Cách nay đúng 491 năm, vua Lê Cung Hoàng bị ép nhường
ngôi cho Mạc Đăng Dung. Chấm dứt nhà Lê (sơ)
Ngày 12
tháng 07, 1527
·
1527 – Lê Cung Hoàng ra chiếu
nhường ngôi cho Mạc Đăng Dung, kết thúc triều Lê sơ và mở đầu triều Mạc trong lịch sử Việt Nam.
Nhà Mạc
Nhà Mạc
Đại Việt
Nhà Mạc
Mạc triều (莫朝)
Đế quốc
1527–1677
Tôn
giáo | Tam
giáo quy nguyên
Lịch
sử
Thành
lập |
1527
Tàn
dư họ Mạc chấm dứt |
1677
Bãi
bỏ |
1677
Một họa
phẩm được in trong cuốn An Nam lai uy đồ sách:
Người đứng trong chính điện là sứ thần triều
Minh, người lạy chào là Thái
thượng hoàng Mạc Đăng Dung (dòng chữ: Ngụy vương Mạc Đăng
Dung / 偽王莫登庸);
địa điểm này là trấn Nam
Quan, năm 1540.
Nhà Mạc (chữ Hán: 莫朝 /
Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã ép vua Lê Cung Hoàng nhà Hậu Lê nhường ngôi tháng 6 năm 1527 và chấm
dứt khi vua Mạc Mậu Hợp bị quân đội Lê-Trịnh do Trịnh Tùng chỉ huy đánh bại vào cuối năm 1592– tổng cộng thời gian tồn tại chính thức của triều đại là
gần 66 năm.
Chân dung Trịnh Tùng trong Trịnh
gia chính phả
Tuy nhiên, giai đoạn sau đó hậu duệ nhà Mạc
như Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ vẫn còn tiếp tục chống lại nhà Hậu Lê thời kỳ trung hưng đến tận năm 1677 tại khu vực Cao Bằng.
Thời kỳ 1533-1592 trong lịch sử Việt Nam còn được gọi là thời kỳ Nam-Bắc
triều, do chính quyền nhà Mạc chỉ thực sự có
quyền lực từ địa phận Ninh Bình ngày nay
trở ra, còn từ Thanh Hóa trở vào là thế lực lấy danh nghĩa gây dựng lại nhà Lê từ năm 1533.
Nội chiến Lê-Mạc
Sau khi nhà Mạc nắm quyền, các quyền thần cũ nhà Lê không theo
nhà Mạc đã có một số hoạt động chống đối như cầu viện nhà Minh hoặc nổi dậy nhưng đều không thành. Chỉ đến
khi nhà Hậu Lê tái lập
thì chiến tranh quy mô mới thực sự bắt đầu.
Nguyễn
Kim khởi nghĩa, họ Vũ cát cứ
Năm 1529, một võ tướng cũ của nhà Lê là Nguyễn
Kim không
thần phục nhà Mạc, bỏ chạy vào miền núi Thanh Hoá và sang Ai Lao (Lào), tập
hợp lực lượng chống nhà Mạc.
Năm 1533, Nguyễn Kim tìm một người tên là Lê Duy Ninh là con của
vua Lê Chiêu Tông đưa lên
ngôi trên đất Sầm Châu (Ai Lao), tức là vua Lê Trang Tông.
Tuy nhiên các nhà sử học nghi ngờ Duy Ninh không phải là con của
vua Chiêu Tông vì tuổi của Duy Ninh và Lê Chiêu Tông chênh
nhau quá ít
Từ khi Trang Tông lên ngôi, nhiều sĩ phu, tướng lĩnh bắt đầu tập
hợp bên Nguyễn Kim để chống nhà Mạc. Năm 1540, Mạc Thái Tông chết.
Thượng hoàng Mạc Đăng Dung lập cháu nội là Mạc Phúc Hải lên
ngôi, tức là Mạc Hiến Tông. Năm sau, thượng hoàng Đăng Dung
chết.
Năm 1543, quân nhà Lê về nước đánh chiếm Tây đô (Thanh Hoá). Hoạn quan nhà Mạc là
Dương Chấp Nhất đầu hàng. Năm 1545, Chấp Nhất dâng dưa độc cho Nguyễn Kim, Kim
ăn vào chết. Chấp Nhất bỏ trốn về nhà Mạc.
Ở phía tây bắc, vùng Hưng Hoá (Tuyên
Quang), anh em Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên (Chúa Bầu) là
thủ lĩnh trong vùng cát cứ không thần phục nhà Mạc.
Nhà Mạc vài lần mang quân đánh nhưng không diệt được họ Vũ, sau
lại phải đối phó với nhiều biến cố khác nên buộc phải để họ Vũ cát cứ. Họ Vũ
sai người liên lạc theo về nhà Lê trung hưng.
Phụ chính
Mạc Kính Điển
Năm 1546, Mạc Hiến Tông chết,
con là Mạc Phúc Nguyên còn nhỏ lên thay, tức là Mạc Tuyên Tông, chú là Khiêm vương Mạc Kính Điển làm phụ
chính.
Trong triều xảy ra biến loạn. Tướng Phạm Tử Nghi muốn
lập con Mạc Thái Tổ là Hoằng vương Mạc Chính Trung đã trưởng thành nhưng không
được nên cùng Chính Trung khởi binh nổi loạn. Phạm Tử Nghi nhiều lần muốn đánh
chiếm Đông Kinh không thành, bèn đem Chính Trung ra chiếm cứ Yên Quảng (Quảng
Ninh), cướp phá Hải Dương và đánh phá sang Trung Quốc khiến nhà Minh lo ngại.
Đến năm 1551 Mạc Kính Điển dẹp được Phạm Tử Nghi. Tử Nghi bị
chém, Chính Trung bỏ chạy và bị giết. Có thuyết nói Tử Nghi chết về tay người
Minh.
Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly quyền thế quá lớn, có phần hống hách,
hai sủng thần là Phạm Quỳnh, Phạm Dao cậy thế vua Mạc vây đánh.
Bá Ly cùng thông gia là Nguyễn Thiến mang gia quyến gồm các
tướng Nguyễn Quyện, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc Thận chạy vào Thanh Hóa hàng
theo nhà Lê.
Tuy nhiên sau vài năm, khi Nguyễn Thiến và Lê Bá Ly chết, các
con là Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận lại về theo nhà Mạc và Nguyễn Quyện trở thành
danh tướng nhà Mạc.
Năm 1562, Mạc Tuyên tông mất, con là Mạc Mậu Hợp mới 2
tuổi lên nối ngôi. Việc chính sự đều do Khiêm vương Kính Điển điều hành.
Bấy giờ nhà Lê chiếm lại được Thanh Hóa và Nghệ An. Năm
1558, con thứ Nguyễn Kim là Nguyễn Hoàng sợ bị
anh rể Trịnh Kiểm hại như anh cả Nguyễn Uông nên xin vào trấn thủ Thuận Hoá. Năm
1570, Trịnh Kiểm lại giao cho Hoàng trấn thủ nốt Quảng Nam. Năm
1572, Hoàng dùng kế giết được tướng Mạc là Mạc Lập Bạo vào đánh. Nhà Mạc mất
hẳn phía nam và chỉ còn kiểm soát Bắc Bộ.
Năm 1570, Trịnh Kiểm chết, hai con Trịnh Cối, Trịnh
Tùng tranh
ngôi. Trịnh Cối thua phải sang đầu hàng nhà Mạc. Tuy nhiên Trịnh Tùng là người
thay thế xứng đáng của Trịnh Kiểm nên vẫn duy trì được thế cân bằng với nhà
Mạc.
Trong suốt những năm 1545-1580 là giai đoạn hai bên giằng co,
khi thì Trịnh Kiểm và sau
này là Trịnh
Tùng dẫn
quân ra đánh Sơn Nam, Ninh Bình, Sơn Tây, Thăng Long, khi thì Mạc Kính Điển cho
quân tấn công Thanh Hóa - Nghệ An. Mạc Kính Điển nhiều lần phải mang vua Mạc
qua sông tránh sang Kim Thành (Hải Dương) nhưng quân Lê vẫn không vào được
Thăng Long. Hai bên khi được khi thua. Cuộc chiến giằng co nổi lên tên tuổi các
tướng Hoàng Đình Ái, Nguyễn Hữu Liêu bên Lê, Nguyễn Quyện bên
Mạc.
Tháng 10 năm 1580, Mạc Kính Điển mất, em là Mạc Đôn Nhượng lên
thay làm phụ chính. Lực lượng quân đội nhà Mạc suy yếu đi nhiều vì thiếu đi
người chỉ huy có tầm cỡ và uy tín.
Mạc Đôn Nhượng
Mất Thăng
Long
Mạc Mậu Hợp từ nhỏ lên ngôi, khi lớn vẫn dựa vào các hoàng cha
chính, không chú trọng việc chính sự. Sau khi Mạc Kính Điển chết, việc trong
ngoài đều trông chờ vào Mạc Đôn Nhượng cùng các tướng Nguyễn Quyện, Mạc Ngọc Liễn, Bùi
Văn Khuê. Uy thế quân Mạc suy sút nhiều và thường bị thua trận.
Năm 1591, Trịnh Tùng đem quân bắc tiến áp sát thành Thăng Long.
Đầu năm 1592, Mạc Mậu Hợp chạy sang Gia Lâm, thống suất thủy quân để làm thanh
thế trên sông Nhị Hà cho các tướng giữ thành Thăng Long. Trịnh Tùng thúc quân
tổng tiến công. Các tướng Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê, Trần Bách Niên tan vỡ bỏ
chạy. Phục binh của Nguyễn Quyện ở cầu Dền không kịp nổi dậy đã bị giết. Nguyễn
Quyện bị bắt, hai
con tử trận. Quân Mạc chết rất nhiều.
Trịnh Tùng rút quân chủ lực về. Mạc Mậu Hợp thu tàn quân án ngữ
sông Nhị Hà, lại ham sắc đẹp của vợ tướng Bùi Văn Khuê là Nguyễn thị Niên nên muốn giết Khuê. Tháng 8 năm 1592, Khuê
biết chuyện bèn đem quân hàng Lê, hợp binh với Trịnh Tùng đại phá quân Mạc.
Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng lại tiến đánh Thăng Long. Mậu Hợp
thua chạy về Kim Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con là
Toàn lên ngôi, tự mình làm tướng thống suất quân đội. Sau các cuộc chiến đẫm
máu tại khu vực các phủ Nam Sách, Hạ Hồng, Kinh Môn trong tháng 11 và 12 thì
quân đội nhà Mạc chịu tổn thất cực kỳ nặng nề. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến
huyện Phượng Nhãn, bị bắt sống sau đó ít ngày và bị hành hình.
Tàn dư
Dù Mạc Mậu Hợp và sau đó là Mạc Toàn bị bắt và bị giết thì thế
lực của nhà Mạc chưa bị tiêu diệt hết. Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, cho đến đầu thế kỷ 17 thì các vùng như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao
Bằng vẫn thuộc quyền quản lý của nhiều người như Mạc Kính Chỉ, Mạc Kính Cung,
Mạc Kính Khoan là thân thuộc của nhà Mạc (thuộc chi Mạc Kính Điển). Tại các khu
vực này chiến trận vẫn tiếp diễn trong nhiều năm và nhân dân vẫn tiếp tục chịu
cảnh lầm than, đồng ruộng bị bỏ hoang.
