Cách nay đúng 73 năm ba lãnh đạo: Churchill, Truman, Stalin;
họp tại Potsdam để quyết định về tương lai của nước Đức khi bị thua trận trong
thế chiến thứ hai.
Ngày 17
tháng 07, 1945
·
1945 – Ba nhà lãnh đạo Đồng Minh là Churchill, Truman và Stalin tụ họp tại
thành phố Potsdam để quyết định tương lai của một nước Đức chiến bại.
Hội nghị Potsdam
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Từ trái qua phải: Clement Attlee, Harry S. Truman, Josef Stalin, đằng sau: William
Daniel Leahy, Ernest Bevin, James F.
Byrnes và Vyacheslav
Molotov.
Hội nghị Potsdam được tổ chức ở Cecilienhof, cung điện của thái tử Wilhelm Hohenzollern, tại Potsdam, Đức từ 16 tháng 7 đến 2 tháng 8 năm 1945.
Cecilienhof Palace seen from the commemorative courtyard,
with the Soviet red star in the foreground
Cecilienhof
Palace (German: Schloss Cecilienhof) is a palace in Potsdam, Brandenburg, Germany built from 1914 to 1917 in the layout of
an English Tudor manor house.
Wilhelm, German Crown Prince (Friedrich Wilhelm Victor
August Ernst, 6 May 1882 – 20 July 1951) was the eldest child of the
soon-to-be German Emperor Wilhelm II and his wife Empress Augusta Victoria, and the last Crown Prince of
the German Empire and the Kingdom of Prussia.
Các quốc gia tham dự hội nghị là Liên bang Xô Viết, Anh và Mỹ. Đại diện
của ba quốc gia gồm có tổng
bí thư đảng cộng sản Liên Xô Joseph
Stalin, thủ tướng Anh Winston Churchill người sau đó được thay bởi Clement Attlee,
và tổng thống Mỹ Harry S. Truman.
Stalin, Churchill và Truman - cũng như Atlee, người thay thế Churchill làm thủ
tướng Anh sau khi đảng Lao động giành chiến thắng trước đảng Bảo Thủ trong cuộc bầu cử năm 1945 - đã nhóm họp để thống
nhất về cách tái tổ chức nước Đức thời hậu chiến, quốc gia đã đồng ý đầu hàng
vô điều kiện chín tuần trước đó. Mục đích của hội nghị bao gồm cả việc thành
lập trật tự thế giới mới thời hậu chiến, những vấn đề về hiệp ước hòa bình và
cách thức giải quyết hậu quả của chiến tranh.
Iosif Vissarionovich Stalin (phát
âm:ˈjosʲɪf vʲɪsɐˈrʲonəvʲɪt͡ɕ ˈstalʲɪntrợ giúpchi tiết, tiếng Nga: Иосиф Сталин, thường
gọi tắt là Stalin) (21/12/1879 – 5/3/1953)[1] là lãnh
đạo tối cao của Liên bang Xô viết từ giữa thập niên 1920 cho đến khi qua đời năm 1953.
Sir Winston Leonard Spencer-Churchill (30 tháng 11 năm 1874- 24 tháng 1 năm 1965) là một nhà chính trị người Anh, nổi tiếng nhất với
cương vị Thủ tướng Anh trong thời Chiến tranh thế giới
thứ hai.
Harry S. Truman (8 tháng 5 năm 1884 – 26 tháng 12 năm 1972) là Phó tổng thống thứ 34 (1945) và là Tổng thống thứ 33 của Hoa Kỳ (1945–1953), kế nhiệm Nhà Trắng sau cái
chết của Franklin D.
Roosevelt.
Clement Richard Attlee (3 tháng 1 1883 - 8 tháng 10 1967) là một chính trị gia người Anh, ông giữ chức thủ tướng Anh từ 1945 tới 1951, lãnh đạo của đảng Lao động từ 1935 tới 1955.
Những thành viên
tham dự
·
Liên
bang Xô Viết: Stalin đến chậm một ngày với lý do là có việc quan trọng cần sự
có mặt của ông. Tuy nhiên có nguồn tin cho rằng có thể ông đã có một cơn đau
tim nhỏ.
·
Anh: đại diện bởi thủ tướng Clement Attlee sau khi đảng Lao động
giành chiến thắng trước đảng Bảo thủ của Winston Churchill.
·
Mỹ: đại
diện bởi tân tổng thống Harry S. Truman. Tại hội nghị này, Truman đã nói bóng
gió với Stalin rằng Mỹ đã phát triển bom nguyên tử và có thể sử dụng nó để đối
đầu với Nhật Bản, sau đó thì vào ngày 6 và ngày 9 tháng 8 năm 1945 hai quả bom
nguyên tử đã được thả xuống Hiroshima và Nagasaki.
Vị
trí tỉnh Hiroshima trên bản đồ Nhật Bản.
Vị
trí tỉnh Nagasaki trên bản đồ Nhật Bản.
