Sunday, July 22, 2018

Cách nay đúng 55 năm, Sarawak được Anh trao trả độc lập. Xứ này liền gia nhập với Mã Lai Á hai tháng sau. Một đất nước có 2 phần lãnh thổ bị chia cắt bởi đại dương.

Ngày 22 tháng 07, 1963

·        1963 – Thuộc địa Sarawak của Anh được độc lập, chưa đầy hai tháng sau Sarawak tham gia hình thành Malaysia.


Sarawak

—  Bang  —
Negeri Kenyalang (Vùng đất của chim mỏ sừng)
Hiệu kỳ

Huy hiệu
Tên hiệu:               Vùng đất của chim mỏ sừng
Khẩu hiệu:             "Bersatu, Berusaha, Berbakti", "Đoàn kết, cần miễn, phụng hiến"
Hiệu ca:                 Ibu Pertiwiku (quê ta)
   Sarawak trong    Malaysia
Trực thuộc           Malaysia
Thủ phủ                Kuching
Tỉnh                       Betong, Bintulu, Kapit, Kuching, Limbang, Miri, Mukah, Samarahan, Sarikei, Sibu, Sri Aman

Diện tích                                        124.450 km2 (48,050 mi2)

Dân số (2015)
Tổng                      2.636.000
Mật độ                  21/km2 (55/mi2)

 HDI (2017)            0,757 (cao) (11th)

Múi giờ                 UTC+8 
Mã bưu chính      93xxx đến 98xxx
Mã điện thoại      082 (Kuching)(Samarahan)
083 
(Sri Aman)(Betong)
084 
(Sibu)(Kapit)(Sarikei)(Mukah)
085 
(Miri)(Limbang)(Marudi)(Lawas)
086 
(Bintulu)(Belaga)
Mã ISO 3166         MY-13 
Biển số xe             QA & QK (Kuching)
QB 
(Sri Aman)
QC 
(Kota Samarahan)
QL 
(Limbang)
QM 
(Miri)
QP 
(Kapit)
QR 
(Sarikei)
QS 
(Sibu)
QT 
(Bintulu)
QSG 
(Chính phủ bang Sarawak)
Trang web            www.sarawak.gov.my
Sarawak (phát âm tiếng Anh: /səˈrɑːwɒk/phát âm tiếng Mã Lai: [saˈrawaʔ]) là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập cư và tư pháp khác biệt với các bang tại bán đảo Mã Lai. Sarawak nằm tại miền tây bắc đảo Borneo, giáp với bang Sabah về phía đông bắc, giáp với phần đảo Borneo thuộc Indonesia hay còn gọi là Kalimantan về phía nam, và giáp với quốc gia độc lập Brunei tại đông bắc.
Indonesia (tên chính thức: Cộng hòa Indonesia, tiếng Indonesia: Republik Indonesia) trước đó trong tài liệu tiếng Việt quốc gia này từng được gọi là Nam Dương, là một quốc gia nằm giữa Đông Nam ÁChâu Đại Dương.
Thành phố thủ phủ bang là Kuching, đây là trung tâm kinh tế của bang và là nơi đặt trụ sở chính phủ cấp bang. Các thành thị lớn khác tại Sarawak gồm MiriSibu, và Bintulu. Theo điều tra nhân khẩu năm 2015 tại Malaysia, tổng dân số Sarawak là 2.636.000. 
Sarawak có khí hậu xích đạo cùng các khu rừng mưa nhiệt đới và các loài động thực vật phong phú. Sarawak sở hữu một số hệ thống hang động đáng chú ý tại Vườn quốc gia Gunung MuluSông Rajang là sông dài nhất tại Malaysia; Đập Bakun trên một phụ lưu của sông này nằm trong số các đập lớn nhất của Đông Nam Á. Núi Murud là điểm cao nhất tại Sarawak.
Khu định cư sớm nhất được biết đến tại Sarawak có niên đại từ 40.000 năm trước tại Hang Niah. Phát hiện được một loạt đồ gốm sứ Trung Hoa có niên đại từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 13 trong di chỉ khảo cổ tại Santubong.
Các khu vực duyên hải của Sarawak nằm dưới ảnh hưởng của Đế quốc Brunei vào thế kỷ 16. Gia tộc Brooke cai trị Sarawak từ năm 1841 đến năm 1946. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, khu vực này bị quân Nhật chiếm đóng trong ba năm. Sau chiến tranh, Rajah Trắng cuối cùng là Charles Vyner Brooke nhượng Sarawak cho Anh Quốc, và đến năm 1946 lãnh thổ trở thành một thuộc địa hoàng gia Anh Quốc.
Ngày 22 tháng 7 năm 1963, Sarawak được người Anh cấp quyền tự quản.
Sau đó, lãnh thổ trở thành một trong các thành viên sáng lập Liên bang Malaysia vào ngày 16 tháng 9 năm 1963.
Tuy nhiên, Indonesia phản đối thành lập liên bang, dẫn đến đối đầu giữa hai quốc gia. Từ năm 1960 đến năm 1990, tại Sarawak cũng diễn ra một cuộc nổi dậy cộng sản.
Người đứng đầu bang là thống đốc, hay còn gọi là Yang di-Pertua Negeri, còn người đứng đầu chính phủ là thủ hiến (Chief Minister). Hệ thống chính phủ theo sát mô hình hệ thống nghị viện Westminster và có hệ thống cơ quan lập pháp bang sớm nhất tại Malaysia.
Sarawak được phân thành các tỉnh và huyện. Sarawak sở hữu sự đa dạng đáng chú ý về dân tộc, văn hóa và ngôn ngữ. Các dân tộc chủ yếu tại Sarawak là: Iban, Mã Lai, Hoa, Melanau, Bidayuh, và Orang Ulu. Tiếng Anh và tiếng Mã Lai là hai ngôn ngữ chính thức của bang. Gawai Dayak là một lễ hội thường niên được tổ chức vào ngày nghỉ lễ công cộng, và sapeh là một nhạc cụ truyền thống.
Sarawak có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, kinh tế bang có định hướng xuất khẩu mạnh, chú yếu dựa trên dầu khí, gỗ và cọ dầu.
Các ngành công nghiệp khác là chế tạo, năng lượng và du lịch.