Nhà Minh, vì muốn duy trì thế Nam Bắc triều ở Việt Nam có lợi cho họ nên can thiệp để
họ Mạc được cát cứ ở Cao Bằng. Khi
nhà Minh mất (1644), các vua Nam Minh - tàn dư nhà Minh - vẫn ủng hộ họ Mạc. Họ
Mạc nối nhau trấn giữ ở đây trong nhiều năm, đến con Kính Khoan là Kính Vũ. Mãi
đến khi nhà Minh mất hẳn (1662) về tay nhà Thanh, họ
Trịnh mới ra tay dẹp họ Mạc. Tới năm 1677, việc trấn giữ Cao Bằng của họ Mạc
mới chấm dứt.
Những người họ Mạc bị đổi sang họ khác. Về sau, nhân khi chính
sự Đàng Ngoài dưới
thời Trịnh
Giang rối
ren, năm 1739, hậu duệ của họ Mạc là Nguyễn Cừ, Nguyễn Tuyển lại nổi dậy khởi nghĩa chống Trịnh trong
vài năm.
Thành nhà
Mạc
·
Thành Nhà Mạc Lạng Sơn hiện nằm trong khu vực phường Tam Thanh,
thành phố Lạng
Sơn, dấu tích còn lại gồm 2 đoạn tường xây bằng đá giữa hẻm núi. Hiện
nay di tích thành Nhà Mạc ở Lạng Sơn đã được xếp hạng di tích lịch sử Quốc gia
và được đầu tư, tôn tạo đưa vào phục vụ du khách du lịch tham quan.
·
Thành nhà Mạc nằm ở trung tâm thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên
Quang hiện
nay. Theo sử sách ghi lại thành được xây vào năm 1592 đời nhà Mạc, và được sửa
chữa vào thời đầu nhà Nguyễn (thế kỷ 19). Thành được xây theo kiểu hình vuông,
mỗi cạnh dài 275m, cao 3,5m và dày 0,8m; mỗi mặt thành có một cửa hình bán nguyệt
với kiến trúc theo lối phòng thủ quân sự.. Thành đã được xếp hạng di tích lịch
sử Quốc gia và đang có nguy cơ xóa sổ.
·
Thành nhà Mạc ở tỉnh Cao Bằng là thành Nà Lự: khi
nhà Mạc chạy lên Cao Bằng (1594-1677), trong 83 năm, ba đời vua Mạc đóng đô ở
Cao Bình đã cho tu sửa, xây thành cao lên, có cổng thành kiên cố để phòng thủ,
đề phòng triều đình vua Lê – chúa Trịnh lên thôn tính. Nhưng có khả năng thành này
xây từ nhà Đường 618-802.
·
Thành nhà Mạc ở tỉnh Ninh
Bình là
thành Bình Sơn, thuộc xã Mai Sơn, Yên Mô, Ninh
Bình. Thành hiện còn đoạn dài khoảng 1 km, gần quốc lộ 1A. Gần
thành nhà Mạc là tuyến sông Nhà Mạc và nhiều di tích thời Mạc ở Ninh Bình.
·
Ở xã Cao Xá, Lâm Thao, Phú Thọ nhân dân vẫn truyền tục câu nói:
"Hăm mốt tháng chạp, gió đổ thành Mạc. Hăm hai tháng chạp, gió đổ thành
Dung" để nói về thành Nhà Mạc xây dựng dở chừng thì bị mưa bão làm sụp đổ
không thể xây dựng thành Thành được. Hiện nay, thường thường hàng năm vào những
ngày "hăm mốt, hăm hai tháng chạp" ở Cao Xá vẫn thường có mưa bão.
"Đầu Thành" là từ địa phương ở Cao Xá vẫn dùng để nói về địa điểm đoạn
đầu thành Nhà Mạc xây ở thôn Dục Mỹ. Hiện nay các dấu tích của Thành Nhà Mạc ở
Cao Xá hầu như không còn vì một thời kỳ nhân dân ở đây khai thác đất làm đường
sá, xây dựng nhà ở.
Ngoại giao
Giai đoạn
1528-1541
Rút kinh nghiệm từ thất bại của nhà Hồ do việc cướp ngôi nhà Trần, ngay sau khi
giành ngôi nhà Lê, Mạc Thái Tổ đã chủ
động tìm giải pháp thương lượng với nhà Minh. Tháng 2 năm 1528, ông sai sứ sang
nhà Minh "xin
được tạm coi việc nước vì con cháu họ Lê không còn ai thừa tự". Nhà
Minh tạm thời chưa có phản ứng nào đáng kể vì nội bộ cũng chưa hoàn toàn nhất
trí về cách phản ứng với tình hình Đại Việt.
Ngoài việc đi sứ, Mạc Thái Tổ còn sai người đút lót, tranh thủ
sự đồng tình của các quan vùng biên giới của nhà Minh. Năm 1529, anh em Trịnh
Ngung, Trịnh Ngang sang tố cáo nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê và cầu viện nhà Minh
nhưng bị sự ngăn cản của các quan trấn thủ vùng biên của nhà Minh, do đó ý định
của hai anh em họ Trịnh không thực hiện được.
Sau khi lập lập Lê Trang Tông lên
ngôi, Nguyễn
Kim sai
Trịnh Duy Liêu vượt biển sang Trung Quốc xin cầu viện nhà Minh đánh nhà Mạc. Chúa Bầu Vũ Văn Uyên ở Tuyên
Quang cũng
sai người sang tố cáo việc nhà Mạc cướp ngôi. Năm 1537, Minh Thế Tông giao
quân cho Mao Bá Ôn chuẩn bị tiến xuống phía nam. Nhà Mạc ở vào tình thế
"lưỡng đầu thọ địch".