Quan hệ giữa các
nhà lãnh đạo
Qua năm tháng, mối quan hệ giữa các nhà lãnh đạo đã bị ảnh hưởng
sâu sắc bởi nhiều thay đổi to lớn.
Ngoại trưởng
ba nước: Vyacheslav Molotov, James F. Byrnes và Anthony Eden, tháng 7 năm 1945
1. Quân
đội của Stalin chiếm đóng phần lớn Trung và Đông Âu
Quân đội Xô Viết đã trục xuất quân phát xít Đức tại Đông Âu, nhưng
thay vì rút quân thì đến tháng 7 quân của Stalin đã kiểm soát các bang
của Baltic, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Bulgaria và România.
Bản đồ biển
Baltic
Ba Lan (tiếng Ba Lan: Polska), tên chính thức là Cộng
hòa Ba Lan (tiếng Ba Lan: Rzeczpospolita
Polska), là một quốc gia ở Trung Âu, tiếp giáp
với các nước Đức, Slovakia, Cộng hòa Séc, Ukraina, Belarus, Litva, Nga và biển Baltic; diện tích
312.685 km², dân số 38,56 triệu gần như thuần chủng người Ba Lan, đa phần (95%) theo đạo Công giáo Rôma được truyền bá vào đây khi nhà nước Ba Lan đầu tiên hình
thành vào thế kỷ thứ X.
Tiệp Khắc (tiếng Séc: Československo, tiếng Slovak: Česko-Slovensko/trước 1990 Československo, tiếng Đức: Tschechoslowakei),
còn gọi tắt là Tiệp (nhất là trong khẩu ngữ), là một nhà nước có chủ quyền tại Trung Âu tồn tại từ
tháng 10 năm 1918, khi nó tuyên bố độc lập khỏi Đế quốc Áo-Hung, cho tới năm 1992.
Hungary [note 1](tiếng Hungary: Magyarország) là một quốc gia không giáp
biển thuộc khu vực Trung Âu.
Bulgaria (tiếng Bulgaria: България, Balgariya,
Tiếng Việt: Bun-ga-ri[4]), tên chính thức là Cộng
hòa Bulgaria (Република България, Republika
Balgariya) là một quốc gia nằm tại khu vực đông nam châu Âu.
România (tiếng România: România,
trong tiếng Việt thường được gọi là Rumani theo tiếng Pháp: Roumanie), là một quốc gia tại đông
nam châu Âu, với diện
tích 238.391 km².
Rất nhiều dân tị nạn đã rời những quốc gia này do lo sợ sự chiếm
đóng của quân cộng sản. Stalin đã thành lập một chính phủ cộng sản tại Ba Lan,
phớt lờ nguyện vọng của đa số nhân dân Ba Lan. Anh và Mỹ đã lên tiếng phản đối
nhưng Stalin ra sức bảo vệ hành động của mình. Ông khẳng định rằng việc kiểm
soát Đông Âu là một phương pháp phòng ngừa hiệu quả cho những cuộc tấn công có
thể xảy ra trong tương lai.
2. Mỹ có
tổng thống mới
Vào ngày 12 tháng 4 năm 1945, tổng thống Roosevelt qua đời. Ông được phó tổng thống
Harry Truman lên thay thế. Truman là một nhà lãnh đạo có quan điểm khác
Roosevelt. Ông có có quan điểm chống cộng mạnh mẽ và luôn tỏ ra cảnh giác với
Stalin. Truman và đồng sự của ông nhìn nhận những hành động của Xô Viết tại
Đông Âu là sự chuẩn bị cho việc xâm chiếm toàn bộ châu Âu.
Franklin Delano Roosevelt (phiên âm: Phranh-kơ-lin Đê-la-nô Ru-dơ-ven) (30 tháng 1 năm 1882 – 12 tháng 4 năm 1945, thường được gọi tắt là FDR) là Tổng thống Hoa Kỳ thứ 32 và là một khuôn mặt trung tâm của các sự kiện thế
giới trong giữa thế kỷ XX.
3. Quân
đồng minh thử bom nguyên tử
Vào ngày 16 tháng 7 năm 1945 Mỹ đã thử thành công một quả bom
nguyên tử tại Alamagordo thuộc
sa mạc New Mexico. Ngày 21 tháng 7, Churchill và Truman đồng
ý việc nên sử dụng bom nguyên tử. Truman không nói cho Stalin biết về thứ vũ
khí mới cho đến ngày 25 tháng 7 khi ông nói bóng gió với Stalin rằng Mỹ có một
thứ vũ khi có sức công phá hủy diệt. Vào ngày 26 tháng 7, Tuyên bố Potsdam đã được thông báo tới
Nhật Bản, đe dọa Nhật Bản sẽ bị hủy diệt hoàn toàn nếu không chấp nhận đầu hàng
vô điều kiện.
Kết quả
Hiệp định
Potsdam
Trước khi kết thúc hội nghị, lãnh đạo 3 quốc gia thống nhất
những vấn đề sau:
Đức
·
Đưa ra thông cáo mục đích chiếm đóng Đức của phe Đồng
Minh: phi quân sự hóa, phi phát xít hóa, dân chủ hóa, phi tập trung hóa và xóa bỏ nền kinh tế
kiểu cartel.