Từ nguyên

Rhinoceros hornbill là bang điểu của Sarawak
Lời giải thích chính thức về từ "Sarawak" là nó bắt nguồn từ serawak trong tiếng Mã Lai Sarawak, nghĩa là antimon. Lời giải thích phổ biến khác song phi chính thức cho rằng đây là lược danh từ bốn từ trong tiếng Mã Lai do Pangeran Muda Hashim (chú của Quốc vương Brunei) công khai phát biểu, Saya serah pada awak (Tôi giao lại nó cho ông) khi ông ta giao Sarawak cho James Brooke vào năm 1841. 
Tuy nhiên, lời giải thích thứ hai này có một số sai lầm do lãnh thổ đã được định danh là Sarawak trước cả khi Brooke đến, và từ awak chưa từng tồn tại trong từ vựng tiếng Mã Lai Sarawak trước khi thành lập Malaysia.
Sarawak cũng có biệt danh là "Xứ chim mỏ sừng" (Bumi Kenyalang) do chim mỏ sừng là một biểu trưng văn hóa quan trọng đối với người Dayak tại Sarawak. Người ta cho rằng nếu thấy chim mỏ sừng bay trên chỗ ở, thì sẽ mang đến may mắn cho cộng đồng địa phương. Chim mỏ sừng Rhinoceros là bang điểu của Sarawak.

Lịch sử

Tiền sử

Lối vào chính của Hang Niah
Những người sắt bắt hái lượm đầu tiên đến cửa tây của Hang Niah (cách 110 kilômét (68 mi) về phía tây nam của Miri) 40.000 năm trước, khi Borneo nối liền với đại lục Đông Nam Á. Cảnh quan quanh Hang Niah khô hơn và trần trụi hơn so với hiện nay. Thời tiền sử, bao quanh Hang Niah là hỗn hợp các khu rừng rậm và cây bụi, cao nguyên cây thưa, đầm lầy, và sông. Những người đến ban đầu có thể sinh tồn trong các khu rừng nhờ săn bắn, đánh cá, và thu lượm các loài nhuyễn thể và thực vật ăn được. 
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Thời Đế quốc Brunei

Quang cảnh một sông tại Sarawak, Borneo, k. thập niên 1800. Bức họa từ Bảo tàng Hàng hải Quốc gia Anh tại Luân Đôn.
The extent of the Bruneian Empire in the 16th century
Trong thế kỷ 16, khu vực Kuching được các nhà vẽ bản đồ người Bồ Đào Nha biết tới với cái tên Cerava, một trong số năm hải cảng lớn trên đảo Borneo. Khu vực này nằm dưới ảnh hưởng của Đế quốc Brunei và từng được tự quản dưới quyền Sultan Tengah. Đến đầu thế kỷ 19, Sarawak trở thành một lãnh thổ được quản lý lỏng dưới quyền cai quản của Brunei. Đế quốc Brunei chỉ có quyền lực dọc theo các khu vực duyên hải của Sarawak, là những nơi do các thủ lĩnh người Mã Lai bán độc lập nắm giữ. Trong khi đó, khu vực nội địa của Sarawak trải qua các cuộc chiến bộ lạc với thành phần là người Iban, Kayan, Kenyah, họ nỗ lực chiến đấu nhằm bành trướng lãnh thổ của mình. Sau khi phát hiện thấy quặng antimon tại khu vực Kuching, Pangeran Indera Mahkota (một người đại diện của Quốc vương Brunei) bắt đầu phát triển lãnh thổ từ năm 1824 đến năm 1830. Khi sản lượng antimon gia tăng, Brunei yêu cầu Sarawak nộp thuế cao hơn; dẫn đến nội loạn và hỗn độn. Năm 1839, Quốc vương Brunei Omar Ali Saifuddin II lệnh cho chú là Pangeran Muda Hashim đi vãn hồi trật tự. Trong khoảng thời gian này một nhà thám hiểm người Anh tên là James Brooke đến Sarawak, và Pangeran Muda Hashim thỉnh cầu người này giúp đỡ giải quyết vấn đề, song Brooke từ chối. 
Tuy nhiên, Brooke chấp thuận một lời thỉnh cầu khác trong chuyến đi của ông đến Sarawak vào năm 1841. Pangeran Muda Hashim ký một hiệp ước vào năm 1841 theo đó trao Sarawak cho Brooke. Ngày 24 tháng 9 năm 1841, Pangeran Muda Hashim ban tư cách thống đốc cho James Brooke.
Quốc vương Brunei sau đó xác nhận sự bổ nhiệm này vào tháng 7 năm 1842. Đến tháng 10 năm 1843, James Brooke quyết định tiến hành một bước xa hơn và đưa Pangeran Muda Hashim vào triều đình Brunei. Triều đình Brunei bất mãn với việc bổ nhiệm Hashim và hạ lệnh ám sát khiến ông ta thiệt mạng vào năm 1845. Nhằm phản ứng, James Brooke cho bắn phá thủ đô của Brunei. Quốc vương Brunei quyết định gửi thư tạ lỗi đến Nữ hoàng Victoria và xác nhận quyền sở hữu của James Brooke đối với Sarawak và quyền khai mỏ của ông và không phải cống nạp cho triều đình Brunei. 
Năm 1846, Brooke trở thành rajah đích thực của Sarawak và lập ra Triều đại Rajah Trắng tại Sarawak.