Các nhà sử học đánh giá rằng: trên thực tế, Minh Thế Tông không
hoàn toàn có ý định dụng binh đánh Đại Việt vì ở
Trung Quốc khi đó cũng gặp những khó khăn: một
số khởi nghĩa nông dân nổ ra ở Hoa Bắc, "nuỵ khấu" người Nhật gây rối
dọc vùng ven biển Giang Tô, Chiết
Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, được sự thông đồng của các phú thương người Hoa vừa buôn bán vừa cướp bóc; người Bồ Đào Nha bắt đầu
nhòm ngó Áo Môn.
Chính vì vậy, vua Minh theo chủ trương phô trương thanh thế bên
ngoài, kích động cuộc nội chiến giữa nhà Hậu Lê và nhà
Mạc và ép nhà Mạc hàng phục. Ý định chống cự quân Minh của nhà Mạc sớm tiêu tan
vì không hề nắm bắt được những khó khăn mà nhà Minh đang phải đương đầu. Tháng
2 năm 1539, nhà Mạc dâng biểu sang nhà Minh xin hàng.
Nhà Minh sai Mao
Bá Ôn và Cừu Loan tiến áp sát biên giới, lấy danh nghĩa chỉ nhằm trừng phạt cha
con Mạc Đăng Dung nhằm
phân hoá người Đại Việt. Để tránh đổ máu, Mạc Đăng Dung chấp nhận đầu hàng.
Ngày 3 tháng 11 âm lịch năm 1540, Mạc Đăng Dung cùng
các bầy tôi Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị lên cửa ải. Ông tự trói
mình đến dâng biểu xin hàng quân Minh. Trong biểu xin hàng, Mạc Đăng Dung nhấn
mạnh 3 vấn đề:
2.
Giao nộp đất, gồm 2 đô Như Tích, Chiêm Lãng và 4 động Tư Lẫm,
Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát
3.
Xin ấn tín để được thừa nhận sự cai trị ở An Nam.
Mao Bá Ôn và Cừu Loan nhận biểu của Mạc Đăng Dung bèn lui binh,
tâu lên Minh Thế Tông. Vua Minh hạ lệnh:
1.
Lệnh cho Phiên ty Quảng
Tây hằng
năm cấp lịch Đại Thống cho nhà Mạc, quy định lệ 3 năm cống 1 lần
2.
Nhận và nhập 2 đô Như Tích, Chiêm Lãng và 4 động Tư Lẫm, Kim Lặc,
Cổ Sâm, Liễu Cát vào Khâm châu của Trung
Quốc
3.
Hạ An Nam quốc xuống An Nam Đô thống sứ ty, đúc ấn
và ban cho nhà Mạc.
Giai đoạn
1542-1592
Tuy đạt được mục tiêu bảo vệ toàn vẹn quốc gia, nhưng về mặt
ngoại giao, vị thế của nhà Mạc so với các triều trước không bằng: danh hiệu Đô thống sứ ty là vị thế nội thần chứ không phải ngoại
thần.
Sang thời Mạc Mậu Hợp, thái bảo Giáp
Trưng từng
dâng sớ xin triều đình bàn lại vì "việc
đó là nhục nước". Tuy nhiên sau khi bàn luận, Mạc Mậu Hợp do dự không quyết
định.
Năm 1542 bắt đầu đánh dấu mốc bình thường hoá trong quan hệ Mạc-Minh.
Đồ tiến cống từ giữa thời Mạc đổi ra lư hương, bình hoa bằng vàng bạc, nặng
bằng người vàng.
Năm 1548, đoàn sứ do Lê Quang
Bí dẫn đầu
sang cầu phong cho vua mới là Mạc Tuyên Tông bị nghi
ngờ giả mạo đã bị giữ lại. Lê Quang Bí bị giữ tới 19 năm tại Trung Quốc, năm
1566 mới được trở về. Khi đó Tuyên Tông đã mất, vua mới là Mạc Mậu Hợp khen
ngợi và phong làm Tô quận công, ví như Tô Vũ nhà Hán đi sứ Hung Nô.
Thời Mạc Mậu Hợp, nhà Mạc đã suy yếu, thường thất thế trước quân
Nam triều nhà Lê. Nhà Mạc dùng chính sách tăng cường ngoại giao, cống nạp cho
nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ khi bị thất thế, duy trì lệ tiến cống 6 năm 1
lần.
Năm 1592, họ Mạc rút chạy lên Cao Bằng. Nhà Hậu Lê xin cầu
phong của nhà Minh. Sau
lần hội khám năm 1597, nhà Minh vẫn chỉ phong cho Lê Thế Tông làm An Nam đô thống sứ ty như phong cho nhà Mạc trước đây. Đồng thời,
nhà Minh dùng uy thế "thiên triều" ép họ Trịnh cắt đất Cao Bằng cho họ Mạc cát cứ trong nhiều năm, tới năm
1677 mới chấm dứt.
Tổ chức quân đội
Nhà Mạc rất chú trọng xây dựng lực lượng quân đội đủ mạnh để bảo
vệ chính quyền. Trong cả nước, quân đội nhà Mạc được chia ra 4 vệ:
·
Binh lính Kinh Bắc thuộc vệ Kim Ngô
·
Binh lính Sơn Nam thuộc vệ Chiêu Vũ
Để khuyến khích tinh thần chiến đấu của quân sĩ trong thời
chiến, nhà Mạc có những ưu đãi cho lực lượng quân đội. Chính sách này đã giúp
nhà Mạc tạo nên một đội ngũ quân sĩ khá đông đảo và trung thành để bảo vệ quyền
lợi triều đình.
Kinh tế
Bài chi tiết: Thương mại Đại
Việt thời Mạc, Thủ công nghiệp
Đại Việt thời Mạc, và Nông nghiệp Đại
Việt thời Mạc
Mạc Thái Tổ đã đưa ra một số quy chế về ruộng đất bao gồm: binh
điền, lộc điền, quân điền, dựa trên các quy chế đã có từ thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông) hay việc cho đúc tiền Thông
Bảo.
