Cách nay đúng 78 năm, Tại Pháp có Chính phủ Vichy
với thủ đô ở Vichy chớ không phải Paris
Ngày 10
tháng 07, 1940
·
1940 – Chiến tranh thế giới thứ hai: Quốc
hội Pháp trao toàn quyền đặc biệt cho Thống chế Philippe Pétain, hình thành Chính phủ Vichy hợp tác với phe Trục.
Chính phủ Vichy
Quốc gia Pháp
État Français
1940–1944
4 ans, 1 mois et 29 jours
Quốc kỳ
Huy hiệu
Khẩu
hiệu
https://s20.postimg.cc/5cjc377l9/Location_Vichy_France.png
Vùng
được kiểm soát bởi chính phủ Vichy (cho đến tháng 11 năm 1942)
Pétain
đắc cử 10
Tháng Bảy 1940
Tiền
tệ Franc
Le nom de régime
de Vichy désigne le régime
politique dirigé par le maréchal Philippe
Pétain, qui assure le
gouvernement de la France au cours de la Seconde Guerre
mondiale, du 10 juillet 1940 au 20 août 1944 durant
l’occupation du pays par l'Allemagne
nazie1. Le régime est ainsi dénommé car le gouvernement siégeait à Vichy3, situé en zone libre.
Chính phủ Vichy, hay chỉ gọi đơn giản là Vichy là
thuật ngữ thường dược dùng để miêu tả chính phủ Pháp hợp tác với phe Trục từ
tháng 7 năm 1940 đến tháng 8 năm 1944, trong Chiến
tranh thế giới lần thứ hai.
·
Phe Trục (và các thuộc địa)
Chính phủ này chính thức gọi mình là Quốc
gia Pháp (État Français) và do Thống chế Philippe Pétain đứng đầu, ông thành lập chính phủ này sau thất bại quân sự của
Pháp trước Phát xít Đức.
Henri Philippe
Benoni Omer Joseph Pétain (1856 - 1951), thường được biết đến với tên Philippe
Pétain, là thống chế quân đội Pháp đồng thời là thủ tướng trong chính phủ Vichy từ năm 1940 đến năm 1944.
Đức Quốc Xã, còn gọi là Đệ
Tam Đế chế hay Đế chế Thứ ba (tiếng Đức: Drittes Reich), là nước Đức trong thời
kỳ 1933-1945 đặt dưới một chế độ độc tài chịu sự kiểm soát của Adolf Hitler và Đảng Quốc xã (NSDAP)
Chính phủ Vichy giữ được một số chủ quyền
pháp lý tại vùng phía bắc nước Pháp (Vùng chiếm đóng), bị Đức chiếm Wehrmacht,
và có nhiều quyền lực hơn ở vùng phía nam không bị chiếm đóng "vùng tự do", nơi thủ đô hành chính của chính phủ được thiết
lập tại Vichy. Tháng 12
năm 1942 vùng phía nam cũng bị chiếm đóng và nằm dưới quyền cai trị của Đức.
Pétain đã hợp tác với các lực lượng chiếm
đóng Đức để đổi lấy một thỏa thuận giúp nước Pháp không bị các cường quốc phe
Trục phân chia. Chính quyền Vichy đã giúp lùng bắt người Do Thái và những đối tượng "bất hảo" khác, ở mọi
thời điểm, các lực lượng quân sự Vichy Pháp tích cực chống lại Đồng Minh. Đa
phần dân chúng Pháp ban đầu ủng hộ chính phủ mới dù lập trường ủng hộ Phát xít,
coi đây là điều cần thiết để duy trì một mức độ tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của
Pháp.
Tính hợp pháp của chính phủ Vichy và cương
vị lãnh đạo của Pétain luôn bị vị Tướng lưu vong Charles de Gaulle bác bỏ.
Charles de Gaulle
De Gaulle tuyên bố riêng ông đại diện cho
sự tiếp nối và tính hợp pháp của chính phủ Cộng hòa Pháp. Dân chúng Pháp dần
chuyển sang phản đối chính phủ Vichy và các lực lượng chiếm đóng Đức, và lực
lượng kháng
chiến lớn mạnh bên trong nước Pháp. Sau
cuộc đổ bộ của Đồng Minh vào Pháp tháng 6 năm 1944, de Gaulle tuyên bố thành lập Chính phủ
Lâm thời Cộng hòa Pháp (GPRF).
Đa phần các lãnh đạo chính phủ Vichy sau
này đều bị GPRF đưa ra xét xử, và một số họ bị hành quyết. Pétain bị kết án tử
hình vì tội phản quốc, nhưng bản án đã được giảm còn chung thân.
Tổng
quan
Xem thêm thông tin: Thế chiến II, Các sự kiện trước Thế chiến II ở châu Âu, và Các nguyên nhân dẫn tới Thế chiến II
Chính phủ Vichy được thành lập sau khi Pháp đầu hàng Đức ngày 22
tháng 6 năm 1940, và lấy tên theo trung tâm hành chính của chính phủ tại Vichy,
miền trung nước Pháp. Paris vẫn là thủ đô chính thức, và Pétain luôn có ý muốn
chuyển chính phủ về đây khi hoàn cảnh cho phép.
Năm 1940, Thống chế Pétain được biết tới chủ yếu như một người
hùng trong Thế chiến I, người chiến thắng tại Verdun.
Là Thủ tướng cuối cùng của Đệ Tam Cộng hòa, Pétain
lên án nền dân chủ Đệ Tam Cộng hòa vì sự thất bại nhanh chóng của nước Pháp.
Ông đã lập ra một chế độ gia trưởng, ủng hộ Phát xít và cộng tác tích cực với
Đức, tuy nhiên về hình thức vẫn giữ tính trung lập.
Nước Pháp dưới sự chiếm
đóng của Đức (Phát xít chiếm vùng phía bắc bắt đầu từ tháng 11 năm 1942—Chiến dịch Case Anton). Vùng màu
xanh nằm dưới quyền quản lý của Ý.
Có một sự nhầm lẫn thông thường rằng chính phủ Vichy chỉ quản lý
vùng không bị chiếm đóng phía nam nước Pháp (được gọi là "vùng tự do"
[zone libre] của Vichy), còn người Đức trực tiếp quản lý vùng chiếm
đóng. Trên thực tế, quyền tài phán dân sự của chính phủ Vichy mở rộng ra hầu
hết Mẫu quốc Pháp. Chỉ vùng lãnh thổ biên giới
tranh chấp Alsace-Lorraine bị
đặt trực tiếp dưới quyền quản lý của Đức, và (dù có một sự nhầm lẫn thường thấy
khác) thậm chí những vùng đất này không bao giờ bị Đức chính thức sáp nhập.