Triều đại Brooke


James Brooke, (29 tháng 4 năm 1803 – 11 tháng 6 năm 1868), là một người Anh sinh trưởng tại lãnh thổ do Công ty Đông Ấn Anh cai trị tại Ấn Độ, ông trở thành Rajah Trắng (vua người da trắng) đầu tiên của Vương quốc Sarawak trên đảo Borneo tại Đông Nam Á.
James Brooke, rajah đầu tiên của Sarawak
Brooke cai trị khu vực và bành trướng lãnh thổ về phía bắc cho đến khi ông từ trần vào năm 1868. Kế vị ông là người cháu con em gái tên là Charles Anthoni Johnson Brooke, người này sau khi từ trần được con trai Charles Vyner Brooke kế vị, với điều kiện là Charles cần tham khảo với chú ruột là Bertram Brooke trong việc cai trị. Cả James và Charles Brooke đều ký các hiệp ước với Brunei với chiến lược bành trướng biên giới lãnh thổ của Sarawak. Năm 1861, khu vực Bintulu được nhượng cho James Brooke. Năm 1883, Sarawak bành trướng đến sông Baram (gần Miri). Gia tộc Brooke giành được Limbang vào năm 1885 rồi hợp nhất vào Sarawak trong năm 1890. Quá trình bành trướng của Sarawak hoàn thành vào năm 1905 khi Lawas được nhượng lại cho chính phủ Brooke. Sarawak được chia thành năm đơn vị hành chính, tương ứng với biên giới lãnh thổ của các khu vực mà gia tộc Brooke giành được theo thời gian. Người đứng đầu mỗi đơn vị hành chính là một công sứ. Hoa Kỳ công nhận Sarawak là một quốc gia độc lập vào năm 1850, Anh Quốc có động thái tương tự vào năm 1864. Quốc gia ban hành tiền tệ đầu tiên của mình với tên dollar Sarawak vào năm 1858. Tuy vậy, trong phạm vi Malaysia, Brooke được nhận định mà một tên thực dân.

Một tem thuế Sarawak năm 1888 mang hình ảnh của Charles Brooke
Triều đại Brooke cai trị Sarawak trong một trăm năm với hiệu "Rajah Trắng".[30] Triều đại thông qua chính sách gia trưởng nhằm bảo hộ lợi ích của cư dân bản địa và phúc lợi tổng thể của họ. Chính phủ Brooke lập ra một hội đồng tối cao gồm các tù trưởng Mã Lai, họ cố vấn cho các rajah trên tất cả các phương diện quản trị.[31] Kỳ họp Đại hội đồng đầu tiên diễn ra tại Bintulu vào năm 1867. Hội đồng Tối cao là hội đồng lập pháp cấp bang cổ nhất tại Malaysia.[32] Trong khi đó, người Iban và các dân tộc Dayak khác được thuê làm dân quân.[33] Triều đại Brooke cũng khuyến khích các thương nhân người Hoa nhập cư nhằm phát triển kinh tế, đặc biệt là trong các lĩnh vực khai mỏ và nông nghiệp.[31] Các nhà tư bản phương Tây bị hạn chế nhập cảnh trong khi các nhà truyền giáo Cơ Đốc được khoan dung.[31] Nghề hải tặc, chế độ nô lệ, và tục săn đầu người cũng bị cấm chỉ.[34] Công ty Hữu hạn Borneo được thành lập vào năm 1856, tham gia nhiều lĩnh vực kinh doanh tại Sarawak như mậu dịch, ngân hàng, nông nghiệp, khai khoáng, và phát triển.[35]
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Nhật Bản chiếm đóng và Đồng Minh giải phóng

Không ảnh trại tù binh chiến tranh Batu Lintang; ngày 29 tháng 8 năm 1945 hoặc sau đó.

Lễ đầu hàng chính thức của quân Nhật trước quân Úc tại Kuching vào ngày 11 tháng 9 năm 1945.

