Cách nay đúng 133 năm, bác học Pasteur đã dùng vaccine thí
nghiệm chữa bệnh chó dại cho một cậu bé.
Ngày 06
tháng 07, 1885
·
1885 – Louis
Pasteur (hình) thử nghiệm thành công vắc-xin phòng bệnh dại trên bệnh nhân là một cậu bé bị chó dại cắn.
Louis Pasteur
Louis Pasteur
Chữ ký:
Louis Pasteur (27 tháng 12 năm 1822 - 28 tháng 9 năm 1895), nhà hóa học, nhà vi sinh vật học người Pháp, với
những phát hiện về các nguyên tắc của tiêm chủng, lên men vi sinh.
Ông thường được biết đến qua những nghiên
cứu quan trọng về các nguyên nhân và biện pháp chữa bệnh, và những khám
phá đó của ông đã cứu sống vô số người kể từ đó.
Ông giảm tỷ lệ tử vong ở người bị bệnh
sốt sau đẻ, tạo ra loại vắc-xin đầu tiên cho bệnh dại và bệnh than.
Những nghiên cứu của ông góp phần hỗ trợ
trực tiếp cho lý thuyết mầm bệnh và các ứng dụng trong y học
lâm sàng. Cũng như nổi tiếng trong việc phát
minh ra kỹ thuật bảo quản sữa và rượu để ngăn
chặn vi khuẩn có hại xâm nhập, một quá trình mà bây giờ gọi là thanh trùng.
Ông được xem là một trong 3 người thiết lập
nên lĩnh vực vi sinh vật học, cùng với Ferdinand Cohn và Robert Koch,
và được gọi là "cha đẻ của vi sinh vật học"..
Heinrich Hermann Robert Koch (11 tháng 12 năm 1843 – 27 tháng 5 năm 1910) là một bác sĩ và nhà sinh học người Đức.
Pasteur có vai trò lớn trong việc bác bỏ thuyết tự sinh, vốn in sâu trong tư tưởng các nhà khoa học trước đó.
Ông đã thí nghiệm cho thấy rằng nếu không có tác động bên ngoài, vi sinh vật
không thể phát triển. Ông chứng minh rằng trong bình tiệt trùng được đóng
sẽ không có vi khuẩn phát triển nhưng khi mở thì vi khuẩn có thể phát
triển. Thí nghiệm này giúp ông giành giải Alhumbert.
Tuy Pasteur không phải là người đầu tiên đề
xuất lý thuyết mầm bệnh, ông đã phát triển nó và tiến hành các thí nghiệm
cho thấy rõ tính đúng đắn của nó và thuyết phục người dân Châu Âu tin rằng đó
là sự thật.
Pasteur đồng thời có những khám phá quan
trọng trong ngành hóa học, đáng chú
ý nhất là cơ bản về phân tử đối với tính không đối xứng của một số tinh thể
nhất định và raxemic
hóa.
Ông là giám đốc Viện Pasteur cho đến
khi ông qua đời, và thi thể ông nằm bên dưới viện trong một hầm được theo phong
cách khảm Byzantine.
Mặc dù ông đã đóng góp những thành tựu mang
tính đột phá, danh tiếng của ông lại gắn liền với nhiều tranh cãi về đạo đức
khi làm nhà khoa học.
Tiểu sử
Ông sinh ra ở vùng Dole nhưng bắt đầu đi học tại Arbois. Từ
nhỏ ông không học giỏi tài năng duy nhất của ông là vẽ, Louis Pasteur muốn vào
học Trường Sư phạm Paris (École normale supérieure). Để thực
hiện mong muốn này, vào tháng 10 năm 1838 ông chuyển đến Paris. Tuy nhiên vì thất vọng với cuộc sống mới ở đây, ông bỏ luôn ý
định vào học Trường Sư phạm và rời Paris để đến học tại Trường Trung học Hoàng
gia tại Besançon. Vào
năm 1840 rồi năm 1842, ông thi lấy bằng Tú tài Văn chương và Tú tài Toán. Với những
kết quả học tập đáng kích lệ này, một lần nữa Louis Pasteur lại chuyển đến
Paris và cuối cùng vào năm 1843 ông được xếp hạng tư trong kỳ thi vào
Trường Sư phạm Paris và được nhận vào học ở ngôi trường danh tiếng này. Tại đây
Louis Pasteur theo học hóa học và vật lý và cả tinh thể học (cristallographie).