Thời kỳ Mạc Thái Tông trị vì
có thể coi là thời kỳ đỉnh cao của nhà Mạc. Lúc đó nhà Lê chưa trung hưng, toàn
cõi do nhà Mạc cai quản, cảnh thịnh trị được các sử gia nhà Lê - triều đại đối địch với nhà Mạc - soạn Đại Việt sử ký toàn thư, phải ghi nhận: "đêm ngủ không đóng cửa, ngoài đường
không ai nhặt của rơi".
Nhưng từ khi Nguyễn
Kim nổi
dậy, chiến tranh nổ ra, đất nước bị tàn phá, kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Chiến tranh liên miên đã làm cho đời sống của người dân trở nên đói nghèo hơn.
Ví dụ năm 1572, sau
khi nhiều phen bị nạn binh đao thì tại Nghệ An lại phát dịch. Khâm định Việt sử Thông
giám Cương mục có viết
rằng: Các
huyện, đồng ruộng bỏ hoang nhân dân đói khổ. Dịch lệ lại phát sinh, người chết
đến quá nửa. Nhân dân xiêu giạt, hoặc tan tác vào Nam, ra Bắc. Trong cõi Nghệ
An đìu hiu vắng tanh.
Nhìn tổng thể, nhà Mạc có tư duy kinh tế cởi mở, sớm nhìn thấy xu thế tiến bộ của thủ công nghiệp, thương mại và kinh tế hàng hóa; điều đó khác hẳn với chính
sách bảo thủ của nhà Lê. Nhà Mạc cai trị trong 65 năm đã đưa vùng đông bắc giàu
mạnh lên, về ngoại thương đã vươn
tới thị trường các nước châu Á. Tuy
nhiên, kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào nông nghiệp theo
phương thức tiểu nông, tàn dư của phương thức sản xuất Á Đông cùng chế độ gia
trưởng với nền kinh tế manh mún, khiến mầm mống tư bản chủ nghĩa chớm
nảy sinh đã không phát triển được.
Văn học nghệ thuật
Văn học nhà Mạc chia làm 3 thể loại chính:
2/ Thơ ca: tiêu
biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nhậm Đại, Nguyễn Giản
Thanh, Phạm Thiện, Hoàng Sĩ Khải, Nguyễn Hàng. Thể loại thơ vịnh thời Mạc khá
phát triển với những chủ đề mới, thay cho thể loại ca tụng triều đình phổ biến
dưới triều Lê Thánh Tông là mảng thơ phú điền viên, ẩn dật với thiên nhiên.
3/ Truyện ký: tiêu
biểu là Dương Văn An (tác phẩm Ô châu cận lục) và Nguyễn
Dữ (tác phẩm Truyền kỳ mạn lục).
Nghệ thuật thời Mạc chủ yếu là trong lĩnh vực kiến trúc và trang
trí, thể hiện ở những công trình xây dựng trong cung đình, chùa chiền và tại
các làng xã.
Công trình cung đình quan trọng thời Mạc chủ yếu ở Dương Kinh
([di tích hiện tại ở Cổ Trai, huyện Kiến Thụy, Thành phố Hải Phòng) – quê hương
nhà Mạc như điện Phúc Huy, điện Hưng Quốc, điện Sùng Đức. Công trình xây và tu
bổ chùa thời Mạc tại các địa phương gồm có: Hải Phòng 27 chùa; Hải Dương và
Hưng Yên 36 chùa; Hà Tây cũ 28 chùa.
Từ thời Mạc, đình làng được dùng làm nơi sinh hoạt cộng đồng
làng xã. Hai ngôi đình nổi tiếng nhất thời kỳ này là đình Đông Lỗ và đình Tây
Đằng. Nghệ thuật kiến trúc và trang trí thời Mạc được đánh giá là đã tạo một
bước ngoặt lớn trong lịch sử nghệ thuật Việt Nam.
Tôn giáo tín ngưỡng
Nhà Mạc vẫn theo pháp độ cũ của nhà Lê từ hệ tư tưởng đến mô
hình thiết chế nhà nước, lấy Tống
nho làm tư
tưởng cai trị chính, tuy
nhiên không hạn chế các tôn giáo khác như đạo Phật, đạo Giáo như nhà Lê Sơ. Các quan lại và người trong
hoàng tộc nhà Mạc đã cúng tiến nhiều đất cho nhà chùa và xây cất, tu bổ nhiều
chùa.
Việc truyền đạo Thiên chúa vào Đại Việt bắt đầu
được xúc tiến từ năm 1533 thời Mạc Hiến Tông nhưng
chưa thu được kết quả. Năm 1581 thời Mạc Mậu Hợp, các nhà truyền giáo lại đến, nhưng vì
ngôn ngữ bất đồng nên cuối cùng giáo đoàn phải trở về Ma Cao.
Thi cử và chính
sách dùng người
Thi cử
Nhà Mạc rất chú trọng tới nhân tài từ tuyển chọn qua đường thi
cử. Tuy chiến tranh, nhưng nhà Mạc cũng chú ý đào tạo và xây dựng hệ thống quan
lại thông qua 22 kỳ khoa cử với chu kỳ ba năm một lần, bắt đầu từ năm 1529 và chấm
dứt năm 1592. Chẳng hạn năm 1535, nhà
Mạc mở khoa thi Hội, lấy Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Khắc Đốc, Nguyễn Thừa Hưu
đỗ tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Di Lượng cùng 6 người khác đỗ tiến sĩ xuất thân;
Nguyễn Trùng Quang cùng 21 người khác đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
Một ghi nhận nữa là tận năm 1592, khi chiến sự bên bờ nam sông Hồng diễn ra ác liệt trước cuộc tổng tấn công
của quân Lê Trịnh, vua Mạc Mậu Hợp vẫn tổ chức thi ở Bồ Đề bên kia
sông theo đúng định kỳ để lấy được 18 tiến sĩ. Trong 65 năm tồn tại ở Thăng
Long, nhà Mạc mở 21 kỳ thi Hội, lấy đỗ 485 Tiến sĩ và 13/46 trạng nguyên trong 800 năm thi cử Nho học thời phong
kiến Việt Nam.