Chính phủ Brooke dưới quyền Charles Vyner Brooke lập ra một số đường băng tại Kuching, Oya, Mukah, Bintulu, và Miri để chuẩn bị trong trường hợp có chiến tranh. Đến năm 1941, người Anh triệt thoái lực lượng phòng thủ khỏi Sarawak và trở về Singapore. Do lúc này Sarawak không được phòng thủ, chế độ Brooke quyết định thông qua một chính sách tiêu thổ theo đó các cơ sở dầu mỏ tại Miri bị phá hủy và đường băng Kuching được duy trì lâu nhất có thể trước khi bị phá. Trong khi đó, quân Nhật quyết định chiếm Borneo thuộc Anh nhằm bảo vệ sườn phía đông của họ trong Chiến dịch Mã Lai và để thuận tiện cho việc xâm chiếm Sumatra và Tây Java. Một đạo quân xâm lược Nhật Bản do Kiyotake Kawaguchi lãnh đạo đổ bộ tại Miri vào ngày 16 tháng 12 năm 1941 và chiếm Kuching vào ngày 24 tháng 12 năm 1941. Quân Anh dưới quyền Trung tá C. M. Lane quyết định triệt thoái đến Singkawang thuộc Borneo Hà Lan tiếp giáp Sarawak. Sau mười tuần giao tranh tại Borneo thuộc Hà Lan, quân Đồng Minh đầu hàng vào ngày 1 tháng 4 năm 1942.[43] Khi quân Nhật xâm chiếm Sarawak, Charles Vyner Brooke quyết định rời đến Sydney trong khi các quan chức của ông bị quân Nhật bắt giữ và giam tại trại Batu Lintang.[44]
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Thuộc địa hoàng gia Anh

Tuần hành chống chuyển nhượng tại Sarawak
Sau chiến tranh, chính phủ Brooke không đủ nguồn lực để tái thiết Sarawak. Charles Vyner Brooke cũng không sẵn lòng giao lại quyền lực của mình cho người kế nhiệm hiển nhiên là cháu trai Anthony Brooke (con trai duy nhất của Bertram Brooke) do khác biệt nghiêm trọng giữa họ. Ngoài ra, vợ của Vyner Brooke là Sylvia Brett cũng nỗ lực làm mất uy tín Anthony Brooke nhằm đưa con gái của bà lên ngôi. Do đó, Vyner Brooke quyết định nhượng lại chủ quyền của Sarawak cho Hoàng gia Anh.[42]Một dự luật chuyển nhượng được đưa ra Hội đồng Negri (hay là Hội đồng Lập pháp Bang Sarawak) và được thảo luận trong ba ngày. Dự luật được thông qua vào ngày 17 tháng 5 năm 1946 với kết quả đa số hẹp (19 so với 16 phiếu). Những người ủng hộ dự luật hầu hết là quan chức người Âu, trong khi người Mã Lai phản đối dự luật. Kết quả là hàng trăm công vụ viên người Mã Lai từ chức để phản đối, làm bùng phát phong trào chống chuyển nhượng và sự kiện ám sát thống đốc thực dân thứ nhì của Sarawak là Duncan Stewart do một người Mã Lai tên là Rosli Dhobi tiến hành.[52]
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Tự quản và Liên bang Malaysia

Stephen Kalong Ningkan tuyên bố việc thành lập Liên bang Malaysia vào ngày 16 tháng 9 năm 1963
Ngày 27 tháng 5 năm 1961, Thủ tướng Liên bang Malaya Tunku Abdul Rahman công bố kế hoạch thành lập một liên bang lớn hơn cùng với Singapore, Sarawak, Sabah và Brunei, mang tên Malaysia. Kế hoạch này khiến các lãnh đạo địa phương tại Sarawak thận trọng trước ý định của Tunku trong bối cảnh khác biệt lớn về phát triển kinh tế xã hội giữa Malaya và các quốc gia Borneo. Tồn tại một mối lo ngại chung là nếu không có một thể chế chính trị mạnh mẽ, các quốc gia Borneo sẽ bị Malaya thực dân hóa. Do đó, nhiều chính đảng tại Sarawak xuất hiện để bảo vệ lợi ích của các cộng đồng mà họ đại diện. Ngày 17 tháng 1 năm 1962, Ủy ban Cobbold được thành lập nhằm đánh giá sự ủng hộ của Sarawak và Sabah đối với vấn đề liên bang hóa. Từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1962, ủy ban gặp trên 4.000 người và nhận được 2.200 bản ghi nhớ từ các tổ chức khác nhau. Ủy ban báo cáo rằng có sự chia rẽ về ủng hộ trong cư dân Borneo. Tuy nhiên, Tunku diễn giải số liệu là 80% ủng hộ liên bang hóa.[55][56] Sarawak phê chuẩn một hiệp nghị 18 điểm nhằm bảo đảm lợi ích trong liên bang. Ngày 26 tháng 9 năm 1962, Hội đồng Negri Sarawak thông qua một nghị quyết ủng hộ liên bang hóa với một điều kiện là các lợi ích của nhân dân Sarawak sẽ không bị tổn hại. Ngày 23 tháng 10 năm 1962, năm chính đảng tại Sarawak thành lập một mặt trận thống nhất ủng hộ thành lập Malaysia.[57] Sarawak được chính thức trao quyền tự quản vào ngày 22 tháng 7 năm 1963,[58][59][60] và sau đó hình thành Liên bang Malaysia cùng Malaya, Bắc Borneo, và Singapore vào ngày 16 tháng 9 năm 1963.[61][62]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Môi trường