Tương tự, một phần nhỏ lãnh thổ Pháp tại Alps nằm dưới quyền quản lý trực tiếp
của Ý từ tháng 6 năm 1940 tới tháng 9 năm 1943. Tại tất cả các vùng còn lại,
những nhân viên dân sự nằm dưới quyền quản lý của các bộ trưởng thuộc chính phủ
Vichy Pháp. René Bousquet, lãnh
đạo cảnh sát Pháp do chính phủ Vichy chỉ định, thực hiện quyền lực trực tiếp
tại Paris thông qua người phó, Jean Leguay, người
phối hợp các cuộc tuần tra với Phát xít Đức. Tuy nhiên, các luật pháp của Đức,
có giá trị ưu tiên hơn luật của Pháp tại các vùng lãnh thổ chiếm đóng, và người
Đức thường cư xử lỗ mãng với những nhân viên của chính phủ Vichy.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Xung
đột nội bộ
Bên trong nước Pháp Vichy, có một cuộc nội chiến cường
độ thấp giữa Kháng chiến Pháp, được
dựng lên, dù không phải chỉ bao gồm, những phái Cộng sản và Cộng hòa trong xã
hội chống lại những phái phản động mong muốn một chế độ Phát xít hay
tượng tự, như ở Tây Ban Nha của Francisco
Franco. Cuộc nội chiến này có thể được coi là một sự tiếp nối của
những phe phái tồn tại bên trong xã hội Pháp từ cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, được thể hiện
bởi những sự kiện như:
·
Công xã Paris năm 1871 và cuộc đàn áp bạo
lực sau đó, gồm cả việc thành lập Basilique du Sacré-Coeur để
đền bù cho "Các tội lỗi của Công xã"
Một phần của xã hội Pháp chưa từng chấp nhận chế độ cộng hòa
xuất xứ từ cuộc Cách mạng, và mong muốn tái lập Chế độ Cũ. Lãnh
đạo phe Nước Pháp Hành động theo
quân chủ, Charles Maurras, đã
coi sự xâm lược và đàn áp nền Cộng hòa Pháp của Đức như là một sự "ngạc
nhiên thần thánh".
Sự
sụp đổ của nước Pháp và việc thành lập chính phủ Vichy
Pháp tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm 1939 sau khi Đức xâm lược Ba Lan. Sau
tám tháng chiến tranh kỳ quặc, người
Đức tung ra cuộc tấn công về hướng tây ngày 10 tháng 5
năm 1940. Trong vài ngày, mọi sự trở nên rõ ràng rằng các lực lượng Pháp đang
bị đè bẹp và rằng sự sụp đổ quân sự là không thể tránh khỏi. Chính phủ và các
lãnh đạo quân đội, bị sốc nặng trước sự sụp đổ, tranh cãi nhau về cách tiếp tục
hành động. Nhiều quan chức, gồm cả Thủ tướng Paul Reynaud, muốn
dời chính phủ về các lãnh thổ Bắc Phi, và tiếp tục cuộc chiến với Hải quân và
những nguồn lực khác từ thuộc địa. Những người khác, đặc biệt là Phó thủ tướng
Philippe Pétain và Tổng tư lệnh, Tướng Maxime Weygand, nhấn
mạnh rằng trách nhiệm của chính phủ là phải ở lại Pháp và chia sẻ sự khó khăn
với nhân dân. Những người có quan điểm sau này kêu gọi một sự ngừng bắn ngay
lập tức.
Trong khi cuộc tranh cãi đang tiếp tục, chính phủ bị buộc phải
dời địa điểm nhiều lần, cuối cùng về Bordeaux, để tránh bị các lực lượng Đức
đang tấn công bắt giữ. Việc liên lạc rất khó khăn và hàng nghìn thường dân tị
nạn làm tắc nghẽn các tuyến đường. Trong hoàn cảnh hỗn loạn đó, những người ủng
hộ việc ngừng bắn được ủng hộ. Nội các đồng ý một đề xuất tìm kiếm các thỏa
thuận ngừng bắn với Đức, với ý nghĩ rằng, nếu Đức đặt ra những điều kiện quá
mất mặt hay khó khăn, Pháp sẽ vẫn có thể lựa chọn tiếp tục chiến đấu.
Tướng Charles Huntziger, người
đứng đầu phái đoàn đàm phán ngừng bắn của Pháp, được ra lệnh ngừng đàm phán nếu
người Đức yêu cầu chiếm đóng toàn bộ lãnh thổ Mẫu quốc Pháp, hạm đội pháp hay
bất kỳ một lãnh thổ hải ngoại nào của Pháp. Người Đức đã không làm như vậy.
Pháp đình
chiến với Đức
Xem thêm thông tin: Đức chiếm đóng Pháp trong Thế chiến II và Quan hệ nước ngoài của Chính phủ Vichy
Thủ tướng Paul Reynaud ủng
hộ tiếp tục cuộc chiến, từ Bắc Phi nếu cần thiết; tuy nhiên, ông nhanh chóng bị
những người ủng hộ đầu hàng loại bỏ. Đối diện với tình thế không thể thay đổi,
Reynaud từ chức, và theo đề cử của ông, Tổng thống Albert Lebrun chỉ
định Pétain, khi ấy đã 84 tuổi, lên thay thế ngày 16 tháng 6. Thỏa thuận Ngừng
bắn với Pháp (Second Compiègne) được ký ngày 22 tháng 6.
Một thỏa thuận riêng biệt khác được ký với Italia, nước đã tham chiến với Pháp
ngày 10 tháng 6, ngay sau khi kết quả cuộc chiến đã được định đoạt.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các điều
kiện đình chiến và cuộc bỏ phiếu ngày 10 tháng 7 năm 1940
Thỏa thuận đình chiến chia nước Pháp thành hai vùng chiếm đóng
và không chiếm đóng: miền bắc và miền tây nước Pháp gồm toàn bộ bờ biển Đại Tây
Dương bị Đức chiếm, và phần còn lại khoảng hai phần năm lãnh thổ nằm dưới sự
quản lý của chính phủ Pháp, với thủ đô tại Vichy dưới quyền quản lý của Pétain.
Vẻ ngoài, chính phủ Pháp quản lý toàn bộ lãnh thổ.
Quân đội Đình chiến
Người Đức muốn tự mình chiếm đóng miền bắc Pháp. Đa phần trong
số 1.6 triệu tù binh chiến tranh Pháp, bị chuyển tới Đức
vào cuối năm 1940 và sẽ tiếp tục bị giam cầm trong suốt cuộc chiến. Người Pháp
bị buộc phải trả các chi phí cho đội quân 300,000 lính Đức, lên tới 20 triệu
Reichmark mỗi ngày, tính theo tỷ suất 20 franc trên mỗi Mark. Con số này cao
gấp 50 lần chi phí thực cho đội quân chiếm đóng. Chính phủ Pháp cũng có trách
nhiệm ngăn chặn các công dân bỏ trốn ra nước ngoài.