Vào các buổi chiều chủ nhật, Louis Pasteur thường làm việc tại phòng thí nghiệm
của nhà hóa học nổi tiếng Jean-Baptiste Dumas nhờ đó
mà ông đã tích lũy được những kiến thức và kỹ năng quý báu cho công việc nghiên
cứu độc lập trong tương lai. Sau khi làm việc với vai trò giáo sư hóa học một
thời gian ngắn tại Đại học Strasbourg, ở đây ông gặp và quen Marie Laurent, cô là
cháu của hiệu trưởng nhà trường năm 1849. Họ cưới nhau ngày 29 tháng 5 năm
1849, và có năm con, chỉ 2 trong số con của họ còn sống, 3 người con còn lại
chết vì thương hàn. Nghịch cảnh trên đã thúc đẩy ông có những
phát minh trong việc trị các bệnh truyền nhiễm.
Chuyên môn
Pasteur experimenting in his laboratory.
Pasteur được chỉ định làm chủ tịch ngành Hóa thuộc khoa Khoa học
của Đại học Strasbourg. Năm 1854, ông làm trưởng khoa mới của khoa khoa học tại Đại học
Université Lille Nord de France Lille. Đó là
dịp ông phát biểu rằng: "dans les champs de l'observation, le hasard ne
favorise que les esprits préparés." (Trong lĩnh vực quan sát, cơ hội
chỉ đến với những cái đầu biết tính toán.) Năm
1857, ông chuyển đến Paris làm giám đốc cơ quan khảo thí khoa học tại École
Normale Supérieure từ 1858
đến 1867 và đã đưa ra một loạt cải cách. Các kỳ thi đã trở nên cứng nhắc hơn,
dẫn đến kết quả tốt hơn, cạnh tranh hơn, và tăng uy tín. Ông đưa ra các tiêu
chuẩn về công trình khoa học, dẫn đến hai cuộc nổi dậy nghiêm trọng của sinh
viên. Năm 1862, ông được chỉ định làm giáo sư địa
chất, vật lý, và hóa học tại École
nationale supérieure des Beaux-Arts, ông giữ vị trí này cho đến
năm 1867. Ở Paris, ông thành lập Viện Pasteur năm 1887 do ông làm giám đốc cho
đến cuối đời.
Đóng góp khoa học
Tinh thể
học
Louis Pasteur bảo vệ hai luận án về hóa học và vật lý vào năm 1847. Trong ngành tinh thể học, ông đã có những phát minh đầu tiên
liên quan đến sự phân cực của ánh sáng. Năm 1848, Pasteur trình bày trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp về những công trình nghiên cứu của ông
trong lĩnh vực tinh thể học. Pasteur phát hiện rằng cấu trúc phân tử của tinh thể có ảnh hưởng đến sự khúc xạ ánh sáng khi nghiên cứu các dạng tinh thể
của tartrate và paratartrate. Sau đó Pasteur nhanh chóng đi đến kết luận
rằng các sản phẩm của vật chất sống là không đối xứng và có
hoạt tính trên ánh sáng phân cực. Pasteur phát biểu rằng "Sự sống là một hàm của tính mất đối xứng của vũ trụ".
Pasteur separated the left and right crystal shapes from
each other to form two piles of crystals: in solution one form rotated light to
the left, the other to the right, while an equal mixture of the two
forms canceled each other's effect, and does not rotate the polarized light.