Địa lý

Sarawak nằm tại miền tây bắc đảo Borneo trên ảnh vệ tinh NASA.
Tổng diện tích của Sarawak là gần 124.450 kilômét vuông (48.050 sq mi), và nằm giữa 0° 50′ và 5° vĩ Bắc, 109° 36′ và 115° 40′ kinh Đông. Sarawak chiếm 37,5% tổng diện tích của Malaysia.[69] Bang này có vùng rừng mưa nhiệt đới lớn với các loài động thực vật phong phú.
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Đa dạng sinh học

Rừng ngập mặn và dừa nước bao phủ đường bờ biển của Sarawak, chúng chiếm 2% tổng diện tích đất rừng của bang, phổ biến nhất là tại các khu vực cửa sông của Kuching, Sarikei, và Limbang. Các loài cây chủ yếu tại đó là: đướcdừa nước, và nhum. Các khu rừng đầm lầy than bùn chiếm 16% diện tích đất rừng và tập trung tại miền nam Miri và hạ du thung lũng Baram. Các loài cây chủ yếu trong loại rừng này là: ramin (Gonystylus bancanus), meranti (các loài Shorea), và medang jongkong (Dactylocladus stenostachys). Rừng Kerangas chiếm 5% tổng diện tích rừng, còn rừng dầu chiếm cứ các khu vực núi.[69] Một số loài thực vật được nghiên cứu do dược tính của chúng.[80]
Một lối tản bộ qua Vườn quốc gia Lambir Hills.
Bài quá dài, phải cắt bớt

Chính trị

Chính phủ

Người đứng đầu bang Sarawak là Yang di-Pertua Negeri (hay thống đốc bang), chức vụ này phần lớn mang tính chất tượng trưng và do Yang di-Pertuan Agong (quốc vương) của Malaysia bổ nhiệm.[106] Thống đốc bang bổ nhiệm thủ hiến làm người đứng đầu chính phủ. Về tổng thể, thủ lĩnh của đảng nắm thế đa số trong Hội đồng Lập pháp của bang được bổ nhiệm làm thủ hiến. Các đại biểu đắc cử nghị viện được gọi là nghị viên. Hội đồng lập pháp của bang thông qua pháp luật trong các vấn đề không thuộc phạm vi quyền hạn của Nghị viện Malaysia như quản lý đất đai, lao động, rừng, nhập cư, đóng tàu và ngư nghiệp. Thủ hiến chỉ định chính phủ bang và các bộ trưởng và trợ lý bộ trưởng nội các.[107]
Nhằm bảo vệ các lợi ích của nhân dân Sarawak trong Liên bang Malaysia, Hiến pháp Malayisa có các điều khoản bảo vệ đặc biệt về vấn đề này. Sarawak có quyền kiểm soát nhập cảnh và cư trú của những người không phải cư dân Sarawak hay Sabah. Chỉ có các luật sư cư trú tại Sarawak mới có thể hành nghề luật tại đây. Tòa án Thượng thẩm tại Sarawak độc lập với Tòa án Thượng thẩm tại Malaysia Bán đảo. Thủ hiến Sarawak cần phải tham vấn trước khi bổ nhiệm chánh án của Tòa án Thượng thẩm Sarawak. Sarawak có các "tòa án bản địa". Sarawak nhận được trợ cấp đặc biệt từ chính phủ liên bang và tự quản lý thuế tiêu thụ. Người bản địa tại Sarawak được hưởng các đặc quyền như hạn ngạch và công việc trong dịch vụ công, học bổng, nhập học đại học, và giấy phép kinh doanh.[108] Các chính quyền địa phương tại Sarawak độc lập với các luật quyền lực địa phương do Nghị viện Malaysia ban hành.[109]
Tòa nhà Hội đồng Lập pháp Sarawak
Các chính đảng lớn tại Sarawak có thể phân thành ba nhóm: bản địa phi Hồi giáo, bản địa Hồi giáo, và phi bản địa; tuy nhiên các chính đảng có thể bao gồm thành viên đến từ hơn một nhóm.[110] Chính đảng đầu tiên của bang là Đảng Nhân dân Liên hiệp Sarawak (SUPP) được thành lập vào năm 1959, tiếp đến là Đảng Quốc gia Sarawak (PANAS) (năm 1960) và Đảng Dân tộc Sarawak (SNAP) (in 1961). Các chính đảng lớn khác như Đảng Bổn phận Sarawak (PESAKA) xuất hiện vào năm 1962.[note 1] Sarawak từng là thành trì chính trị của Đảng Liên minh cầm quyền, và sau là hậu thân của nó mang tên Barisan Nasional (BN) từ khi thành lập Malaysia vào năm 1963.