Điều IV của Thỏa thuận Đình chiến cho phép một Quân đội Pháp cỡ nhỏ - Quân đội Đình
chiến (Armée de l'Armistice) – tại vùng không chiếm đóng, và lực lượng
dự phòng quân sự tại Đế chế thuộc địa Pháp hải ngoại. Chức năng của
các lực lượng này là giữ an ninh nội bộ và bảo vệ các lãnh thổ Pháp khỏi các
cuộc tấn công của Đồng
Minh. Các lực lượng Pháp nằm dưới sự quản lý chung của các lực lượng
vũ trang Đức.
Sức mạnh chính xác của Quân đội Mẫu quốc Vichy Pháp được ước
tính khoảng 3,768 sĩ quan, 15,072 hạ sĩ quan, và 75,360 lính. Tất cả đều là
người tình nguyện. Ngoài quân đội, số lượng Gendarmerie (Cảnh
sát) được quy định là 60,000 người cộng thêm lực lượng phòng không 10,000
người. Dù có thêm những binh sĩ đã được huấn luyện từ các lực lượng thuộc địa
(đã bị cắt giảm về số lượng theo Thỏa thuận Đình chiến), vẫn có một sự thiếu
hụt lớn người tình nguyện. Vì thế, 30,000 người thuộc "class of 1939"
được bổ sung cho đủ. Ở thời điểm đầu năm 1942 những lĩnh nghĩa vụ này được giải
ngũ, nhưng vẫn không có đủ số lượng lính. Sự thiếu hụt này kéo dài tới khi chế
độ bị giải tán, dù chính phủ Vichy đã đề nghị người Đức cho thực hiện một hình
thức nghĩa vụ quân sự chính quy.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Yêu cầu bắt giữ của Đức
Nước Pháp bị yêu cầu chuyển giao bất kỳ công dân Đức nào trong
nước mà người Đức yêu cầu. Pháp cho rằng đây là một điều khoản "mất
mặt", bởi nó sẽ khiến Pháp phải áp giải những người đã từng xin tị nạn từ
Đức. Những nỗ lực đàm phán về điểm này với Đức đã không thành, và Pháp quyết
định không vật nài về vấn đề tới mức phải từ chối Thỏa thuận Đình chiến, dù họ
có thể đã hy vọng sẽ giảm nhẹ yêu cầu này trong những cuộc đàm phán tương lai
với Đức sau khi ký kết.
Chính phủ Vichy
Ngày 1 tháng 7 năm 1940, Nghị viện và chính phủ nhóm họp tại thị
trấn Vichy, thủ đô lâm thời của họ tại miền trung nước Pháp. Laval và Raphaël Alibert bắt
đầu chiến dịch của mình để thuyết phục các Thượng, Hạ nghị sĩ có mặt bỏ phiếu
trao toàn quyền cho Pétain. Họ sử dụng mọi biện pháp
có thể, hứa hẹn những chức vụ bộ trưởng cho một số người và đe dọa cũng như
lung lạc những người còn lại. Những người này được hưởng lợi nhờ sự vắng mặt
của những nhân vật nổi tiếng, có uy tín, những người có thể phản đối họ,
như Georges Mandel và Édouard Daladier, khi ấy đang ở trên tàu Massilia tới
lưu vong ở Bắc Phi. Ngày 10 tháng 7 Quốc hội, gồm cả các Thượng và Hạ nghị sĩ,
bỏ phiếu với tỷ lệ 569 trên 80, với 20 vắng mặt có
chủ ý, trao toàn quyền đặc biệt cho Thống chế Pétain. Cũng trong cuộc bỏ phiếu
này, họ trao cho ông quyền soạn thảo một hiến pháp mới. Nhóm
thiểu số gồm những người Cấp tiến và Xã hội phản
đối Laval bắt đầu được gọi là Nhóm Vichy 80(tiếng
Pháp: "les quatre-vingts"). Các đại biểu và
Thượng nghị sĩ bỏ phiếu trao quyền tuyệt đối cho Pétain sau giải phóng bị lên
án trên quan điểm cá nhân.
Tính pháp lý của cuộc bỏ phiếu này đã bị đa số nhà sử học Pháp
và tất cả các chính phủ Pháp sau này bác bỏ. Có ba lý do chính được đưa ra:
·
Sự bãi bỏ quy trình pháp lý
·
Việc nghị viện không thể đại diện các quyền lực hiến pháp của
mình khi không thể điều khiển việc thực hiện a posteriori của
mình
·
Sửa đổi hiến pháp năm 1884 khiến không thể đặt vấn đề nghi ngờ
"hình thức cộng hòa" của chế độ
Trái lại, những người ủng hộ chính phủ Vichy, chỉ ra rằng việc
sửa đổi được thực hiện bởi hai phần ba đại biểu (Thượng viện và Hạ viện), tuân
thủ đúng pháp luật.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Văn bản được Nghị viện bỏ phiếu tuyên bố:
"Quốc hội trao toàn quyền cho chính phủ của nền Cộng hòa,
dưới quyền lực và chữ ký của Thống chế Pétain, để thực hiện công bố một hay
nhiều đạo luật một hiến pháp mới của nhà nước Pháp. Hiến pháp này phải đảm bảo
các quyền của người lao động, của gia đình và của tổ quốc. Nó sẽ được phê chuẩn
bởi quốc gia và được áp dụng bởi những cơ quan mà nó đã tạo ra.
Đồng 1 Franc năm 1943. Mặt trước: "Nhà
nước Pháp." Mặt sau: "Cần lao. Gia đình. Tổ quốc."
Đạo luật Hiến pháp ngày 11 và 12 tháng 7 năm 1940 trao
cho Pétain mọi quyền lực (lập pháp, tư pháp, hành chính, hành pháp và ngoại
giao) và chức vụ "lãnh đạo nhà nước Pháp" (chef de l'État français),
cũng như quyền chỉ định người kế vị.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Sự hợp tác Nhà nước với Đức
Bài quá dài, phải cắt bớt
Một lực lượng cảnh sát bán vũ trang quốc gia, GMR thỉnh thoảng
được sử dụng trong các hoạt động chống lại Kháng chiến Pháp, nhưng
mục đích chủ yếu của nó là để đảm bảo quyền lực của chính phủ Vichy thông qua
hành động dọa dẫm và đàn áp dân thường. Sau giải phóng, một số đơn vị bị sáp
nhập với Quân đội Pháp Tự do thành lập nên Compagnies
Républicaines de Sécurité(CRS, Các đại đội An ninh Cộng
hòa), lực lượng chống bạo động chủ yếu của Pháp.