Khi rút lên Cao Bằng, họ Mạc vẫn tổ chức thi cử để lấy người
hiền tài. Có một kỳ thi người đỗ đầu là một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Duệ tức Nguyễn thị Du
Cách trân trọng nhân tài của nhà Mạc được tác giả Nguyễn Bá Trác thế kỷ 19, tác
giả Hoàng
Việt Giáp tý niên biểu nhắc
tới mấy chữ dư âm: "Mạc
thị sùng Nho" - Họ
Mạc sùng đạo Nho.
Người cựu
triều
Trong sách "Nhà Mạc và vấn đề nguỵ triều trong sử
sách", các
nhà nghiên cứu ghi nhận nhà Mạc đã mạnh dạn sử dụng quan lại cũ của nhà Lê,
điển hình là 4 trạng nguyên đỗ thời Lê sơ: Nguyễn Giản Thanh, Hoàng Văn Tán, Ngô Miễn Thiệu, Trần Tất Văn.
Ngoài ra, trong quá trình "bình định thiên hạ", Mạc Thái Tổ đã
"thu phục" nhiều tướng lĩnh giỏi của nhà Lê như Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Vũ Hộ, Phạm Gia Mô...
những người đắc lực giúp ông mở ra nhà Mạc.
Cởi bỏ
thù hằn
Không chỉ dám dùng người cựu triều thù địch, nhà Mạc còn dám
trọng dụng cả những người từng theo địch trở về. Điều này được các nhà chuyên
môn đánh giá rất cao.
Vụ ly khai của hai nhà thông gia Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến năm
1550 kéo theo một loạt con em của hai họ này, cũng đều là đại thần nhà Mạc như Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn, Nguyễn Khải Khang, Lê Khắc
Thận. Nhưng tới năm 1558, khi hai cha già họ Lê và họ Nguyễn qua đời, Nguyễn
Quyện, Nguyễn Miễn trở về theo Mạc và được trọng dụng không chút nghi ngờ. Miễn
được gả công chúa làm phò mã, Quyện trở thành cha vợ vua (Mậu Hợp) rồi sau đó liên
tiếp lập công đánh bại quân Lê Trịnh, thành danh tướng Bắc triều. Kết quả đó
lôi kéo Lê Khắc Thận, dù đã làm tới thái phó của Lê Trịnh vẫn vượt luỹ về Mạc
năm 1572.
Thật hiếm triều đại nào có chính sách dùng người cởi mở, bao
dung trong thời kỳ loạn lạc như nhà Mạc, nếu so sánh những sự kiện trên với các
triều đại khác. Sự bao dung của nhà Lý, nhà Trần với vài thủ lĩnh nổi dậy chỉ là cách đối
phó để giữ miền biên xa xôi, không dùng với tướng sĩ "người miền
xuôi" đã phản.[cần dẫn nguồn] Hậu Trần Giản Định Đế nghi
ngờ Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân từng
phục vụ nhà Hồ và hàng quân Minh nên giết 2 tướng giỏi; Lê Thái Tổ giết
hết các người Việt từng
theo phục vụ quân Minh; Lê Thánh Tông giết
đại thần Lê Lăng vì từng ủng hộ Lê Khắc Xương lên ngôi... Có lẽ nhà Mạc đã học
được tấm gương của Tề Hoàn Công thời Xuân Thu dám dùng Quản Trọng, dù từng có cái thù bắn tên vào đai áo.[cần dẫn nguồn]
Chính sách dùng người của nhà Mạc còn được đời sau ca ngợi. Sách Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ cuối
thời Lê trung hưng ghi: "cái
đức chính của thời Minh Đức (niên hiệu của Mạc Thái Tổ) và Đại Chính (niên hiệu
của Mạc Thái Tông) nhà Mạc vẫn còn cố kết ở lòng người chưa quên. Vậy nên thời
vận đã về nhà Lê mà lòng người hướng theo nhà Mạc vẫn chưa hết...".
Nhận định
Giành
quyền
Nhà Hậu Lê suy thoái, triều chính rối ren đánh giết lẫn nhau,
các vua quỷ Uy Mục đế, vua lợn Tương Dực đế và Chiêu Tông đều không đủ năng lực
cầm quyền, các quyền thần họ Trịnh, họ Nguyễn đều chứa chấp mưu đồ riêng, nông
dân nổi dậy khởi nghĩa. Mạc Đăng Dung đã xuất hiện trong bối cảnh đó và chỉ
trong chưa đầy 10 năm ông đã dẹp yên tình hình nước Đại Việt. Việc nhà Mạc thay
thế một nhà Hậu Lê không còn đủ năng lực và bị thiên hạ chán ghét là tất yếu
của lịch sử. Nếu dòng họ Mạc không nổi dậy thì các dòng họ thế tộc khác cũng
làm điều tương tự trong bối cảnh lúc đó. Giáo
sư Trần Quốc Vượng cho
rằng sự thay thế nhà Lê của Mạc Đăng Dung là "hợp với đời và đạo".