 

Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Đơn vị hành chính

Không như các bang tại Tây Malaysia, Sarawak được phân thành các tỉnh (division) thay vì huyện (district). Đứng đầu mỗi tỉnh là một thống sứ. Hiện tại, bang được chia thành 12 tỉnh:[106][120]
  Khu vực thứ nhất  Khư vực thứ hai  Khu vực thứ ba  Khu vực thứ tư  Khu vực thứ năm
Các tỉnh được chia tiếp thành các huyện, mỗi huyện được phân thành các phó huyện. Hiện nay, Sarawak có 39 huyện. Bang có một viên chức phát triển tại mỗi tỉnh và huyện để thi hành các dự án phát triển. Tại các huyện, chính phủ bộ nhiệm một trưởng làng (gọi là ketua kampung hay penghulu) cho mỗi làng.[106][120] 39 chính quyền địa phương tại Sarawak nằm dưới quyền hạn của Bộ Chính quyền Địa phương và Phát triển Cộng đồng Sarawak.[121] Danh sách các tỉnh, huyện và phó huyện được liệt kê như sau:

An ninh

Lực lượng vũ trang bán quân sự đầu tiên tại Sarawak là một trung đoàn do chế độ Brooke thành lập vào năm 1862, mang tên Biệt động quân Sarawak.[124] Trung đoàn giúp chế độ Brooke bình định quốc gia, và tham gia chiến tranh du kích kháng Nhật, trong Tình trạng khẩn cấp Malaya và Nổi dậy cộng sản Sarawak chống các phần tử cộng sản. Sau khi Malaysia được thành lập, trung đoàn sáp nhật đến lực lượng vũ trạng Malaysia và nay mang tên Trung đoàn Biệt động Hoàng gia.[125] Năm 1888, Sarawak cùng với Bắc Borneo, và Brunei, trở thành các lãnh thổ được Anh bảo hộ, do đó trách nhiệm về ngoại giao được giao cho người Anh để đổi lấy bảo hộ quân sự.[126] An ninh của Sarawak sau đó cũng là trách nhiệm của Úc và New Zealand.[127] Sau khi Malaysia được thành lập, chính phủ liên bang là thể chế duy nhất chịu trách nhiệm về chính sách ngoại giao và quân sự trong nước.[128][129]

Tranh chấp lãnh thổ

Sarawak tồn tại một số tranh chấp lãnh thổ, với các quốc gia láng giếng là Brunei và Indonesia, cũng như với Trung Quốc về quyền sở hữu một số thực thể trên biển Đông.[130][131][132] Năm 2009, Thủ tướng Malaysia Abdullah Ahmad Badawi tuyên bố rằng Brunei đã từ bỏ yêu sách của họ đối với Limbang.[133] Tuy nhiên, thứ trưởng Ngoại giao Brunei Lim Jock Seng phát biểu rằng vấn đề chưa từng được thảo luận trong hội nghị.[134] Sarawak yêu sách Bãi ngầm James (Beting Serupai) và Cụm bãi cạn Luconia (Beting Raja Jarum/Patinggi Ali) là bộ phận vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của mình, song Trung Quốc cũng có các động thái khẳng định chủ quyền.[135]Một số vấn đề biên giới Sarawak – Kalimantan cũng chưa được giải quyết với Indonesia.[136]

Hạ tầng

Xét về tổng thể thì Sarawak có mức độ phát triển hạ tầng tương đối thấp so với Malaysia Bán đảo.[137] Bộ Phát triển Hạ tầng và Truyền thông Sarawak (MIDCom) chịu trách nhiệm về phát triển hạ tầng và viễn thông tại Sarawak.[138] Sarawak có 21 khu công nghiệp, cùng bốn cơ quan chính chịu trách nhiệm tiến hành và phát triển chúng.[139] Năm 2009, 94% các khu vực đô thị được cung cấp điện năng; tỷ lệ các khu vực nông thôn được cung cấp điện năng tăng từ 67% vào năm 2009[140] lên 91% vào năm 2014.[141] Về viễn thông, năm 2013 phạm vi phủ sóng của đường dây điện thoại cố định tại Sarawak là 25,7%, và tỷ lệ người sử dụng điện thoại di động là 93,3%. Tỷ lệ sử dụng máy vi tính trong cùng năm là 45,9%; tỷ lệ người sử dụng internet là 58,8% tại các khu vực đô thị và 29,9% tại các khu vực nông thôn.[142]Công ty quốc doanh Sacofa Sdn Bhd (Sacofa Private Limited) chịu trách nhiệm xây dựng các tháp viễn thông tại Sarawak.[143] Sarawak Information Systems Sdn Bhd (SAINS) chịu trách nhiệm tiến hành và phát triển công nghệ thông tin tại Sarawak.[144] 
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Giao thông


Sarawak có tổng chiều dài đường bộ liên thông là 32.091 kilômét (19.940 mi) vào năm 2013, một nửa trong số đó (18.003 kilômét (11.187 mi)) là các đường cấp bang được trải nhựa, 8.313 kilômét (5.165 mi) đường đất (do các công ty lâm sản và đồn điền xây dựng), 4.352 kilômét (2.704 mi) đường rải sỏi, và 1.424 kilômét (885 mi) xa lộ liên bang được trải nhựa. Đường chính tại Sarawak là Xa lộ Liên Borneo chạy từ Sematan, Sarawak, qua Brunei đến Tawau, Sabah.[149] 
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Y tế

