khách, và ở giữa B767 và B747. Là máy bay hai động cơ có tầm bay xa nhất trên
thế giới, kiểu B777 là máy bay hành khách Boeing đầu tiên thiết lập hệ thống
điều khiển "fly-by-wire"
và được xem như là đối lại với những thâm nhập bởi Airbus vào thị trường truyền
thống của Boeing. Chiếc máy bay này, thường được gọi thông thường là
"Triple Seven" (Ba số Bảy), đạt một bước tiến quan trọng vì là máy bay
đầu tiên được thiết kế hoàn toàn bằng kỹ thuật đồ họa trên máy tính (CAD). Cũng
trong giữa thập niên 1990, công ty phát triển kiểu cải
tiến của B737, được biết đến như là "Next-Generation 737" (737 Đời
mới), hay là 737NG. Nó đã trở thành kiểu bán chạy nhất của B737 trong lịch sử
và vào ngày 20 tháng
4 năm 2006 số
lượng bán đã vượt qua "737 Cổ điển", với một đơn đặt hàng 79 máy bay
từ Southwest Airlines. "Next-Generation
737" bao gồm B737-600, B737-700, B737-800 và B737-900.
Vào năm 1996, Boeing mua bộ phận sản xuất máy bay và quốc phòng
của công ty Rockwell. Sản
phẩm của Rockwell trở thành chi nhánh của Boeing, được đặt tên là Boeing North
American, Inc. Một năm sau, Boeing sáp nhập với McDonnell
Douglas. Sau sự sáp nhập giữa Boeing và McDonnell Douglas, kiểu MD-95
của McDonnell Douglas được đặt tên lại là B717-200, và
việc sản xuất MD-11 bị dừng lại. Boeing giới thiệu một tổng công ty mới với sự
hoàn thành của việc sáp nhập đó với huy hiệu công ty mới mang dòng chữ đậm
Boeing và biểu trưng đơn giản của McDonnell Douglas.
Những năm
2000
Trong những năm gần đây Boeing phải đối phó với Airbus với sức cạnh tranh ngày càng cao, hãng này
đưa ra một số linh kiện dùng chung giữa các kiểu máy bay (làm giảm chi phí bảo
trì và huấn luyện) cũng như những kỹ thuật "fly-by-wire" mới nhất. Từ
thập niên 1970 Airbus đã tăng các chủng loại máy bay của họ đến mức bây giờ họ
có thể đưa ra một loại máy bay có cùng tính chất với hầu như mỗi kiểu của Boeing.
Thật vậy, bây giờ Airbus cạnh tranh trong tất cả các thị trường mà Boeing đã
từng chiếm giữ vị trí độc quyền, chẳng hạn như A320 đã được chọn bởi một số
hãng máy bay giá rẻ (loại máy bay thường được sử dụng bởi các hãng hàng không
này là B737) và trong thị trường máy bay cực lớn, máy bay A380. Loại
B747 đã bị cạnh tranh bởi một loạt máy bay Boeing 777-300.
Hiện tại, Boeing đang dự định sẽ giới thiệu năm loại máy bay
mới, 787 Dreamliner, loại
tầm bay cực xa B777-200LR, B737-900ER, B737-700ER và B747-8. Boeing 787 trước
đây được biết đến như là Boeing 7E7, nhưng thiết kế đã được thay đổi từ dạo đó.
Boeing 777-200LR có tầm bay xa nhất trong tất cả các loại máy bay dân dụng, và
là máy bay dân dụng đầu tiên có thể bay nửa vòng quanh Trái Đất với một lượng chuyên chở có hiệu quả kinh
tế, và nắm kỉ lục thế giới với một chuyến bay xa nhất bởi một máy bay chở khách
dân dụng là 21.601 km.
Boeing cũng đang đóng một phiên bản nâng cao của B747, loại
B747-8, để sẽ cạnh tranh sát sao hơn với Airbus A380. Kiểu máy bay này đã được
thông báo không chính thức tại Triển lãm
Hàng không Paris trong
năm 2005.
Những năm
2010
Lĩnh vực kinh doanh
Hai đơn vị lớn nhất là Boeing Commercial Airplanes và nhóm
Integrated Defense Systems.
·
Boeing Commercial Airplanes
Nhân công
Theo vị
trí địa lý
Nhân công
theo địa lý
Arizona 4.939
California 31.457
Kansas 3.836
Missouri 16.429
Pennsylvania 4.706
Texas 5.376
Washington 61.042
Các nơi khác 24.955
Tổng
số 152.740
cho đến 10 tháng 6 năm 2005
Nhân công
theo nhóm (các đơn vị)
Nhân công
theo nhóm (các đơn vị)
Commercial Airplanes 48.956
Boeing Capital Corp 131
Connexion by Boeing 753
Integrated
Defense Systems 75.531
Phantom Works 4.409
Shared
Services Group 21.020
Tổng hành dinh thế giới 1.928
Khác 12
Tổng số 152.740 cho đến 10 tháng 6 năm 2005
Bộ máy lãnh đạo
Hội đồng quản trị hiện thời
Giám đốc điều hành (CEO)
1933–1939
|
Clairmont L. Egtvedt
|
1939–1944
|
Philip G. Johnson
|
1944–1945
|
Clairmont L. Egtvedt
|
1945–1968
|
|
1969–1986
|
|
1986–1996
|
Frank Shrontz
|
1996–2003
|
|
2003–2005
|
|
2005–2005
|
|
2005–
|
Chủ tịch hội đồng quản trị
1916–1934
|
|
1934–1939
|
Clairmont L. Egtvedt (acting)
|
1939–1966
|
Clairmont L. Egtvedt
|
1968–1972
|
William M. Allen
|
1972–1987
|
Thornton "T" A. Wilson
|
1988–1996
|
Frank Shrontz
|
1997–2003
|
Philip M. Condit
|
2003–2005
|
Lew Platt
|
2005–
|
W. James McNerney, Jr.
|
Chủ tịch
1922–1925
|
Edgar N. Gott
|
1926–1933
|
Philip G. Johnson
|
1933–1939
|
Clairmont L. Egtvedt
|
1939–1944
|
Philip G. Johnson
|
1944–1945
|
Clairmont L. Egtvedt
|
1945–1968
|
William M. Allen
|
1968–1972
|
Thornton "T" A. Wilson
|
1972–1985
|
Malcolm T. Stamper
|
1985–1996
|
Frank Shrontz
|
1996–1997
|
Philip M. Condit
|
1997–2005
|
Harry C. Stonecipher
|
2005–2005
|
James A. Bell (quyền trong vài tháng)
|
2005–
|
W. James McNerney, Jr.
|
No comments:
Post a Comment