Nội trị
Thời kỳ thịnh trị của Mạc Thái Tông cho thấy năng lực trị nước
của nhà Mạc không kém nhà Lê. Đời sống nhân dân no đủ, xã hội ổn định, không
gây những xáo trộn như khi nhà Hồ thay nhà Trần. Những
lực lượng chống đối nhà Mạc chính là những thế lực cũ thân nhà Lê. Theo sử
sách, thời Mạc không có một cuộc khởi nghĩa nông dân nào. Điều đó cho thấy nhà
Mạc được lòng dân. Sách Đại
Việt Thông sử của Lê Quý Đôn phải
thừa nhận Thái Tổ Mạc Đăng Dung "được lòng người hướng về". Sau khi
Hiến Tông qua đời, các vua Mạc lên thay đều là ấu chúa, biến loạn trong ngoài
rất nhiều nhưng nhà Mạc vẫn đứng vững. Ngoài năng lực của người phụ chính, hẳn
phải có nền tảng là sự ủng hộ của nhân dân Bắc Bộ lúc đó. Việc họ Mạc tiếp tục
cát cứ tại Cao Bằng, ngoài sự can thiệp của nhà Minh, nếu
không được lòng người thì không thể tồn tại tới 80 năm.
Đặc biệt, nhà Mạc rất coi trọng việc phát hiện nhân tài, do đó
dù chiến tranh liên miên nhưng các kỳ thi vẫn tổ chức khá đều đặn. Ngay cả khi
cát cứ trên Cao Bằng, việc thi cử vẫn còn duy trì.
Một đặc điểm nữa là cả năm đời vua nhà Mạc không có nạn quyền thần trong thời gian cai trị, dù nhà Mạc khởi
nghiệp từ một quyền thần trong triều Lê. Đó là điều mà các triều đại Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn trong suốt chiều dài lịch sử Việt Nam đều gặp
phải. Do đó thời Mạc không có việc phế lập, khuynh loát trong cung đình. Duy
nhất vụ "bất đồng chính kiến" trong việc lập người thừa kế (Mạc Phúc Nguyên và
Chính Trung) năm 1546 - 1551 đã bị đánh dẹp.
Về ngoại
giao
Về ngoại giao, một số nhà sử học lên án hành động tự trói mình,
tạ tội, đầu hàng nhà Minh của Mạc Đăng Dung ở biên giới năm 1540, vì điều đó
làm mất thể diện của nước Đại Việt. Nhưng cũng có người cho rằng trong bối
cảnh lúc đó, việc này là bắt buộc không còn lựa chọn khác. Ở Thanh Hoá, nhà
Lê đánh ra, tại Tuyên
Quang, chúa Bầu họ Vũ chưa dẹp được. Phía bắc, nhà Minh uy hiếp. Kẻ thù nguy hiểm nhất chính là
người phương Bắc. Có lẽ Mạc Đăng Dung không muốn lặp lại thảm kịch của nhà Hồ sau khi thay ngôi nhà Trần nên buộc phải
hành động như vậy, vì nếu đối đầu, nhà Mạc chắc chắn sẽ thất bại. Các nhà
nghiên cứu ủng hộ quan điểm này còn cho rằng, chính vì hổ thẹn và suy sụp sau
hành động này mà Mạc Đăng Dung, vốn đã cao tuổi, nên ốm và mất không lâu sau
đó. Sự nhẫn nhục của Mạc Đăng Dung không những trực tiếp cứu nhà Mạc mà còn
gián tiếp cứu nhà Lê trung hưng, bởi nếu nhà Mạc bị nhà Minh
diệt như nhà Hồ thì nhà Lê cũng sẽ bị nhà Minh diệt như nhà Hậu Trần.
Sau khi thất thế, nhà Mạc tiếp tục dựa vào ảnh hưởng của nhà
Minh để tồn tại ở Cao Bằng, nhưng tuyệt nhiên không mượn quân nhà Minh. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, đại thần Mạc Ngọc Liễn (vốn là
người khác họ được cải họ vua) trước khi mất tại Trung Quốc đã dặn lại vua tôi họ Mạc rằng:
"Nay khí vận nhà Mạc
đã hết, họ Lê lại phục hưng... Dân ta là dân vô tội mà để phải mắc nạn binh
đao, sao lại nỡ thế!... Nếu thấy quân họ đến thì ta nên tránh, chớ có đánh
nhau, nên cẩn thận mà giữ là hơn. Lại chớ nên mời người Minh vào
trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn không gì nặng
bằng". (Đại Việt sử ký toàn thư, quyển 17)
Các đời sau họ Mạc đã làm đúng như Mạc Ngọc Liễn dặn lại. Thua
trận, phải rời khỏi ngôi cai trị nhưng không cố giành giật lại bằng mọi giá,
điều đó nhà Mạc hơn nhà Hậu Lê, nhà Nguyễn sau này.
Chính
thống
Nhà Mạc cuối cùng bị mất ngôi khi nhà Lê hồi phục nhờ sức quyền
thần nên các sử gia của triều đại thắng trận ra sức hạ thấp nhà Mạc trong sử
sách.Do sự chi phối quan điểm của nhà Lê và nhà nguyễn, Nhà Mạc bị gọi là
"ngụy triều". Tuy nhiên, nếu căn cứ vào những gì nhà Mạc đã làm, đây
thực sự là một vương triều tuy thời gian tồn tại ngắn, nhưng có vai trò tích
cực nhất định trong lịch sử Việt Nam. Nhà Lê dù thắng trận nhưng về
thực chất thì không còn, cơ nghiệp nhà Lê trung hưng thực ra là cơ nghiệp họ
Trịnh.
Giáo sư sử học Văn Tạo trong bài viết "Nhà Mạc và vấn đề ngụy
triều" đã vạch rõ: Họ
Trịnh và họ Nguyễn lấy tiếng là giúp nhà Lê nhưng thực ra là lo làm lợi cho
mình. Họ Trịnh phù Lê nhưng lại phế truất và giết các vua Lê. Họ Nguyễn phù Lê
nhưng chỉ lo phát triển cơ đồ riêng và cái cớ chống họ Trịnh. Giáo sư Tạo nhấn mạnh: "Mạc là ngụy
công khai, Trịnh Nguyễn là ngụy giấu mặt".
Cách nói "nguỵ" cũng chỉ là theo quan điểm của các sử
gia thời phong kiến. Các
nhà sử học ngày nay đã thay đổi quan điểm này và nhà Mạc đã được nhìn nhận như
một triều đại bình đẳng với các triều đại "chính thống" khác.