Sarawak có ba bệnh viện công lớn: Bệnh viện Đa khoa Sarawak, Bệnh viện Sibu, và Bệnh viện Miri.[155] Bang cũng có các bệnh viện huyện,[156] các phòng khám công, các phòng khám theo chương trình 1Malaysia, và các phòng khám nông thôn.[157] Ngoài các bệnh viện và phòng khám do chính phủ sở hữu, còn có các bệnh viện tư nhân tại Sarawak[158] như Trung tâm Chuyên khoa Y học Normah, Trung tâm Chuyên khoa Y học Timberland,[159] và Trung tâm Y tế Chuyên khoa Sibu.
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Giáo dục

Sarawak có tỷ lệ biết chữ tổng thể là 25% vào năm 1960.[169] Hiện nay, tỷ lệ biết chữ tại bang là 90%. Bộ Giáo dục Malaysia chịu trách nhiệm về giáo dục tiểu học và trung học tại Sarawak.[170] 
Bài quá dài, phải cắt bớt

Nhân khẩu

Thành phần dân tộc tại Sarawak (2014)[179]
Ethnic
Percent
  
30%
  
24.4%
  
24.2%
  
8.4%
  
6.7%
  
5.4%
  
0.3%
Khác
  
0.3%
Theo điều tra nhân khẩu năm 2015, dân số Sarawak là 2.636.000, là bang đông dân thứ tư tại Malaysia. Tuy nhiên, do có diện tích lớn nên đây là bang có mật độ dân số thấp nhất toàn quốc, với trung bình 20 người/km². Tăng trưởng dân số trung bình mỗi năm từ năm 2000 đến năm 2010 là 1,8%. Tính đến năm 2014, 58% cư dân sống tại thành thị và 42% cư dân sống tại nông thôn.[180] Tính đến năm 2011, tỷ suất sinh thô tại Sarawak là 16,3‰, tỷ suất tử thô là 4,3‰, và tỷ suất tử vong trẻ sơ sinh là 6,5‰.[181]
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Dân tộc

Về tổng thể, Sarawak có sáu dân tộc lớn: Iban, Hoa, Mã Lai, Bidayuh, Melanau, và Orang Ulu.[182] Một số dân tộc ít người hơn là Kedayan, JavaBugis, Murut, và Ấn.[190] Thuật ngữ Dayak thường được dùng để chỉ người Iban và người Bidayuh trong bối cảnh chủ nghĩa dân tộc.[191] Năm 2015, chính phủ liên bang Malaysia công nhận sử dụng thuật ngữ trong bối cảnh chính thức.[192]
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Tôn giáo

Tôn giáo tại Sarawak (2010)[206]
Tôn giáo
Tỷ lệ
  
42.6%
  
32.2%
  
13.5%
  
6.0%
  
2.6%
Không rõ
  
1.9%
Khác
  
1.0%
  
0.2%
Mặc dù Hồi giáo là quốc giáo của liên bang, song Sarawak không có tôn giáo chính thức cấp bang.[207] Tuy nhiên, trong nhiệm kỳ thủ hiến của Abdul Rahman Ya'kub, Hiến pháp Sarawak được sửa đổi để đưa Yang di-Pertuan Agong thành người đứng đầu Hồi giáo tại Sarawak và trao quyền cho hội đồng lập pháp bang thông qua pháp luật liên quan đến sự vụ Hồi giáo. Cùng các điều khoản như vậy, các chính sách Hồi giáo có thể được chế định tại Sarawak và việc lập các cơ quan Hồi giáo cấp bang cũng có khả năng. Dự luật Hồi giáo Majlis 1979 cho phép lập các Tòa án Sharia tại Sarawak có thẩm quyền đối với các vụ án hôn nhân, quyền nuôi con, hứa hôn, thừa kế, và tội phạm trong bang. Một tòa án phúc thẩm và các tòa án Kadi cũng được thành lập.[115][note 4]
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Ngôn ngữ

Tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức duy nhất tại Sarawak từ năm 1963 đến năm 1974 do thủ hiến đầu tiên của Sarawak là Stephen Kalong Ningkan phản đối việc sử dụng tiếng Mã Lai tại Sarawak.[216] Đến năm 1974, thủ hiến mới là Abdul Rahman Ya'kub chọn tiếng Mã Lai và tiếng Anh là hai ngôn ngữ chính thức của Sarawak.[115][note 5] 
Bài quá dài, phải cắt bớt

Kinh tế

Một cảng khí hóa lỏng tại Bintulu, Sarawak
Sarawak có tài nguyên thiên nhiên phong phú, các lĩnh vực kinh tế chủ yếu là khai mỏ, nông nghiệp và lâm nghiệp chiếm 32,8% kinh tế của bang vào năm 2013.[222] Đóng góp chủ yếu cho ngành chế tạo là thực phẩm và đồ uống, sản phẩm từ gỗ và mây, sản phẩm kim loại thô, và sản phẩm hóa dầu. Trong khi đó, lĩnh vực dịch vụ bao gồm dịch vụ vận chuyển hàng hóa, giao thông hàng không, và du lịch.[222] Từ năm 2000 đến năm 2009, Sarawak có mức tăng trưởng GDP bình quân năm là 5%.[223] Tăng trưởng GDP hàng năm biến động mạnh từ năm 2006 đến năm 2013, dao động từ −2,0% (2009) đến 7,0% (2010) với độ lệch chuẩn là 3,3%. Sarawak đóng góp 10,1% vào GDP của Malaysia trong chín năm tính đến năm 2013, trở thành bang đóng góp lớn thứ ba toàn quốc sau Selangor(22,2%) và Kuala Lumpur (13,9%) [222] GDP của Sarawak tăng trưởng từ 527 triệu ringgit (171,3 triệu USD) vào năm 1963 lên 58 tỷ ringgit (17,4 tỷ USD) vào năm 2013,[224] tăng 110 lần. Đồng thời kỳ, GDP/người tăng từ 688 ringgit (223,6 USD) lên 46.000 ringgit (13.800 USD), tăng 60 lần.[225] Sarawak có GDP/người cao thứ ba tại Malaysia (2015); sau Kuala Lumpur và Labuan.[226] 