·
Chia Đức và Áo thành bốn khu vực chiếm đóng (đã được đồng ý từ
thỏa thuận tại hội nghị Yalta), thủ đô Berlin và Viên cũng
được chia làm bốn khu vực.
·
Thống nhất đồng ý việc xét xử những tội phạm chiến tranh phát
xít.
·
Trả lại các vùng đất bị Đức chiếm đóng tại châu Âu, gồm Sudetenland, Alsace-Lorraine, Áo và
phần cực tây của Ba Lan.
·
Biên giới phía đông của Đức sẽ được dịch chuyển về phía tây tới ranh giới Oder-Neisse, vì vậy
đã làm giảm đi 25% diện tích lãnh thổ của Đức so với năm 1937. Phần lãnh thổ
phía đông của biên giới mới bao gồm Đông Phổ, Silesia, Tây Phổ và
2/3 Pomerania. Những vùng này chủ yếu là nông nghiệp,
ngoại trừ vùng thượng Silesia, trung tâm công nghiệp nặng lớn thứ hai của Đức.
·
Trục xuất những công dân Đức còn sống tại biên giới mới phía
đông.
·
Thỏa thuận đồng ý về bồi thường chiến tranh cho Xô Viết từ khu vực
chiếm đóng của Xô Viết tại Đức. Ngoài ra 10% sản lượng công nghiệp của khu vực
phía tây cũng sẽ được chuyển cho Liên Xô trong vòng 2 năm.
·
Đảm bảo chất lượng cuộc sống của Đức không vượt mức sống trung
bình của châu Âu. Một loạt các khu công nghiệp bị tháo gỡ sẽ được quyết định
sau.
·
Phá hủy tất cả tiềm lực công nghiệp quân sự của Đức hoặc những
ngành công nghiệp có khả năng sản xuất quân sự. Các xưởng đóng tàu dân sự và
các nhà máy đóng tàu sân bay sẽ bị tháo dỡ hoặc phá hủy. Những năng lực sản xuất
công nghiệp có khả năng sản xuất trang thiết bị quân sự như kim loại, hóa chất,
máy móc sẽ bị giảm tới mức tối thiểu. Nền kinh tế sẽ được phi tập trung hóa.
Ngoại thương và nghiên cứu sẽ bị kiểm soát. Nền kinh tế sẽ được tái cơ cấu tập
trung vào nông nghiệp và các ngành công nghiệp hòa bình. Năng lực sản xuất nếu
có thặng dư thì sẽ bị phá hủy hoặc tháo bỏ. Đầu năm 1946, thỏa thuận cuối cùng
đạt được như sau: Đức sẽ được chuyển đổi thành nền kinh tế nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Các sản phẩm xuất khẩu gồm bia, than, đồ chơi, dệt v.v nhằm thay thế các sản
phẩm công nghiệp nặng.
Demographics
map used for the border discussions at the conference
Ba Lan
·
Một chính phủ thống nhất quốc gia lâm thời được công nhận bởi ba
quốc gia sẽ được thành lập. Việc phương Tây công nhận chính phủ kiểm soát của
Xô Viết đồng nghĩa với sự kết thúc cho chính phủ Ba Lan lưu vong.
·
Những người Ba Lan phục vụ trong quân đội Anh sẽ được tự do trở
về Ba Lan mà không có sự đảm bảo nào về an ninh.
·
Biên giới phía tây tạm thời là ranh giới Oder-Neisse, nằm
trên hai con sông Oder và Neisse. Một phần của Đông Phổ và thành phố tự trị Danzig sẽ
thuộc quyền kiểm soát của Ba Lan. Tuy nhiên, việc phân chia ranh giới cuối cùng
phần biên giới phía tây phải chờ cho tới cuộc đàm phán hòa bình với Đức.
·
Xô Viết tuyên bố họ sẽ giải quyết những vấn đề về bồi thường cho
Ba Lan từ khoản bồi thường của Xô Viết có từ Đức.
Tuyên bố
Potsdam
Ngoài hiệp định Potsdam, vào ngày 26 tháng 7 Churchil, Truman
và Tưởng Giới Thạch đưa ra tuyên bố Potsdam
trong đó vạch ra những điều khoản đầu hàng cho Nhật Bản trong Thế chiến II.
Tưởng Trung Chính (giản thể: 蒋中正; phồn thể: 蔣中正; 31 tháng 10 năm 1887 - 5 tháng 4 năm 1975), tên chữ Giới Thạch (介石) nên còn gọi là Tưởng Giới Thạch, tên ban đầu Thụy
Nguyên (瑞元)[1]:1 là nhà chính trị và nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử
Trung Quốc cận đại[2]:472. Ông sinh tại Ninh Ba, Chiết Giang, mất tại Đài Bắc, đảo Đài Loan
No comments:
Post a Comment