Nguyên
nhân thất bại
Lực lượng chống đối nhà Mạc, cụ thể là lực lượng nhân danh nhà
Lê, những người ủng hộ nhà Lê còn mạnh. Vấn đề chính thống chỉ có một vai trò
nhất định, vì Nam triều hay Bắc triều đều có lý lẽ của mình. Bắc triều dù là
người đi cướp ngôi, nhưng từ Lê Uy Mục, nhân
dân đã chán ghét nhà Lê. Nam
triều dù đã mất uy tín nhưng với một bộ phận nhân dân, nhất là vùng "căn
bản" quê hương nhà Lê (Thanh Hoá) trở vào còn nhớ công lao đánh
quân Minh của nhà Lê. Do đó, khi yếu tố chính trị không đóng vai trò quyết định
thì vấn đề nhân sự sẽ quyết định.
Theo giáo sư Văn Tạo, về chính trị và kinh tế, tuy nhà Mạc đã
khiến đất nước giàu mạnh lên trong thời kỳ đầu, nhưng địa bàn hoạt động của nhà
Mạc bị bó hẹp, kẹp giữa một bên là nước lớn Trung Quốc, một bên là Nam triều
trỗi dậy cùng tư tưởng "hoài Lê", không có điều kiện mở rộng như các
chúa Nguyễn ở phía Nam sau này.
Bản thân các tập đoàn chống Mạc đã có những chính sách phù hợp
và lực lượng nhân sự đủ tài năng để đối phó với nhà Mạc nên trong một thời gian
dài Nam triều đứng vững trước các cuộc tấn công của nhà Mạc. Thời hậu kỳ (sau
khi Mạc Kính Điển chết), nhà Mạc không còn lực lượng nhân sự đủ mạnh, nhất là
vua Mạc Mậu Hợp không
đủ năng lực và phạm phải sai lầm nên đã thất bại về quân sự. Trong cuộc chiến
trường kỳ đó, khi đã thất bại về quân sự thì chính trị của nhà Mạc cũng trở nên
yếu thế trước khẩu hiệu "phù Lê" và nhà Mạc thành kẻ bại trận cuối
cùng.
The Mạc still control northeast Vietnam but
their territory was shrinking.
Mạc dynasty dragon head, stone
Các vua nhà Mạc
Tuyên Tông |
Vĩnh Định(1547) | Mạc Phúc Nguyên |
?-1561 | 1547-1561 | Duệ
Hoàng đế (睿皇帝)
Cảnh Lịch(1548-1553)
Quang Bảo(1554-1561)
Cảnh Lịch(1548-1553)
Quang Bảo(1554-1561)
Anh Tổng | Thuần Phúc(1562-1566) | Mạc Mậu Hợp |
?-1592 | 1562-1592 | An
Thiên Huy Địa
Sùng Khang(1566-1578) | | Trang Văn Cần Vũ
Diên Thành(1578-1585) | | Bình Định Huệ
Đoan Thái(1586-1587) | | Cương Hiếu Tĩnh
Hưng Trị(1588-1590) | | Hoàng đế
Hồng Ninh(1591-1592) |
Sùng Khang(1566-1578) | | Trang Văn Cần Vũ
Diên Thành(1578-1585) | | Bình Định Huệ
Đoan Thái(1586-1587) | | Cương Hiếu Tĩnh
Hưng Trị(1588-1590) | | Hoàng đế
Hồng Ninh(1591-1592) |
|
Địa An Văn Đoạt Vũ Thành Hoàng đế (开天冲地安文奋武成皇帝)
Lưu ý:
a/ Mạc Toàn thực sự không còn quyền lực gì.
b/ Giữa thời Mạc Hiến Tông và Mạc Tuyên
Tông còn có Mạc Chính Trung tự xưng là vua nhà Mạc trong thời gian ngắn nhưng
không được Nhà Mạc công nhận.
c/ Giai đoạn hậu kỳ Nhà Mạc sau khi Bắc triều
sụp đổ gồm có Mạc Kính Chỉ (niên
hiệu Bảo Định và Khanh Hựu 1592-1593), Mạc Kính Cung (niên
hiệu Kiền Thống 1593-1594), Mạc Kính Khoan (niên
hiệu Long Thái 1594-1628) và Mạc Kính Vũ (Mạc
Kính Hoàn, niên hiệu Thuận Đức 1628-1677).
Thế phả vua Mạc
1 Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) 1526 - 1529
2 Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) 1530 – 1540
3 Mạc
Hiến Tông (Mạc Phúc Hải) 1541 – 1546
4 Mạc
Tuyên Tông (Mạc Phúc Nguyên) 1547 – 1561
5 Mạc Mục Tông hay Mạc Anh Tổ (Mạc Mậu Hợp 1562 – 1592
6 Mạc
Cảnh Tông (Mạc Toàn) 1592 – 1592
7 Mạc Mẫn Tông (Mạc
Kính Chỉ) 1592 – 1593
8 Mạc Đại Tông (Mạc Kính Cung) 1593
– 1621
9 Mạc Quang Tổ (Mạc Kính Khoan) 1621
- 1638
10 Mạc Minh Tông (Mạc Kính Vũ) 1638 - 1677
11 Mạc Quý Tông (Mạc Kính Hẻ hay Mạc Nguyên Thanh) 1677 - 1681
12 Mạc Đức Tông (Mạc Kính Tiêu hay Mạc Kính Quang) 1681 - 1683
Các quan lại, tướng
lĩnh
Xem thêm
MẠC ĐĂNG DUNG - Vĩ Nhân Lập Quốc Bị Lịch Sử Vùi Dập | Tiểu Sử Thái Tổ Mạc
Đăng Dung
Lập luận trong nước!
Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Mạc
No comments:
Post a Comment