Cảnh sát Pháp ghi tên tù nhân mới tại trại tù
Pithiviers
Các chính
sách về chủng tộc và sự hợp tác của chính phủ Vichy
Cảnh sát Pháp canh giữ tù nhân
Ngay khi được thành lập, chính phủ Pétain đã thực hiện các biện
pháp chống lại cái gọi là "những kẻ bất hảo": người
Do Thái, métèques (người
nhập cư từ các quốc gia Địa Trung Hải), hội viên Tam điểm, những người Cộng sản, Gypsies, người
đồng tính Bản
mẫu:Reference necessary, và những nhà hoạt động cánh tả.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Chính phủ Vichy cũng thông qua các điều luật phân biệt chủng tộc
trên các lãnh thổ của họ ở Bắc Phi (Morocco, Algeria và Tunisia). "Lịch sử
nạn diệt chủng tại ba thuộc địa ở Bắc Phi của Pháp (Algeria, Morocco, và
Tunisia) thực chất gắn liền với số phận của nước Pháp trong giai đoạn
này."[21][22][23][24][25]
Các chính sách ưu sinh
Năm 1941 người đoạt giải
Nobel Alexis
Carrel, một người đề xuất ưu sinh và chết không đau đớn, và là
một thành viên của Đảng Nhân dân Pháp (PPF)
của Jacques Doriot,[cần dẫn nguồn] đã
ủng hộ việc thành lập Fondation Française pour l'Étude des Problèmes
Humains (Quỹ nghiên cứu các vấn đề con người Pháp), với những mối quan
hệ với nội các Pétain. Chịu trách nhiệm "nghiên cứu, ở mọi khía cạnh, các
biện pháp với mục đích bảo vệ, cải thiện và phát triển dân số Pháp ở mọi hoạt động", Quỹ được thành
lập theo nghị định của
chế độ cộng tác Vichy năm 1941, và Carrel được chỉ định làm 'thành viên quản
trị'.[27] Trong
một khoảng thời gian quỹ này có tổng thư ký là François Perroux.[cần dẫn nguồn]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Đạo luật về người Do Thái
Poster trên cửa vào cuộc triển lãm bài Do
Thái được gọi là "Người Do Thái và nước Pháp"
Một sắc
lệnh ngày 21 tháng 9 năm 1940 của Phát xít buộc người Do Thái ở
"vùng chiếm đóng" phải khai báo tại một đồn cảnh sát hay sub-prefectures (sous-préfectures).
Bài quá dài, phải cắt bớt
Cuộc vây bắt Vel' d'Hiv tháng 7
năm 1942
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các cuộc
đột kích tháng 8 năm 1942 và tháng 1 năm 1943
Bài quá dài, phải cắt bớt
Những
người Pháp cộng tác
Stanley Hoffmann trong
tác phẩm năm 1974 của mình,[36] và
sau ông, một số nhà sử học khác như Robert Paxton và Jean-Pierre Azéma đã
sử dụng thuật ngữ những người cộng tác để chỉ những kẻ phát
xít và những người có thiện cảm với chủ nghĩa Phát xít, những người vì các lý
do lý tưởng, muốn tăng cường sự hợp tác với nước Đức của Hitler. Những ví dụ
gồm lãnh đạo Parti Populaire Français (PPF) Jacques Doriot, tác
gia Robert Brasillach hay Marcel Déat. Một
động cơ chính và nền tảng lý tưởng trong số những người cộng tác là
chống chủ nghĩa cộng sản và mong muốn chứng kiến sự thất bại của những
người Bolshevik.[36]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Quan
hệ với các cường quốc Đồng Minh
1/ Hoa Kỳ trao cho chính phủ Vichy sự công nhận ngoại giao toàn
diện, cử Đô đốc William D. Leahy tới
Pháp làm Đại sứ. Tổng thống Franklin D. Roosevelt và Ngoại trưởng Cordell Hull hy
vọng sử dụng ảnh hưởng của Mỹ để khuyến khích những người có lập trường chống sự
hợp tác quân sự với Đức trong chính phủ Vichy. Người Mỹ cũng hy vọng khuyến
khích chính phủ Vichy chống lại các yêu sách chiến tranh của Đức, như các căn cứ
không quân tại Syria ủy trị của Pháp hay cho chuyên chở quân nhu qua các lãnh
thổ Pháp vào Bắc Phi. Quan điểm then chốt của Mỹ là Pháp phải không hành động
cũng như không bị ràng buộc bởi các điều khoản ngừng chiến có thể gây phương hại
tới những nỗ lực chiến tranh của Đồng Minh.
2/ Liên Xô duy
trì quan hệ ngoại giao toàn diện với chính phủ Vichy cho tới ngày 30 tháng 6
năm 1941. Các quan hệ này chấm dứt sau khi chính phủ Vichy ủng hộ Chiến dịch Barbarossa.
3/ Vì những yêu cầu của Anh và tính nhạy cảm
do những công dân gốc Pháp của mình, Canada duy trì quan hệ ngoại giao toàn diện
với chế độ Vichy cho tới đầu tháng 11 năm 1942 và Case Anton.[38]
4/ Australia duy trì quan hệ ngoại giao đầy
đủ với chính phủ Vichy cho tới cuối cuộc chiến, và cũng có quan hệ ngoại giao đầy
đủ với Pháp Tự do.[39]
5/ Vương quốc Anh, một thời gian ngắn
sau Thỏa thuận đình chiến (22
tháng 6 năm 1940), đã tấn công một lực lượng hải quân lớn của Pháp tại Mers-el-Kebir, giết
hại 1,297 quân nhân Pháp. Chính phủ Vichy hạ cấp quan hệ ngoại giao. Người Anh
sợ rằng hạm đội hải quân pháp có thể bị rơi vào tay Đức và sử dụng để chống lại
những hạm đội của họ, vốn có tầm quan trọng rất lớn trong việc duy trì đường
hàng hải và liên lạc ở Bắc Đại Tây Dương.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Thành
lập Các Lực lượng Pháp Tự do
Để chống lại chế độ Vichy, Tướng Charles de Gaulle đã lập
ra Các Lực lượng Pháp Tự do (FFL) sau bài phát
biểu Kêu gọi ngày 18 tháng 6 năm
1940 trên radio của ông. Ban đầu, Winston
Churchill chơi bài nước đôi về de Gaulle và ông chỉ cắt đứt quan hệ
với chính phủ Vichy khi mọi thứ rõ ràng rằng họ sẽ không chiến đấu. Thậm chí
khi đó, cơ quan đầu não của Pháp Tự do tại London vẫn bị rạn nứt bởi sự chia rẽ
từ bên trong và sự đố kị.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Lịch
sử kinh tế xã hội
Chính quyền Vichy phản đối mạnh mẽ các khuynh hướng xã hội
"hiện đại" và đã tìm cách thông qua "cải tạo quốc gia" để
khôi phục cách hành xử trở lại theo truyền thống Cơ đốc giáo.