Quá trình
lên men
Sau khi đi dạy ở Dijon và rồi Strasbourg (tại đây năm 1849, ông đã cưới Marie
Laurent, con gái của hiệu trưởng, và hai người có với nhau 5 người con), vào
năm 1854 Louis Pasteur được phong giáo sư tại Khoa
Khoa học của Lille và cũng là trưởng khoa của khoa này. Ông đã
thiết lập mối quan hệ rất chặt chẽ giữa công việc nghiên cứu khoa học của mình
với nền công nghiệp lúc bấy giờ và đã có nhưng phát hiện vô cùng quan trọng.
Ông đã phát hiện rằng chính nấm men là tác nhân gây nên quá trình lên men.
Năm 1857 (có tài liệu cho là 1856), Louis Pasteur trở thành giám
đốc nghiên cứu khoa học của Trường Sư phạm. Ông yêu cầu có được một nhà kho của
trường để thành lập một phòng thí nghiệm của riêng mình. Tại đây ông tiếp tục
công cuộc nghiên cứu về quá trình lên men trong ba năm nữa và viết một khảo
luận khoa học về nguyên nhân của quá trình lên men rượu butyric. Nhưng cũng
ngay từ năm 1858 ông đã là người chống đối thuyết tự sinh đặc biệt của Félix Archimède Pouchet.
Pouchet đã báo cáo với Viện Hàn lâm Khoa học vào tháng 12 năm 1858 rằng các
tiền sinh vật được sinh ra tự nhiên trong không khí. Ngay lúc đó Louis Pasteur đã
cho rằng nhà khoa học này đã sai lầm. Trong sáu năm trời ròng rã, hai nhà khoa
học liên tiếp cho ra những bài báo cũng như các bài báo cáo tại các hội nghị
nhằm chứng minh đối phương là sai lầm. Đến ngày 7 tháng 4 năm 1864, Pasteur đã tổ chức một hội nghị tại Sorbonne. Tại
đây các kết quả thí nghiệm của Pasteur đã chinh phục được cử tọa, hội đồng
chuyên gia cũng như giới truyền thông. Pouchet phải chấp nhận rằng mình đã lầm
và từ đó thuyết tự sinh cũng không còn tồn tại trong đời sống khoa học nữa.
Từ những quan sát dưới kính hiển vi, Pasteur phân chia thế giới vi sinh thành
hai nhóm lớn: các vi sinh vật ái khí (không thể sống thiếu ôxy) và
nhóm vi sinh vật kị khí (có thể sống trong môi trường không có ôxy).
Các công
trình nghiên cứu về bia và rượu vang
Theo yêu cầu của Hoàng đế Napoléon
III, Louis Pasteur tiến hành các nghiên cứu về sự biến đổi của rượu vang trong quá trình lên men nước ép của nho. Ông phát hiện rằng tất cả các biến đổi này đều do các sinh vật
"ký sinh" vì chúng phát triển nhiều hơn các vi sinh cần thiết cho quá
trình lên men rượu bình thường. Ông đã hướng dẫn những người làm rượu chỉ nên
sử dụng nguồn vi sinh vật sạch, không lẫn các sinh vật ký sinh để tránh các
trường hợp sản phẩm bị hư hỏng.
Trong khi cố gắng "tìm ra một phương thuốc hữu hiệu để điều
trị chứng bệnh mà ông đã tìm ra nguyên nhân", Pasteur lại phát minh ra một
kỹ thuật nhằm giảm thiểu sự tạp nhiễm môi trường nuôi cấy bằng cách đun nóng
môi trường này lên đến khoảng 55-60 °C trong điều kiện không có không khí.
Kỹ thuật này sau đó được đặt tên là phương
pháp khử khuẩn Pasteur (pasteurisation),
một phương pháp được sử dụng rộng rãi trong công nghiệp chế tạo và bảo quản
rượu vang.
Đối với công nghiệp sản xuất bia, ông khuyên nên tiệt khuẩn dung dịch nước ép bằng cách đun nóng
với điều kiện không để bị tạp nhiễm và sau đó làm lạnh trước khi cho lên men
bằng nguồn nấm men tinh khiết. Tính acid hợp lý của bia cũng có tác dụng hạn
chế sự phát triển của các mầm ký sinh sau này cũng như giúp bảo quản tốt bia
sau khi đã vào chai.