Bài quá dài, phải cắt bớt

Các tua binh bên trong nhà máy điện Đập Bakun. Đập là nguồn điện năng chủ yếu tại Sarawak.
Sarawak Energy Berhad (SEB) chịu trách nhiệm về phát điện, truyền tải điện và phân phối điện trên toàn Sarawak.[236] Có ba đập hoạt động tại Sarawak tính đến năm 2015: Đập Batang Ai,[237] Đập Bakun,[238] và Đập Murum[239] cùng một số dự án khác đang được nghiên cứu và lập kế hoạch khả thi.[237] Sarawak cũng sản xuất điện năng từ các nhà máy điện than và khí hóa lỏng (LNG).[236][240] Tổng công suất phát điện của bang được dự tính đạt 7.000 MW vào năm 2025.[241] Ngoài cấp điện nội bộ, Sarawak Energy còn xuất khẩu điện năng sang tỉnh Tây Kalimantan của Indonesia.[242] Các nguồn nguyên liệu thay thế như sinh khối, thủy triều, mặt trời, gió và đập Micro hydro cũng đang được khảo sát tiềm năng để phát điện.[243]
Bài quá dài, phải cắt bớt

Văn hóa

Sarawak sở hữu sự đa dạng đáng chú ý về dân tộc, văn hóa và ngôn ngữ. Văn hóa Sarawak chịu ảnh hưởng từ người Mã Lai Brunei tại các khu vực duyên hải, cũng có ảnh hưởng đáng kể từ văn hóa Trung Hoa và Anh Quốc. Tục săn đầu người từng là một truyền thống quan trọng đối với người Iban; song phong tục này không còn được tiến hành.[261] Cơ Đốc giáo đóng vai trò quan trọng trong sinh hoạt thường nhật của người Kelabit và Lun Bawang và biến đổi bản sắc dân tộc của họ.[262] Người Penan là nhóm bản địa cuối cùng từ bỏ phương thức sinh hoạt di cư trong rừng rậm.[263][264] Kết hôn liên dân tộc là điều phổ biến trong bang.[265]
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Mỹ thuật và thủ công

Hội đồng Thủ công nghiệp Sarawak phổ biến đồ thủ công dân tộc bản địa.[290] Sarakraf Pavilion có một cửa hàng trưng bày đa dạng các kỹ năng thủ công.[291] Các đồ thủ công nổi tiếng tại Sarawak gồm có đồ kết hạt của người Orang Ulu,[292] vải Pua Kumbu của người Iban,[293] thảm Kesah và giỏ Tambok của người Bidayuh, thổ cẩm Kain của người Mã Lai,[266] khăn trùm đầu dân tộc,[294] và gốm Trung Hoa.[295] Hội Họa sĩ Sarawak được thành lập vào năm 1985 nhằm xúc tiến văn hóa và nghệ thuật địa phương bằng hình thức hội họa.[296][297] Hầu hết họa sĩ Sarawak thời hậu chiến ưu tiên phong cảnh và tự nhiên, vũ điệu truyền thống, và các hoạt động thường nhật truyền thống làm đề tài của mình.[298]
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Ẩm thực

Món ăn nổi tiếng tại bang gồm có bún Laksa Sarawak,[311] kolo mee,[312] và ayam pansuh.[313][314] Bang cũng được biết tới với món tráng miệng bánh lát Sarawak.[315] 
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Truyền thông

Chính phủ Sarawak được nhìn nhận phổ biến là gây ảnh hưởng lên truyền thông.[216][note 10] Một số báo chí có trụ sở tại Sarawak là Tinh Châu nhật báo 星洲日報,[320]Thi Hoa nhật báo 诗华日报Borneo Post, và Utusan Borneo.[321] 
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Ngày lễ và lễ hội

Người Sarawak cử hành một số ngày lễ và lễ hội trong năm.[328] Bên cạnh ngày Độc lập Hari Merdeka và ngày Quốc khánh Malaysia ở quy mô quốc gia, bang cũng cử hành ngày Tự quản Sarawak vào ngày 22 tháng 7[329][330] và sinh nhật thống đốc bang.[331] 
Bài quá dài, phải cắt bớt

 

Thể thao

Sarawak cử đội tuyển riêng của mình tham gia Đại hội Thể thao Đế quốc và Thịnh vượng chung Anh năm 1958 và 1962,[342]và Đại hội Thể thao châu Á 1962 trước khi các vận động viên địa phương bắt đầu đại diện cho Malaysia sau năm 1963.[343][344] 

Bài quá dài, phải cắt bớt

No comments:

Post a Comment