Kinh tế
Chính phủ Vichy tán dương những người lao động có tay nghề và
những tiểu chủ. Tuy nhiên, trên thực tế, nhu cầu về những thợ thủ công để làm
gia các vật liệu thô đã bị bỏ qua để nhường chỗ cho những doanh nghiệp lớn.[41] Ủy ban Toàn thể của Tổ
chức Thương mại (CGOC) là một chương trình quốc gia để hiện đại hóa và chuyên
môn hóa những doanh nghiệp nhỏ.[42]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Phụ nữ
Bài quá dài, phải cắt bớt
Các
thuộc địa Pháp và Chính phủ Vichy
Ở Trung Phi ba trong bốn thuộc địa chính tại Châu
Phi Xích đạo thuộc Pháp đã hầu như lập tức bỏ theo Pháp tự
do, Tchad ngày 26 tháng 8 năm 1940, Congo thuộc Pháp ngày
29 tháng 8 năm 1940, và Ubangi-Shari ngày
30 tháng 8 năm 1940. Tiếp theo là thuộc địa Cameroon ngày
27 tháng 8 năm 1940. Thuộc địa cuối cùng tại Châu
Phi Xích đạo thuộc Pháp, Gabon, đã bị
lực lượng quân đội chiếm từ 27 tháng 10 tới 12 tháng 11 năm 1940[48]. Ở
thời điểm ấy, đa số thuộc địa có khuynh hướng ngả theo Đồng Minh một cách hòa
bình trước những sự kiện luôn thay đổi.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Xung đột
với Anh tại Mers-el-Kebir, Dakar, Gibraltar, Syria, và Madagascar
Bài chi tiết: Tiêu diệt Hạm đội Pháp tại Mers-el-Kebir, Trận Dakar, Lịch sử quân sự Gibraltar trong Thế chiến II, Chiến dịch Syria-Liban , và Trận
Madagascar
Đài tưởng niệm 1,297 thủy thủ Pháp chết trong
trận ném bom của Anh vào hạm đội của Pháp tại Mers El Kebir.
Quan hệ giữa Vương quốc Anh và chính phủ Vichy gặp nhiều trắc
trở. Chính phủ Vichy đã hủy bỏ quan hệ ngoại giao với Vương quốc Anh ngày 5
tháng 7 năm 1940, sau khi Hải quân Hoàng gia ném bom các tàu
chiến Pháp tại cảng Mers-el-Kebir, Algeria. Vụ ném bom hạm đội
Pháp diễn ra sau một giai đoạn nghi kỵ trong đó người Anh đòi hỏi người Pháp
hoặc phải đánh đắm hoặc di tản tới một cảng trung lập hoặc gia nhập với họ
trong cuộc chiến chống Phát xít Đức. Những đề xuất này đều bị từ chối và hạm
đội đã bị phá hủy. Hành động này của Anh đã làm xấu đi quan hệ giữa hai cựu
đồng minh và khiến có thêm nhiều người Pháp gia nhập với chính phủ Vichy chống
lại Pháp Tự do được Anh ủng hộ.[49]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Đông
Dương
Bài chi tiết: Xâm lược Đông Dương thuộc Pháp, Chiến tranh Pháp-Thái Lan, và Chiến dịch
Đông Dương lần thứ hai
Tháng 6 năm 1940 Sự sụp đổ của Pháp rõ
ràng khiến khả năng kiểm soát Đông Dương của Pháp yếu đi trông thấy. Bộ máy cai
trị thuộc địa bị cô lập, dưới sự lãnh đạo của Patrick He, bị cắt hoàn toàn khỏi
sự giúp đỡ và nguồn cung cấp từ bên ngoài. Sau những cuộc đàm phán với Nhật
Bản, Pháp đã đồng ý để Nhật thiết lập các căn cứ quân sự tại Đông Dương.[50]
Bài quá dài, phải cắt bớt
Somaliland
thuộc Pháp
Bài quá dài, phải cắt bớt
Bắc Phi
thuộc Pháp
Bài quá dài, phải cắt bớt
châu Đại
Dương
Bài quá dài, phải cắt bớt
Đức
xâm lược, tháng 11 năm 1942 và sự suy tàn của chính quyền Vichy
Hitler ra lệnh thực hiện Case Anton, chiếm
Corsica và sau đó là cả phần miền nam chưa bị chiếm đóng, trong một hành động
phản ứng ngay sau khi Đồng Minh đổ bộ vào Bắc Phi (Chiến dịch Ngọn Đuốc) ngày
8 tháng 11 năm 1942. Sau khi chiến dịch kết thúc ngày 12 tháng 11, các lực
lượng quân sự còn lại của chính phủ Vichy bị giải tán. Chính phủ Vichy tiếp tục
thực hiện quyền tài phán còn lại của mình tại hầu như toàn bộ mẫu quốc Pháp,
với quyền lực còn lại được chuyển cho Laval, cho tới khi chế độ dần sụp đổ sau
khi Đồng Minh tấn công tháng 6 năm 1944. Ngày 7 tháng 9 năm 1944, sau khi Đồng
Minh đổ bộ vào Pháp, những người còn lại trong chính phủ Vichy bỏ chạy sang Đức
và lập ra một chính phủ bù nhìn hải
ngoại tại Sigmaringen. Chính
phủ này cuối cùng sụp đổ khi thành phố bị quân đội Pháp chiếm tháng 4 năm 1945.
Một phần tính pháp lý còn lại của chính phủ Vichy là do sự tiếp
tục mâu thuẫn của các lãnh đạo Anh và Hoa Kỳ. Tổng thống Roosevelt tiếp tục duy
trì quan hệ với Vichy và nâng đỡ Tướng Henri Giraud như
một nhân vật được ưa chuộng để thay thế Tướng de Gaulle, dù khả năng hoạt động
kém của các lực lượng Vichy tại Bắc Phi – Đô đốc François Darlan đã
đổ bộ vào Algiers ngày trước Chiến dịch Ngọn đuốc.
Algiers là nơi đóng trụ sở Quân đoàn XIX Vichy Pháp, kiểm soát các đơn vị quân
sự của chính quyền này ở Bắc Phi. Darlan bị trung lập hóa trong 15 giờ bởi một
lực lượng kháng chiến mạnh gồm 400 lính Pháp. Roosevelt và Churchill đã chấp
nhận Darlan, chứ không phải de Gaulle, là lãnh đạo tại Bắc Phi. De Gaulle còn
không được thông tin về cuộc đổ bộ tại Bắc Phi.[58] Hoa Kỳ cũng bực mình với
việc Pháp Tự do kiểm soát St Pierre và Miquelon ngày
24 tháng 12 năm 1941, bởi Ngoại trưởng Hull tin
rằng, việc này can thiệp vào một thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Vichy nhằm duy trì
tình trạng hiện tại với sự thừa nhận sự sở hữu lãnh thổ của Pháp tại tây bán
cầu.