Bệnh ở
nhộng tằm
Mặc dù đạt được thành công rực rỡ về mặt khoa học nhưng vai trò
quản lý của ông tại Trường Sư phạm thì không như vậy. Tại đây do tính cách của
mình, ông đã vấp phải rất nhiều sự chống đối đến độ cuối cùng ông mất chức. Nhờ
đó ông có thời gian hơn để chuyên tâm vào công việc nghiên cứu khoa học. Từ
tháng 6 năm 1865,
Pasteur chuyển đến Alès và trải qua bốn năm ở đây nhằm nghiên cứu
một loại bệnh ảnh hưởng nặng nề đến ngành chăn nuôi tằm. Tại
đây ông đã cùng các học trò của mình miệt mài nghiên cứu. Do áp lực công việc
và, quan trọng hơn cả, chuyện buồn gia đình (nhiều người trong gia đình chết do
bệnh tật), Pasteur đã bị tai biến mạch máu não vào đêm 19 tháng
10 năm 1868. Nhiều người tưởng ông không thể qua khỏi, thế nhưng chỉ ba
tháng sau ông đã trở lại với công việc nghiên cứu mặc dù cơ thể vẫn còn những
di chứng nặng của bệnh. Nhờ sự quan sát tỉ mỉ của mình, ông đã nhận diện được
các con tằm bị bệnh và tiêu diệt trứng của chúng trước khi bệnh lây lan cho các
cá thể khác. Tại đây ông cũng lần đầu tiên nêu lên khái niệm "cơ địa"
dễ mắc bệnh: các cá thể có "cơ địa" suy yếu thường là những cơ địa
thuận lợi cho sự phát triển của vi sinh vật và như vậy có khuynh hướng dễ mắc bệnh hơn
các cá thể khác.
Những
nghiên cứu bệnh lý nhiễm trùng ở người và động vật
Louis Pasteur’s pasteurization experiment
illustrates the fact that the spoilage of liquid was caused by particles in the
air rather than the air itself. These experiments were important pieces of
evidence supporting the germ theory of disease.
Từ năm 1878 đến 1880, ông đã khám phá ra ba chủng vi khuẩn: liên cầu khuẩn (streptococcus), tụ cầu khuẩn (staphylococcus)
và phế cầu khuẩn (pneumococcus).
Xuất phát từ quan niệm rằng một loại bệnh được gây nên do một loại vi sinh vật
nhất định do nhiễm từ môi trường bên ngoài, Pasteur đã thiết lập nên những
nguyên tắc quan trọng trong vô khuẩn. Tỉ lệ tử vong hậu phẫu cũng như hậu sản
giảm xuống một cách ngoạn mục nhờ áp dụng những nguyên tắc này.
Pasteur cũng tìm hiểu liệu người và động vật có thể được miễn
dịch chống lại các bệnh truyền nhiễm nặng thường gặp như Jenner đã từng thực hiện với bệnh đậu
mùa hay
không. Năm 1880, Pasteur thành công trong việc tạo miễn dịch cho gà chống lại bệnh tả bằng cách cho chúng tiếp xúc với môi trường
nuôi cấy vi khuẩn tả "già" (vi khuẩn này giảm độc lực). Những con gà
này sau đó có khả năng chống lại bệnh tả khi được tiêm vi khuẩn độc lực mạnh.
Pasteur nhanh chóng áp dụng nguyên lý chủng ngừa này cho các bệnh truyền nhiễm
khác như bệnh than ở lợn.
Điều trị
dự phòng bệnh dại
Các phác đồ chủng ngừa một số bệnh truyền nhiễm đến thời điểm đó
đã được chuẩn hóa. Nguyên tắc chung thì luôn luôn giống nhau: đầu tiên phải
phân lập cho được tác nhân gây bệnh, nuôi cấy chúng để làm giảm độc lực trước
khi tiêm cho người.
Trong trường hợp bệnh dại, tác
nhân gây bệnh là virus, những
vi sinh vật này quá nhỏ nên không thể thấy được dưới kính hiển vi quang học
thời bấy giờ. Pasteur đã dành năm năm, từ 1880 đến 1885, để nghiên cứu bệnh
này. Xuất phát từ thực tế là bệnh dại tác động đến hệ thần kinh, Pasteur dự đoán rằng tác nhân gây bệnh
phải nằm trong não và tủy sống của những người mắc bệnh. Khi lấy bệnh phẩm
thần kinh của những động vật mắc bệnh dại (chó, thỏ...)
tiêm vào những cá thể khỏe mạnh, ông đã gây được biểu hiện bệnh dại ở các động
vật này. Pasteur dùng tủy sống của thỏ mắc bệnh dại để lấy virus dại và
nuôi virus này qua nhiều thể hệ khác nhau. Virus thu được đã giảm độc lực rất
nhiều so với chủng virus dại ban đầu. Virus này có thể không gây bệnh do đã
giảm độc lực nhưng vẫn có thể còn giữ được tính kháng nguyên có thể kích thích hệ miễn dịch sản
xuất kháng thể chống lại bệnh.
Vaccine ngừa
bệnh dại đầu tiên trên cơ sở virus giảm độc lực này đã được Pasteur, sau nhiều
đắn đo suy tính, sử dụng vào ngày 6 tháng 7 năm 1885 ở một
bé trai tên là Joseph Meister, người bị chó dại cắn trước đó. Đây là một thành
công vang dội của Pasteur cũng như của nền y khoa thế giới.
Kết quả công trình nghiên cứu về bệnh dại được Pasteur trình bày
trước Viện Hàn lâm Khoa học Pháp vào ngày 1 tháng 3 năm 1886. Nhân dịp này ông cũng đề nghị thành lập một cơ sở nhằm sản
xuất vaccine chống bệnh dại. Năm 1887 lời kêu gọi này được công bố rộng rãi và
nhận được 2 triệu Franc
Pháp quyên
góp. Nhờ đó vào năm 1888, Tổng
thống Sadi Carnot cho tiến hành xây dựng Viện
Pasteur đầu
tiên tại Pháp. Các Viện Pasteur khác sau đó cũng được thành lập ở những nới
khác trên thế giới nhờ ảnh hưởng của các nhà vi sinh vật học như Albert
Calmette và Alexandre
Yersin. Tôn chỉ của Viện Pasteur từ đó đến nay không thay đổi: tiến
hành các nghiên cứu chế tạo vaccine và các chiến dịch tiêm phòng chống lại các
bệnh truyền nhiễm.
Tranh cãi
Vắc-xin
bệnh than
Vào 1995, sau 100 năm ngày mất của Louis Pasteur, tờ New York
Times chạy
dòng tít "Pasteur's Deception". Sau khi đã đọc kỹ ghi chú của phòng
thí nghiệm Pasteur, nhà lịch sử khoa học Gerald L. Geison đã tuyên bố rằng Pasteur đã đưa ra cách
tính sai lệch về việc điều chế vắc-xin bệnh than được sử dụng trong thử nghiệm
ở Pouilly-le-Fort. Max
Perutz đã xuất
bản nhiều bài bảo vệ Pasteur trên New York Review of Books. Thực tế là Pasteur tuyên bố công khai thành
công của ông trong việc phát triển vắc-xin bệnh than năm 1881. Tuy nhiên, một bác sĩ thú y Toussaint là
người đã phát triển vắc-xin này đầu tiên. Toussaint đã cô lập vi khuẩn Gram-âm cholera des poules (sau này được đặt tên có thêm chữ irony Pasteurella để vinh danh Pasteur) năm 1879 và đã đưa ra
các mẫu để Pasteur sử dụng trong các công trình của ông (Pasteur). Năm 1880 với
công bố của ông vào 12 tháng 7 tại Viện hàm lâm khoa học Pháp, Toussaint đã
trình bày kết quả thành công của mình với một loại vắc-xin chống lại bệnh than
trên chó và cừu. Pasteur hoàn toàn tự hào về những tranh
luận ganh tị trong những khám phá bằng cách xuất bản những phương pháp vắc-xin
của ông trên Pouilly-le-Fort vào ngày 5 tháng 5 năm 1881. Thí nghiệm xúc tiến
thành công và đã giúp Pasteur bán sản phẩm của ông, và nhận được tất cả lợi
nhuận và vinh quang.