Sau cuộc đổ bộ vào Pháp qua Normandy và Provence (Chiến dịch Lãnh chúa và Chiến dịch Dragoon) và sự
bỏ chạy của các lãnh đạo Vichy, Hoa Kỳ, Anh Quốc và Liên Xô cuối cùng công
nhận Chính phủ Lâm thời Cộng hòa
Pháp (GPRF), dưới sự lãnh đạo của de Gaulle, là chính phủ hợp
pháp của Pháp ngày 23 tháng 10 năm 1944. Trước hành động này, sự trở lại đầu
tiên của chế độ dân chủ với Mẫu quốc Pháp từ năm 1940 đã diễn ra với tuyên
bố Cộng hòa Tự do Vercors ngày
3 tháng 7 năm 1944, theo chỉ thị của chính
phủ Pháp Tự do—nhưng hành động này của Kháng chiến đã
bị đàn áp bởi một cuộc tấn công áp đảo của Đức vào cuối tháng 7.
Bắc Phi
Tại Bắc Phi, sau ngày 8 tháng 11 năm 1942 cuộc nổi dậy của
kháng chiến Pháp khiến hầu hết nhân vật trong chính phủ Vichy bị bắt giữ (gồm
cả Tướng Alphonse Juin, tổng
chỉ huy tại Bắc Phi và Đô đốc Darlan). Tuy nhiên, Darlan được thả và Tướng
Mỹ Dwight D. Eisenhower cuối cùng chấp nhận việc
ông tự phong là cao ủy của Bắc Phi và Tây Phi thuộc Pháp (Afrique occidentale
française, AOF), một hành động khiến de Gaulle nổi giận, ông từ chối công
nhận vị thế của Darlan. Sau khi Darlan ký một thỏa thuận ngừng bắn với Đồng
Minh và chiếm quyền lực tại Bắc Phi, Đức vi phạm thỏa thuận ngừng bắn năm 1940
và xâm lược nước Pháp Vichy ngày 10 tháng 11 năm 1942 (chiến dịch được đặt tên
hiệu Case Anton), gây
ra vụ đánh
đắm hạm đội Pháp tại Toulon.
Giraud tới Algiers ngày 10 tháng 11, đồng ý phụ thuộc vào Darlan làm
chỉ huy quân đội châu Phi Pháp. Thậm chí khi ấy ông đang ở trại của Đồng Minh,
Darlan tiếp tục duy trì hệ thống đàn áp của chính phủ Vichy tại Bắc Phi, gồm
cả các
trại tập trung ở miền nam Algérie và
các đạo luật phân biệt sắc tộc. Những người bị giam giữ bị buộc phải làm việc
trên tuyến đường sắt Transsaharien. Các
hàng hóa của người Do Thái bị "aryan hóa" (ví dụ, cướp đoạt), và một
Sở đặc biệt về vấn đề Do Thái được lập ra, dưới sự lãnh đạo của Pierre Gazagne. Nhiều
trẻ em Do Thái bị cấm tới trường, một điều mà thậm chí chính phủ Vichy còn
không thực hiện ở mẫu quốc Pháp.[58] Vị đô đốc bị giết ngày 24
tháng 12 năm 1942, tại Algiers bởi người thanh niên theo chủ nghĩa quân chủ
là Bonnier de La Chapelle. Dù de
la Chapelle từng là một thành viên của nhóm kháng chiến của Henri
d'Astier de La Vigerie, mọi người tin rằng anh ta hành động một
mình.
Sau vụ ám sát Đô đốc Darlan, Giraud trên thực tế trở thành người
kế vị ông ta tại châu Phi thuộc Pháp với sự hỗ trợ của Đồng Minh. Điều này xảy
ra thông qua một loạt các cuộc tư vấn giữa Giraud và de Gaulle. De Gaulle muốn
theo đuổi một vị trí chính trị tại Pháp và đồng ý để Giraud làm chỉ huy quân
đội, bởi ông ta là người có trình độ quân sự cao hơn. Điều đáng đặt vấn đề là
ông ta đã ra lệnh bắt giữ nhiều lãnh đạo kháng chiến đã giúp quân đội của
Eisenhower, mà không hề gặp phải sự phản đối nào của đại diện của
Roosevelt, Robert Murphy. Sau
này, người Mỹ đã cử Jean Monnet tới
bàn bạc với Giraud và gây áp lực buộc ông ta phải rút lui các đạo luật của
Vichy. Sau những cuộc đàm phán khó khăn, Giraud đồng ý rút bỏ các đạo luật phân
biệt chủng tộc, và trả tự do cho những tù nhân của chế độ Vichy tại các trại
tập trung ở miền nam Algeria. Nghị định Cremieux, trao
quốc tịch Pháp cho người Do Thái tại Algeria và từng bị chính phủ Vichy rút bỏ,
lập tức được Tướng de Gaulle khôi phục.
Giraud đã tham gia Hội
nghị Casablanca, với Roosevelt, Churchill và de Gaulle, vào tháng 1 năm 1943.
Các quốc gia Đồng Minh đàm phán về chiến lược chung trong cuộc chiến, và công
nhận sự đồng lãnh đạo Bắc Phi của Giraud và de Gaulle. Henri Giraud và Charles
de Gaulle sau đó trở thành đồng chủ tịch của Comité
français de la Libération Nationale, thống nhất Các Lực lượng Pháp Tự do và các lãnh thổ do họ
kiểm soát và đã được thành lập vào cuối năm 1943. Chế độ dân chủ được tái lập
tại Algeria
thuộc PHáp, và những người Cộng sản cùng người Do Thái được thả ra khỏi
các trại tập trung.[58]
Vào cuối tháng 4 năm 1945 Pierre Gazagne, thư
ký của chính phủ dưới sự lãnh đạo của Yves Chataigneau, lợi
dụng sự vắng mặt của ông ta trục xuất lãnh đạo chống đế quốc Messali Hadj và
bắt giữ các lãnh đạo đảng của ông ta, Đảng Nhân dân Algeria (PPA).[58] Vào
ngày Giải phóng Pháp, GPRF sẽ đàn áp mạnh một cuộc nổi dậy ở Algeria trong
vụ thảm sát Sétif ngày
8 tháng 5 năm 1945, vụ việc đã bị một số nhà sử học coi là "sự bắt đầu
của Chiến tranh Algeria".[58]
Độc lập
của SOL
Năm 1943 dân quân cộng tác Service
d'ordre légionnaire (SOL), dưới sự lãnh đạo của Joseph Darnand, trở
thành độc lập và chuyển thành "Milice française"
(Dân quân Pháp). Về chính thức nằm dưới sự chỉ huy của Pierre Laval, SOL
nằm dưới sự lãnh đạo của Darnand, người cũng giữ một chức vụ trong SS và
đã tuyên thệ trung thành với Hitler. Dưới
sự chỉ huy của Darnand và những kẻ dưới quyền, như Paul Touvier và Jacques de Bernonville, Dân
quân chịu trách nhiệm giúp đỡ các lực lượng Đức và cảnh sát trong việc đàn
áp Kháng chiến Pháp và Maquis.