Đạo đức
trong thí nghiệm
Các thí nghiệm của Pasteur thường được bị chỉ trích là trái với
tiêu chuẩn y đức, đặc
biệt đối với vắc-xin của ông về Meister. Khi đó, ông không có bất kỳ kinh
nghiệm nào về thực hành y học, và quan trọng hơn là giấy phép hành nghề y. Điều
này thường được trích dẫn là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với uy tín nghề
nghiệp và cá nhân ông.[21] Thậm chí cộng sự thân cận nhất của ông là
Dr. Emile Roux đã từ chối hợp tác trong thử nghiệm lâm sàng bất công.[22] Nhưng Pasteur đã tiến hành thử nghiệm
vắc-xin trên một cậu bé dưới sự giám sát của bác sĩ Jacques-Joseph Grancher,
Trưởng phòng khám nhi khoa của bệnh viện Nhi Paris. Ông thậm chí còn không được
phép giữ ống tiêm, mặc dù việc tiêm chủng đã hoàn toàn dưới sự giám sát của
mình.[23] Người chịu trách nhiệm về tiêm là Grancher
và ông đã bảo vệ Pasteur trước Viện hàm lâm Y quốc gia
Pháp về vấn
đề này.[24] Vẫn đem lại cho ai đó một thử nghiệm lâm
sàng mà không cần chẩn đoán đúng là điều vô lý. (Meister đã không thể hiện
triệu chứng của bệnh dại tại thời điểm đó) Thứ hai, ông giữ bí mật về thủ tục
của mình và không đưa ra các thử nghiệm tiền lâm sàng thích hợp.
Nhưng những cáo buộc trên là không hoàn toàn chính xác. Ông còn
tiết lộ phương pháp của ông cho một nhóm nhỏ các nhà khoa học. Ông cũng đã thử
nghiệm tiêm chủng trong 40 con chó trước khi sử dụng của mình trong con người.[25][26][27]
Viện Pasteur
Viện Pasteur được Pasteur thành lập để duy trì cam kết của mình
để nghiên cứu cơ bản và ứng dụng thực tế của nó. Ông đã tập hợp nhiều nhà khoa
học với chuyên môn khác nhau. 5 bộ môn đầu tiên được chỉ huy bởi hai normaliens (tốt nghiệp sau đại học từ École
Normale Supérieure): Emile
Duclaux (trưởng
nhóm nghiên cứu chung về vi sinh vật) và Charles Chamberland (nghiên cứu vi sinh ứng dụng trong hygiene), cũng
như các nhà sinh vật học Ilya Ilyich Mechnikov (nghiên cứu hình thái vi sinh vật) và hai
bác sĩ, Jacques-Joseph Grancher (bệnh dại) và Emile Roux (nghiên cứu công nghệ vi sinh). Một năm sau
khi nhậm chức, ở viện, Roux đã thiết lập khóa học về vi sinh vật được giảng dạy
đầu tiên trên thế giới, với tiêu đề Cours
de Microbie Technique (khóa
học về công nghệ nghiên cứu vi sinh). Từ năm 1891, viện Pasteur đã mở rộng ở
nhiều nước trên thế giới, và hiện có 32 viện nghiên cứu ở 29 quốc gia trên thế
giới.[28]
Vinh quang
Pasteur được tôn vinh là "cha đẻ của ngành vi sinh vật
học". Ông chưa bao giờ chính thức học y khoa nhưng vẫn được coi là một thầy thuốc vĩ đại
và là Ân nhân của Nhân loại (Benefactor of Humanity).
Ông cũng là thành viên của rất nhiều Viện Hàn lâm tại Pháp cũng như ở nước ngoài. Nhiều ngôi làng và
đường phố trên thế giới mang tên ông. Có thể nói tài năng và cống hiến của ông
đã vượt qua biên giới địa lý và chính trị. Tại Việt Nam, những
con đường mang tên ông từ thời kỳ thuộc địa đã không hề thay đổi cho đến hôm
nay mặc dù các con đường khác mang tên danh nhân Việt Nam lại bị thay đổi qua
nhiều biến thiên thời cuộc.[29]
Louis Pasteur mất ngày 28 tháng
9 năm 1895 tại Marnes la Coquette, Paris. Thi hài của ông được lưu giữ trong giáo đường trong lòng Viện
Pasteur chứ không phải ở Điện Panthéon như dự
định trước đó. Rất nhiều tượng đài được xây dựng để tưởng nhớ đến ông. Những
vật dụng thường ngày cũng mang hình Pasteur (tem, giấy bạc...). Có thể nói
Pasteur là một trong những nhà khoa học người Pháp nổi tiếng nhất trên thế giới
Timbre-poste (50 c)..
Các giai thoại
Lần nọ, có một sinh viên đại học ở Paris
ngồi cạnh một người đàn ông lớn tuổi trên một đoàn tàu. Khi thấy ông già đang
lần chuỗi Kinh Mân
Côi, cậu này nói:
"Bây giờ mà cụ còn tin vào điều lỗi thời này sao?". Ông
già đáp:
"Vâng, thế còn cậu?". Anh sinh viên cười một
cách tụ đắc mà nói:
"Tôi không tin vào những điều ngớ ngẩn như vậy. Xin cụ nghe
tôi, ném bỏ cái chuỗi hạt kia ra cửa sổ và tìm hiểu về khoa học đi thôi".
Người đàn ông nói:
"Khoa học không hiểu được thứ này. Cậu giải thích cho tôi
đi".
Chàng sinh viên hí hửng nói:
"Xin cụ vui lòng cho tôi địa chỉ, tôi sẽ gửi cho cụ một số
tài liệu khoa học để giải thích vấn đề này cho cụ".
Người đàn ông mò mẫm bên trong túi áo khoác và lấy ra một danh
thiếp. Vừa đọc tấm danh thiếp, cậu sinh viên cúi đầu xuống trong sự xấu hổ và
không nói thêm được một lời. Tấm danh thiếp viết:
Joseph Meister, bệnh
nhân đầu tiên bị chó dại cắn được dự phòng khỏi bệnh nhờ vaccine phòng bệnh dại
sau này trở thành người gác cổng của Viện Pasteur ở Paris.
Năm 1940 khi Đức xâm chiếm thành phố này, quân đội Đức đã
buộc Joseph Meister phải mở hầm mộ của Pasteur.
Thay vì tuân lệnh, Joseph Meister đã tự vẫn để không bao giờ xúc
phạm đến thi thể ân nhân cứu mạng của mình.[31]
Các tác phẩm chính
Các công trình chính của Pasteur gồm:
Tiếng Pháp Năm
Tạm dịch
Études sur le Vin 1866 Các nghiên cứu về rượu vang
"Études sur le Vinaigre" 1868 Các nghiên cứu về giấm
"Études sur la Maladie des Vers à Soie" (2
volumes) 1870 Các nghiên cứu về bệnh tằm tơ
"Quelques Réflexions sur la Science en France" 1871 Một
số phản ảnh về khoa học ở Pháp
"Études sur la Bière" 1876 Các nghiên cứu về bia
"Les Microbes organisés, leur rôle dans la 1878 Tổ chức vi sinh vật, vai trò của chúng
Fermentation, la Putréfaction
et la Contagion'" trong
việc lên men, thối rữa, và nhiễm trùng
"Discours de Réception de M.L. Pasteur 1882 Phát biểu của Mr L. Pasteur khi được
à l'Académie française" tiếp
nhận vào Viện hàm lâm Pháp (Académie française)
No comments:
Post a Comment