Một poster tuyển mộ của dân quân. Dòng chữ
viết "Chống Chủ
nghĩa Cộng sản / Dân quân Pháp / Tổng thư
Ký Joseph
Darnand".
Ngoài ra, Milice tham
gia với lực lượng Gestapo trong khu vực dưới sự lãnh đạo
của Klaus Barbie lùng bắt kháng chiến và những sắc tộc
thiểu số gồm cả người Do Thái để chuyển tới các trại giam giữ như Trại trục xuất Drancy, trên
đường tới Auschwitz, và những trại tập
trung khác của Đức, gồm cả Dachau và Buchenwald.
Con
số nạn nhân Do Thái
Năm 1940, có xấp xỉ 350,000 người Do Thái tại Mẫu quốc Pháp, chưa tới một nửa trong số họ
có quốc tịch Pháp (và
những người nước ngoài khác, chủ yếu bị trục xuất khỏi Đức trong thập niên
1930).[59] Khoảng
200,000 người trong số họ, và đại đa số người Do Thái nước ngoài, sống tại
Paris và vùng lân cận. Trong số 150,000 người Do Thái Pháp, khoảng 30,000
người, nói chung có nguồn gốc từ Trung Âu, đã được cấp quốc tịch Pháp
trong những năm 1930. Trong tổng số trên, xấp xỉ 25,000 người Do Thái Pháp và
50,000 người Do Thái nước ngoài đã bị trục xuất.[60] Theo
nhà sử học Robert Paxton,
76,000 người Do Thái đã bị trục xuất và chết trong các trại tập trung và trại
giết hại. Gồm cả những người Do Thái chết tại các
trại tập trung tại Pháp, những trường hợp này đưa con số tổng
thành 90,000 người Do Thái chết (một phần tư tổng dân số Do Thái trước chiến
tranh theo ước tính của ông).[61] Các
con số của Paxton ngụ ý rằng 14,000 người Do Thái đã chết trong các trại tập
trung của Pháp. Tuy nhiên, cuộc điều tra có hệ thống về những người Do Thái bị
trục xuất từ Pháp (có quyền công dân hay không) được thực hiện dưới sự lãnh đạo
của Serge Klarsfeld đã
kết luận rằng 3,000 đã chết trong các trại tập trung của Pháp và 1,000 người
nữa đã bị bắn chết. Trong số xấp xỉ 76,000 người bị trục xuất, 2,566 người sống
sót. Vì thế con số tổng hơi thấp hơn 77,500 người chết (chưa tới một phần tư
dân số Do Thái tại Pháp năm 1940).[62]
Theo tỷ lệ, dù con số này cho thấy tổng số người chết thấp hơn
tại một số quốc gia khác (tại Hà Lan, 75% người Do Thái đã bị giết hại).[61] Thực
tế này đã được một số người ủng hộ chính phủ Vichy đưa ra. Tuy nhiên, theo
Paxton, con số này đã thấp hơn nhiều nếu "Nhà nước Pháp" đã không
cộng tác với Đức, vốn thiếu nhân lực cho các hoạt động cảnh sát. Trong cuộc vây bắt Vel' d'Hiv tháng
7 năm 1942, Laval đã ra lệnh trục xuất cả trẻ em, trái lại với lệnh của Đức.
Paxton đã chỉ ra rằng con số đã không cao hơn bởi vì thiếu tàu hỏa chuyên chở,
sự phản kháng của dân chúng và việc trục xuất tới các quốc gia khác (đáng chú ý
là Italy).[61]
Giải
phóng Pháp và hậu quả
Chính phủ
Sigmaringen
Sau khi Paris được giải phóng ngày 25 tháng 8 năm 1944,
Pétain và các bộ trưởng của mình bị các lực lượng Đức đưa sang Đức.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Những
hành động của Chính phủ Lâm thời Pháp
Pháp Tự do, sợ rằng Đồng Minh có thể quyết định đặt Pháp dưới sự
cai quản của AMGOT, cố gắng nhanh chóng
thành lập Chính phủ Lâm thời Cộng hòa
Pháp. Hành động đầu tiên của chính phủ là lập lại chế độ cộng hòa
trên khắp Mẫu quốc Pháp.
Chính phủ Lâm thời coi chính phủ Vichy là vi hiến và vì thế mọi
hành động của nó đều không hợp pháp. Tất cả các quy chế, đạo luật, quy định và
quyết định của chính phủ Vichy vì thế đều không có hiệu lực và không được thực
hiện. Tuy nhiên, bởi sự hủy bỏ hàng loạt các quyết định của chính phủ Vichy,
gồm cả nhiều quyết định có thể được áp dụng bởi các chính phủ Cộng hòa, là
không thực tế, nên chính phủ lâm thời quyết định rằng việc hủy bỏ đó đã được
chính phủ ghi nhận. Một số đạo luật và điều luật bị dứt khoát xóa bỏ, gồm tất
cả đạo luật về hiến pháp, tất cả các đạo luật phân biệt chống người Do Thái, và
tất cả các điều luật chống lại "các hội kín" (ví dụ Hội Tam Điểm), và tất cả các đạo luật lập ra các tòa án
đặc biệt.[66]
Các tổ chức bán quân sự và chính trị theo đường lối hợp tác
như Milice và Service
d'ordre légionnaire, cũng bị giải tán.[66]
Chính phủ lâm thời cũng thực hiện các bước để thay thế các chính
quyền địa phương, gồm cả các tổ chức đã bị chế độ Vichy đàn áp, bằng các cuộc
bầu cử mới hay bằng cách kéo dài nhiệm kỳ của những người đã được bầu không
muộn hơn năm 1939.[67]
Các cuộc
thanh trừng
Sau giải phóng, trong một giai đoạn ngắn nước Pháp đã rơi vào
một làn sóng những vụ hành quyết những người cộng tác. Họ bị đưa tới Vélodrome d'hiver, nhà
tù Fresnes hay trại giam giữ Drancy. Những
phụ nữ bị nghi ngờ có quan hệ luyến ái với người Đức, hay thường thấy hơn là
gái điếm đã từng tiếp các khách hàng Đức, bị lăng mạ công khai bằng cách cạo
đầu. Những người đã tham gia vào chợ đen cũng bị bêu xấu là "những kẻ
kiếm lợi từ chiến tranh" (profiteurs de guerre), và bị công khai
gọi là "BOF" (Beurre Oeuf Fromage, hay Bơ Trứng Pho mát, bởi
đó là các sản phẩm được bán với giá trên trời thời Chiếm đóng). Tuy
nhiên, Chính phủ Lâm thời Cộng hòa
Pháp (GPRF, 1944–46) đã nhanh chóng tái lập trật tự, và đưa
những người cộng tác ra trước các tòa án. Nhiều người bị kết án đã được ân xá dưới
thời Đệ Tứ Cộng hòa (1946–54).
Các nhà sử học đã chia làm bốn giai đoạn khác nhau:
1/ giai đoạn đầu tiên là những vụ kết án của
dân chúng (épuration sauvage – trừng phạt man rợ): những vụ hành
quyết không có quan tòa xét xử, và cạo đầu các phụ nữ. Những ước tính của các quận trưởng cảnh sát được
thực hiện năm 1948 và 1952 cho thấy có tới 6,000 vụ hành quyết trước Giải
phóng, và 4,000 vụ sau đó.
2/ giai đoạn hai (épuration légale trừng
phạt pháp lý), bắt đầu với các mệnh lệnh ngày
26 và 27 tháng 6 năm 1944 của Charles de Gaulle (mệnh lệnh đầu tiên của de
Gaulle lập ra các Ủy ban trừng phạt ngày 18 tháng 8 năm 1943): các phán quyết
cho những người hợp tác của Commissions d'épuration, đã kết tội gần
120,000 người (ví dụ Charles Maurras, lãnh
đạo phái Action Française trung
thành, và vì thế đã bị kết án chung thân ngày 25 tháng 1 năm1945), gồm cả 1,500
án tử hình (Joseph Darnand, lãnh
đạo Milice, và Pierre Laval, lãnh
đạo nhà nước Pháp, bị hành quyết sau vụ xét xử ngày 4 tháng 10 năm 1945, Robert Brasillach, bị
hành quyết ngày 6 tháng 2 năm 1945, vân vân)—nhiều người trong số đó sống sót
qua giai đoạn này và sau đó đã được ân xá.
3/ giai đoạn ba, có khoan dung hơn với những
người cộng tác (phiên tòa xử Philippe Pétain hay tác gia Louis-Ferdinand Céline).
4/ cuối cùng là giai đoạn bốn với những
hành động ân xá và chiếu cố (ví dụ Jean-Pierre Esteva, Xavier Vallat, người
lập ra Ủy ban Chung về các Vấn đề Do Thái, René Bousquet, lãnh đạo cảnh sát
Pháp, vân vân)
Các nhà sử học khác đã phân biệt các vụ trừng phạt chống các trí
thức (Brasillach, Céline, vân), những nhà công nghiệp, những chiến binh (LVF,
vân vân) và những nhân viên dân sự (Papon, vân vân).
https://s20.postimg.cc/yfer1qhul/Kollaboration_beschuldigte_Franz_sinnen.jpg
Paris 1944: Những phụ nữ bị buộc tội cộng tác
với Phát xít Đức bị đưa diễu trên đường phố
Philippe Pétain bị kết tội phản quốc tháng 7 năm 1945. Ông bị
kết tội và kết án tử hình bằng cách bắn súng, nhưng Charles de Gaulle đã giảm
án thành chung thân. Trong lực lượng cảnh sát, một số người cộng tác nhanh
chóng tiếp nhận lại những trách nhiệm chính thức. Sự tiếp tục này đã bị chỉ ra,[cần dẫn nguồn] đặc
biệt liên quan tới các sự kiện của vụ Thảm sát Paris năm 1961, bị
hành quyết theo lệnh của lãnh đạo cảnh sát Paris Maurice Papon khi
Charles de Gaulle đang là nguyên thủ quốc gia. Papon đã bị xét xử và kết án tội
ác chống lại loài người năm 1998.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Những
phiên tòa trong thập niên 1980
Một số người bị buộc tội ác chiến tranh đã bị xét xử, một số tới
lần thứ hai, từ những năm 1980 trở về sau: Paul Touvier, Klaus
Barbie, Maurice Papon, René
Bousquet, lãnh đạo cảnh sát Pháp trong chiến tranh và người phó Jean Leguay (hai
người cuối cùng bị buộc tội vì trách nhiệm trong vụ Vây bắt Vel' d'Hiv tháng
7 năm 1942).
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tranh
cãi lịch sử và trách nhiệm của nước Pháp: "Hội chứng Vichy"
Cho tới thời kỳ tổng thống của Jacques
Chirac, quan điểm chính thức của chính phủ Pháp là chính quyền Vichy
là một chính phủ bất hợp pháp khác biệt với nhà nước Cộng hòa Pháp, được thành lập
bởi những kẻ phản bội dưới sự ảnh hưởng của nước ngoài. Quả thực, chính quyền
Vichy Pháp tránh cái tên chính thức Pháp ("Cộng hòa Pháp") và tự gọi
mình là "Nhà nước Pháp", thay thế khẩu hiệu Cộng hòa Tự do,
Bình đẳng, Bác ái, thừa kế từ cuộc Cách mạng Pháp năm 1789, bằng khẩu
hiệu Cần
lao, Gia đình, Tổ quốc.
Bài quá dài, phải cắt bớt
Tranh cãi
"Kiếm và khiên"
Ngày nay, một số người ủng hộ chế độ Vichy tiếp tục viện dẫn lý
lẽ chính thức do Pétain và Laval đưa ra: sự hợp tác nhà nước là để bảo vệ dân
chúng Pháp khỏi những gian khổ của sự Chiếm đóng. Sau chiến tranh, những người
hợp tác và "pétainistes" (người ủng hộ Pétain) cũ cho rằng tuy
Charles de Gaulle đã đại diện cho "thanh kiếm" của nước Pháp, Pétain
đã là "chiếc khiên" bảo vệ nước Pháp.
"Người
Do Thái Pháp và người Do Thái nước ngoài ": sự thực hay huyền thoại?
Dù tuyên bố này bị phần còn lại của người dân Pháp và chính nước
Pháp phản đối, một huyền thoại khác vẫn được lưu truyền rộng rãi hơn. Huyền
thoại này đề cập tới cái gọi là sự "bảo vệ" của nước Pháp Vichy với
người Do Thái bằng cách "chấp nhận" hợp tác trong việc trục xuất—và,
trên hết, trong việc kết liễu- người Do Thái nước ngoài.
No comments:
Post a Comment